← Quay lại trang sách

Chương 52

Tôi giảm bớt những cuộc hẹn bên hồ nước, cũng vì sắp đến ngày khai giảng. Tôi tin chắc rằng Lila, chính vì tôi phải đi học và làm bài tập, sẽ gạt tôi ra khỏi việc chuẩn bị đám cưới, cậu ấy đã quen với việc tôi biến mất trong suốt năm học. Nhưng chuyện không như vậy. Căng thẳng với Pinuccia đã tăng lên rất nhiều trong cả mùa hè. Không còn về quần áo, mũ, khăn quàng hay đồ trang sức. Một hôm Pinuccia nói rõ ràng với anh trai, trước sự có mặt của Lila, rằng hoặc là vợ chưa cưới của anh ta đến cửa hàng tạp hóa làm việc, không phải ngay lập tức thì chí ít là sau tuần trăng mật - làm việc như cả gia đình vẫn làm từ trước tới nay, như cả Alfonso vẫn làm mỗi khi không phải đi học - hoặc là chị ta sẽ không làm nữa. Và lần này bà mẹ đã công khai ủng hộ chị ta.

Lila không phản ứng gì, cậu ấy nói mình sẵn sàng bắt đầu ngay lập tức, nếu cần thì ngay ngày mai, làm bất kỳ vai trò nào mà gia đình Carracci giao phó. Câu trả lời đó, giống như tất cả những câu trả lời của cậu ấy từ trước đến nay, dù cậu ấy đang muốn hòa giải, vẫn mang ý gì đó cực đoan và khinh bỉ nên càng làm Pinuccia nổi xung. Rõ ràng con gái ông thợ giày, dưới con mắt hai người phụ nữ đó, từ nay biến thành một ả phù thủy đến làm bà chủ, vứt tiền qua cửa sổ mà không phải đụng một ngón tay để kiếm tiền, điều khiển người đàn ông của gia đình bằng mưu kế của cô ta, khiến Stefano phải làm đủ thứ việc sai trái chống lại máu mủ của mình, tức là chống lại em ruột và thậm chí cả mẹ của anh ta.

Như thường lệ, Stefano không đáp lại ngay lập tức. Anh ta chờ em gái nói bằng hết, sau đó, tin rằng chuyện về Lila và vị trí của cậu ấy trong công việc kinh doanh nhỏ của gia đình chưa bao giờ được đề cập đến, anh ta điềm tĩnh nói rằng Pinuccia, thay vì làm việc trong cửa hàng thì tốt hơn hết là giúp đỡ vợ chưa cưới của anh ta chuẩn bị cho đám cưới.

“Anh không cần em nữa à?” cô gái nhảy dựng lên.

“Không: từ mai anh sẽ cho Ada, con gái bà Melina đến làm thay em.”

“Cô ta xui anh như thế phải không?” chị ta hét lên và chỉ vào Lila.

“Không phải việc của em.”

“Mẹ, mẹ nghe thấy chưa? Mẹ nghe thấy anh ấy nói gì chưa? Anh ấy xử sự như ông chủ duy nhất ở đây!”

Sự im lặng đến ngột ngạt bao trùm, sau đó bà Maria đứng dậy khỏi chiếc ghế tựa đằng sau bàn thu ngân và nói với con trai:

“Hãy tìm cả người thay thế vị trí này nữa, vì tao mệt rồi và không muốn làm việc nữa.”

Lúc này Stefano mới chùng xuống một lúc. Anh ta nhẹ nhàng nói:

“Thôi nào, chúng ta hãy bình tĩnh lại, con không phải ông chủ của cái gì hết, công việc của cửa hàng không chỉ có mình con lo mà là tất cả chúng ta. Nhưng ta cần phải đưa ra quyết định. Pinù, em có cần làm việc không? Không. Mẹ, mẹ có buộc phải ngồi cả ngày ở quầy thu ngân không? Không. Vậy thì chúng ta hãy giao việc cho người cần đến nó. Con sẽ để Ada phục vụ khách còn quầy thu ngân con sẽ tính sau. Nếu không thì ai lo cho đám cưới?”

Tôi không biết chắc liệu Lila có đứng sau việc đưa Pinuccia và bà mẹ ra khỏi công việc hằng ngày ở cửa hàng và nhận Ada vào làm việc hay không (Ada đã tin và Antonio thì lại càng tin chắc, đến mức anh ta nói về cô bạn của chúng tôi như một bà tiên tốt bụng). Điều tôi chắc chắn là việc ở cùng em chồng và mẹ chồng, những người có khối thời gian rảnh dành cho việc chuẩn bị đám cưới, chẳng phải điều tốt đẹp gì với cậu ấy. Hai người phụ nữ đó còn khiến cuộc sống của cậu ấy rối rắm thêm và bất cứ chuyện vặt vãnh nào cũng dẫn đến xung đột: thiếp cưới, trang trí nhà thờ, thợ ảnh, dàn nhạc, phòng đón khách, thực đơn, bánh ngọt, quà cho khách, nhẫn cưới và thậm chí cả chuyến trăng mật - Pinuccia và bà Maria cho rằng chẳng có gì ở Sorrento, Positano, Ischia và Capri cả. Thế nên tôi bất ngờ bị lôi vào cuộc để giúp Lila cho ý kiến về việc này việc kia, trên thực tế là để hỗ trợ cậu ấy trong cuộc chiến cam go đó.

Năm học đầu cấp ba của tôi có rất nhiều môn học mới và khó. Tính siêng năng cứng đầu thường ngày đã khiến tôi kiệt quệ, tôi quá miệt mài vào việc học. Nhưng một hôm, khi từ trường về nhà, tôi gặp cô bạn của mình và cậu ấy bất ngờ nói với tôi:

“Làm ơn, Lenù, ngày mai cậu qua cho tớ một lời khuyên được không?”

Tôi thậm chí không biết cậu ấy đang nói gì. Tôi vừa thi vấn đáp môn Hóa và tôi đã làm không tốt nên đang rất buồn.

“Lời khuyên về việc gì?”

“Về váy cưới cho tớ. Xin cậu đấy, đừng nói không nhé, vì cậu mà không tới có khi tớ giết em chồng với mẹ chồng mất.”

Tôi tới đó. Tôi đi cùng cậu ấy, Pinuccia và bà Maria với tâm trạng vô cùng khó chịu. Cửa hàng nằm ở Rettifilo và tôi nhớ mình đã nhét vài cuốn sách trong túi với hy vọng có thể cố tranh thủ học bài. Nhưng không thể. Từ bốn giờ chiều đến bảy giờ tối chúng tôi xem các mẫu váy, sờ chất vải, Lila thử những chiếc váy cưới mặc trên người ma nơ canh của cửa hàng. Bất cứ chiếc váy nào cậu ấy khoác lên mình đều tôn lên vẻ đẹp của cậu ấy và cậu ấy cũng làm bật lên vẻ đẹp của bộ trang phục. Tất cả đều hợp với cậu ấy: vải tơ sống hơi cứng, vải xa tanh mềm mại và vải tuyn mờ mờ; chiếc áo quây bằng ren, tay bồng; chân váy rộng hay bó sát, đuôi váy dài hay ngắn, voan cài đầu kiểu đơn giản hay rủ xuống như thác nước, vương miện đính hạt cườm, ngọc trai hoặc tết hoa cam. Nhìn chung cậu ấy vâng lời, xem các mẫu thiết kế hoặc thử những bộ váy tạo hiệu ứng đẹp trên người ma nơ canh. Nhưng đôi lúc, khi không chịu nổi thái độ kén chọn của những người thân tương lai nữa, Lila của ngày xưa lại trỗi dậy, cậu ấy nhìn thẳng vào mắt tôi và nói với giọng mỉa mai, ám chỉ đến bà mẹ chồng và em chồng rằng: “Hay là bọn mình thử một chiếc váy xa tanh thật đẹp màu xanh lá cây, một chiếc bằng vải tơ sống màu đỏ hay một chiếc bằng vải tuyn màu đen quyến rũ hoặc, đẹp hơn nữa là một chiếc màu vàng nhỉ?” Tôi phải bật cười rúc rích để cho thấy rằng cô dâu đang đùa, trước khi lại bắt đầu so sánh các loại vải và mẫu mã một cách nghiêm túc và cáu kỉnh. Cô thợ may không làm gì ngoài việc nhắc lại một cách nhiệt tình: “Mọi người có chọn gì thì làm ơn hãy mang ảnh đám cưới đến cho tôi nhé, tôi muốn trưng bày trong cửa hàng để có thể nói: chính tôi đã chuẩn bị váy cưới cho cô gái này đấy!”

Nhưng vấn đề là chọn mẫu nào. Mỗi lần Lila nghiêng về mẫu váy nào, vì chất vải, thì Pinuccia và bà Maria lại ứng một mẫu khác, bằng loại vải khác. Tôi luôn im lặng, hơi choáng váng vì toàn bộ cuộc tranh luận và cả mùi vải mới. Rồi Lila cau có hỏi tôi:

“Cậu nghĩ sao, Lenù?”

Một khoảng im lặng. Tôi nhận ra ngay lập tức, hơi ngạc nhiên, rằng hai người phụ nữ đang trông đợi và e ngại thời khắc đó. Thế nên tôi áp dụng một bí kíp học được ở trường và nó là thế này: mỗi khi không biết trả lời một câu hỏi, tôi sẽ đưa ra hàng loạt đề xuất bằng giọng chắc nịch của một người biết rõ mình cần nói gì. Đầu tiên, tôi giải thích - bằng tiếng Ý - rằng mình rất thích những mẫu váy mà Pinuccia và mẹ chị ta ủng hộ. Tôi không lao vào khen ngợi mà lập luận cho thấy những mẫu váy này hợp với thân hình của Lila như thế nào. Cho đến khi, giống như trên lớp với thầy cô, tôi cảm nhận mình đã có được sự ngưỡng mộ, đồng cảm của bà mẹ và cô con gái, tôi chọn ngẫu nhiên, thực sự là ngẫu nhiên, một trong số những mẫu thiết kế và chú ý không chọn phải mẫu mà Lila thích và tôi chuyển sang cho thấy rằng mẫu mà tôi chọn có trọn vẹn mọi ưu điểm của những mẫu váy mà hai người phụ nữ kia ưng ý và cả những ưu điểm mà cô bạn tôi thích. Cô thợ may, Pinuccia, bà mẹ đã ngay lập tức đồng ý với tôi. Lila chỉ nheo mắt nhìn tôi. Rồi cậu ấy trở lại ánh mắt bình thường và nói cậu ấy cũng đồng ý.

Cả Pinuccia và bà Maria đều đi về trong tâm trạng rất thoải mái. Họ trò chuyện với Lila gần như trìu mến và, trong khi bình phẩm về việc mua sắm, liên tục nhắc đến tôi bằng những câu kiểu như: “như Lenuccia nói” hoặc là “như Lenuccia vừa mới chỉ ra”. Lila tìm cách nán lại phía sau một chút, trong đám đông vào buổi tối ở Rettifilo. Cậu ấy hỏi tôi:

“Người ta dạy cậu cái này ở trường à?”

“Cái gì cơ?”

“Việc cậu dùng lời lẽ để phỉnh nịnh người khác ấy.”

Tôi thấy tổn thương, tôi nói nhỏ:

“Cậu không thích mẫu váy mọi người chọn hả?”

“Có chứ, tớ rất thích.”

“Thế còn gì nữa?”

“Thế thì cậu hãy giúp tớ và đến chỗ chúng tớ bất cứ lúc nào tớ nhờ.”

Tôi nổi giận, nói:

“Cậu muốn dùng tớ để nịnh nọt họ đấy à?”

Cậu ấy hiểu mình đã xúc phạm tôi, cậu ấy nắm chặt lấy tay tôi:

“Tớ không có ý xấu đâu. Tớ chỉ muốn nói rằng cậu rất biết cách khiến người khác yêu quý mình. Điểm khác biệt giữa tớ và cậu, từ trước đến nay, là mọi người thường sợ hãi tớ chứ không sợ cậu.”

“Có thể là vì cậu xấu tính,” tôi nói với cậu ấy, ngày càng túc thêm.

“Cũng có thể,” cậu ấy trả lời, và tôi nhận ra rằng tôi đã làm cậu ấy tổn thương như cậu ấy làm tôi tổn thương.

Vì ân hận, tôi nói thêm ngay để xoa dịu:

“Antonio nguyện chết vì cậu: anh ấy nhờ tớ cảm ơn cậu vì đã mang lại việc làm cho em gái anh ấy.”

“Là Stefano cho Ada việc làm, cậu ấy đáp, chứ tớ là một đứa xấu xa.”