CÂY TRỨNG CÁ
Tôi dạo thơ thẩn trên đường Phát Diệm với ý định đổ ra đại lộ Trần Hưng Đạo, tim xe đi Chợ Quán thăm người bạn thi sĩ vừa thọ tang cha. Vì công chuyện thăm viếng không gấp rút cho lắm nên tôi bước thật chậm, hút thuốc phì phà, liếc mắt nhìn xem các cô gái qua lại, nhìn chòng chọc, nhìn cho mãn nhãn - vì cái nhìn ấy không tốn kém gì ráo, nó làm cho tôi yêu đời thêm. Và chắc hẳn các cô sẵn sàng tha thứ cho muôn ngàn cặp mắt tò mò, mất dạy, biểu lộ bao nhiêu chuyện ác ý, vô lễ. Đó là giấc mơ giữa ban ngày của bọn mày râu, của những kẻ sẵn sàng chịu cực, lì lợm, đã học luân ly khá nhiều nhưng chẳng áp dụng được bao nhiêu, mặc dầu đầy đủ thiện chí bảo vệ luân lý cổ truyền!
Một cô gái mặc áo dài xanh đậm từ bên kia đường băng qua. Tôi ngừng lại để ngắm nghía dung nhan cô, từ chính diện. Đẹp thật. Có vẻ sang trọng, tay dài, chân dài. Tuy xe cộ chạy như mắc cửi nhưng cô băng qua dễ dàng, không hấp tấp, như kẻ dạo vườn hoa.
- Anh Ba ơi!
Cái giọng hơi quen ấy khiến tôi quay lại. Một bàn tay vẫy lên cao, làm dấu hiệu như ngầm bảo: "Có ta đây!". Đó là anh chàng soạn giả tuồng cải lương, nhỏ tuổi hơn tôi, người đồng hương. Tôi lúng túng, chẳng biết xưng hô thế nào cho gọn. Chẳng lẽ gọi anh ta bằng biệt hiệu: soạn giả Hoa Mơ. Anh ta chẳng ưa khoe khoang nơi công cộng. Với năng lực dồi dào, với hàng chục tuồng ăn khách, anh ta được các ông chủ đoàn hát lưu ý từ lâu. Về đường tình duyên, anh ta đã có đến hai vợ, và dường như đã chán ngán thế sự thăng trầm. Tôi rẽ vào quán, nói trỗng:
- Ủa! Ngồi đây hồi nào?
- Lâu rồi! Bữa nay anh Ba coi bộ mến nguòi mến cảnh quá. Hồi nãy, anh Ba dòm cô đó. Thôi! Dòm mà làm gì. Tôi sẽ cho địa chỉ cô ta.
- Phá hoài. Lúc này, nhà cửa ở đâu?
- Bây giờ dời qua nhà khác, bỏ cái nhà bên kia cầu chữ Y, bỏ cái nhà trong chợ Bình Tây...
Trước kia, hồi... ông Diệm và bà Nhu còn sống, sống với uy thế gần như vô địch, tôi và soạn giả Hoa Mơ ở chung một nhà. Anh ta làm thơ ký tại một tư sở, lúc rảnh rang thì ngâm thơ và nghiên cứu cổ nhạc. Tiền lương hàng tháng - tuy ít oi - nhưng tạm đủ mua gạo, mua rau nuôi sống vài người bạn thân, trong đó có tôi. Tôi còn nhớ dạo ấy gian nhà chật, hẹp nhà mướn, cất trên vũng bùn. Ban đêm, tôi nằm trên chiếc ghế bố nhà binh, ngoài sân, mặt chiếc áo dày (kiểu áo cầu thủ bóng tròn) thay mền. Và cái ghế bố ấy lấn ra ngoài ngõ hẹp, đụng vào chậu kiểng của nhà đối diện.
Anh ta hỏi:
- Bây giờ anh Ba ở đâu? Xóm nào?
- Thì xóm cũ, từ hai năm qua, tôi không muốn di chuyển.
- Bà vợ tôi khó tánh. Tôi đổi nhà hoài, theo ý của bà cho yên vui. Hôm nào rảnh, anh Ba tới chơi. Chỗ này hơi ồn ào và khó kiếm số nhà.
Nói xong, anh ta gọi cô chiêu đãi viên:
- Thêm hai chai bia.
Lại phải uống rượu vào lúc mặt trời vừa mọc hai sào! Tôi sợ những cữ nhậu sớm. Lúc đói bụng, rượu dễ công phạt, khiến mình nhìn sự đời thêm méo mó. Nhưng tôi không muốn từ chối. Biết đâu ba bốn tháng sau, tôi mới gặp anh soạn giả cố tri này! Dường như anh ta đang "ưu thời mẫn thế". Tội tình gì mà không ngồi nán, uống cạn ly cho vui. Quán này chuyên bán cơm trưa cho giới lao động. Vào lúc 9 giờ sáng, ít ai ra vào. Và có lẽ ông chủ quán cần sự hiện diện của vài ba người nào đó để bầu không khí thêm phần ấm áp. Cô nữ chiêu đãi viên khui chai rượu rồi lạnh lùng trở lại... "hậu trường", đọc tiểu thuyết. Ngoài này, chúng tôi chọn vị trí, dựa lưng vào vách để chuẩn bị cuộc đối thoại lâu dài. Tôi mở lời:
- Có ai về xóm cũ không?
Anh ta đáp:
- Anh Ba muốn nói xóm nào?
- Xóm cầu Mũ, hồi mình ở chung đó. Bao nhiêu vật đổi sao dời rồi.
- Anh Ba đi tuốt chớ tôi thì về lai rai, để thăm ông già vợ, kẻo lỗi đạo quân thần. Vẫn còn y nguyên mấy gia đình cũ...
Tôi sực nhớ đến gốc cây trứng cá. Cây này to lắm, che phủ chừng mười thước vuông. Mỗi trưa, trẻ con và luôn cả bọn người lớn thất nghiệp xúm xít lại đó để nhìn lên. Mấy chị bán chè, bán cháo ngồi bên đường hẻm, nương vào bóng mát:
- Cây trứng cá còn không?
Anh ta đáp:
- Còn đó chớ ai bứng đem đi đâu.
- Chắc nó lớn dữ rồi. Năm sáu năm nay. Cây trứng cá mọc mau lắm.
- Thì thiên hạ chặt nhánh nó, mấy hồi...
Để câu chuyện khỏi lạc đề rồi đi sâu vào thế giới siêu hình, tôi nói cụ thể hơn:
- Cây trứng cá đó là tượng trưng cho xóm nhỏ. Chú mầy nhớ chưa! Nó như cây da đình làng ta... Nhà ông già vợ chú mầy còn đó chớ? Ổng còn mạnh khỏe?
Chàng soạn giả câu mày, nâng ly uống một hơi rồi im lặng. Trong ánh mắt anh ta, thoáng gợn bao nhiêu dĩ vãng riêng tư mà chỉ có riêng tôi mới đọc ra vài chữ. Đó là thiên tình sử thuộc loại "tình nghèo xóm nhỏ". Chúng tôi ở sát vách một gia đình đông con gái. Năm ba cô mơn mởn, chưa chồng. Người cha ruột đang hồi làm ăn xuống dốc nên cứ ngồi nhà mà uống trà, thỉnh thoảng răn dạy các con về dung công ngôn hạnh. Ông theo luân lý cổ truyền và là người ngoan đạo. Vóc dáng của ông gợi hình ảnh người nông dân thời xa xưa với bao nhiêu khắc khổ. Cứ hừng sáng, ông mặc áo dài đen, xách dù, đi nhà thờ. Và đến tối, các con quì xuống đọc kinh, không được chểnh mảng bất cứ vì lý do nào. Mỗi đứa tự ý tìm sanh kế để tiêu xài. Ông hiểu mơ hồ công việc làm của các con, nhưng công việc thường bị dư luận khiển trách - nghề chiêu đãi viên ở khu Dân Sinh, chợ Trần Quốc Toản, đại khái... Lẽ đi nhiên, hễ thức đêm quá thì các cô ngủ suốt buổi trưa. Thôi! Đèn nhà ai nấy sáng. Điều mà tôi biết rõ là cô Tám, con gái ông, sống theo nếp đứng đắn, ít đi khỏi nhà, lo cơm nước cho cha rất chu đáo. Vài tháng sau, anh bạn của tôi trở thành người chồng của cô Tám, trong vòng lễ giáo. Lúc ấy, anh bạn chưa nổi danh là soạn giả.
Anh bạn gật gù:
- Ông già vợ của tôi còn ở đó hoài. Cũng đi nhà thờ.
Tôi hỏi:
- Mấy cô em vợ? Con Lương, con Mịn?
- Con Mịn có chồng rồi theo chồng ra ngoài Côn Đảo. Chồng nó làm gát dan giữ tù.
- Còn con Lương?
- Bây giờ ngon lắm. Nó giàu có, và là đứa có hiếu nhứt. Cả gia đình người một nơi. Còn nó săn sóc cha. Xưa kia, anh nhớ không?
Làm sao tôi không nhớ? Con Lương không đẹp nhưng trắng trẻo, nở nang. Nó ưa đi hoang. Thỉnh thoảng, nó bị cha đánh mắng, để làm gương cho các em và để đánh tan dư luận trong xóm. Giấy rách phải giữ lấy lệ. Việc đánh con được người cha cử hành như một nghi lễ trang nghiêm. Cha chuốt ngọn roi. Roi này để trên nóc tủ, không xê dịch, như lưỡi gươm treo trên vách nhà tướng. Ông giảng luân lý rồi gọi con ra. Đứa con nằm sấp. Người bên canh tha hồ tụ họp trước sân nhìn vào. Cửa cái và cửa sổ mở rộng. Ông đánh, đếm kỹ từng roi. Và đứa con không được rên la, kêu van hoặc cựa quậy. Sau đó đứa con quá tuổi dậy thì ấy được lịnh ngồi dậy và... tuyên thệ chẳng bao giờ dám tái phạm.
- Con Lương bây giờ ra sao? Làm nghề gì mà giàu?
- Nó học Ăng Lê, làm nữ chiêu đãi viên trong quán sang trọng và có chồng hẳn hòi. Chồng nó là một Mỹ kiều, đẹp trai. Chàng này "chịu chơi" lắm. Nó cưng con Lương, bắt buộc con Lương dẫn nó về nhà, ra mắt cha mẹ vợ. Nó trợ cấp cho vợ và cha vợ một số tiền khá to, hàng tháng. Còn gì vui mừng cho bằng. Mái nhà gần sập phía trước được tu bổ, vách tường có treo tranh ảnh đường xa xứ lạ. Ông già vợ vui lắm. Bởi vì con gái mình được tiếng tốt, có chồng đàng hoàng. Ban ngày, thằng chồng nó về ăn cơm và không quên mua vài thứ xa xí phẩm như thuốc Salem, xà bông thơm, máy thâu thanh thứ nhỏ, thuốc sinh tố ngừa bá bịnh...
Thằng chồng cũng vui lòng vì cưới con nhà lành, chứ không phải loại "chị em" mất nết đổi thay tình nghĩa như cơm bữa.
Tôi hơi buồn ngủ, có lẽ vì rượu công phạt cái bao tử trống rỗng và có lẽ vì câu chuyện hơi nhàm. Đợi lát sau, anh bạn soạn giả mới tổng kết.
- Thế là đứa con bất hiếu nhất ngày xưa trở thành rường cột gia đình, dưỡng nuôi cha già. Và người cha này có phản ứng rất tốt, khuyên con gái nên tuân theo dung công ngôn hạnh để đền đáp lại tấm lòng của người chồng xứng đáng. Và hàng ngày, cứ hừng sáng, ổng mặc áo dài, xách dù đi đọc kinh. Đứng về mặt tu thân mà xét, tôi chưa thấy ai đàng hoàng như ổng. Hồi nào cũng như hồi nào...
Câu chuyện tưởng có thể chấm dứt. Dè đâu anh soạn giả gọi thêm chai bia. Tôi nói nhanh:
- Được rồi. Nếu có về xóm cũ, tôi gởi lời thăm bác. Chắc ổng quên tôi rồi.
- Ổng bây giờ chẳng muốn chú ý tới ai hết, ờ anh Ba, anh còn gởi lời thăm ai nữa không?
- Nhớ ai bây gio? Có lẽ thiên hạ đã dời nhà đi chỗ khác.
- Họ còn ở đó y nguyên, anh Ba ơi. Năm ngoái, xôn xao một độ, thiên hạ đồn rằng tòa Đô Chánh giải tỏa, phóng con đường ăn thông qua chợ Năng Xy. Nhưng rồi đâu vào đó, chẳng ai bị đuổi đất dỡ nhà gì ráo.
Tôi sực nhớ đến gia đình cô Bảy Thém. Dạo trước, tôi thường qua hút thuốc, uống trà với cha ruột cô. Cô đã có chồng, sanh hai con. Chồng cô theo vợ bé, đi suốt, hằng tháng trợ cấp một số tiền tượng trưng là hai ngàn đồng. Ông chồng ấy làm nghề mua bán đường xa, tận Cao Nguyên Trung Phần. Ở trong xóm suốt hai ba năm mà tôi chỉ gặp mặt ông ta có hai lần. Lần nào, tôi cũng không dám nhìn kỹ. Dường như ông ta ghen bóng ghen gió với bọn trai tơ và trai già trong xóm. Ngày chồng về thăm con, cô Bảy Thém chẳng dám nhìn chúng tôi. Nhưng khi chồng cô ra đi biền biệt, thỉnh thoảng cô ôm con, ngồi ca Vọng Cổ trên võng. Lời ca vô nghĩa, trích trong mấy quyển bài ca hai đồng bạc, nhưng giọng ca áo não làm sao. Tưởng rằng tâm sự người ôm đàn tỳ bà ở bến Tầm Dương không khác mấy. "Khách trọng lợi khinh đường ly biệt, mãi buôn chè, sớm tếch ngàn khơi. Thuyền trơ đậu bến mặc ai, quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng." Về lúc ấy, cô Bảy sẵn sàng mời chúng tôi qua nói chuyện khào. Cô than thân và trách móc tất cả bọn đàn ông: "Chẳng ai chung thủy cả. Người đàn ông thiếu tình cảm và ác độc như con rắn". Một bạn trẻ của tôi mỉm cười, nói bóng gió: "Thực tế sẽ chứng minh" rồi bạn đi tuốt. Người bạn này lợi hại lắm, tên là Chước, khá đẹp trai ít ăn nói. Cô Bảy Thém thích nói chuyện với tôi và bắt buộc đứa con gái gọi tôi bằng bác.
Người hàng xóm họ nghĩ rằng cô Bảy dành cho tôi khá nhiều cảm tình nồng hậu và rất ghét anh chàng Chước kiêu hãnh ấy...
- Thuở đó, anh Ba mê cô Bảy Thém.
- Đâu có làm ăn gì? Tình láng giềng giữa thanh thiên bạch nhựt.
Anh chàng soạn giả cười bí hiểm:
- Chỉ có tôi mới hiểu thấu nỗi lòng anh Ba. Bây giờ, nói thiệt nghe thử coi! Hằng đêm, cô Bảy ngủ ngoài chái nhà, xuất nhập tự do, không cần mở cửa khoét vách. Anh Ba có ý nghĩ gì đen tối không?
Tôi đáp:
- Có chớ. Nhưng không dám.
- Tại sao? Anh Ba sợ cô Bảy bị chồng bắt tại trận rồi "cúp" tiền trợ cấp?
- Đâu phải. Tôi sợ cô Bảy bắt buộc tôi đóng vai trò bình phong...
Chàng soạn giả cười vang:
- Anh Ba thông minh và hiểu đời quá. Anh Ba nhận xét cô Bảy là người như thế nào?
- Người đa tình, đầy đủ sức khỏe, ăn no rồi ở không, nhàn cư vi bất thiện. Thôi đi, hơi đâu mà nói xấu kẻ khác. Nhưng tôi phải nói ra để làm... đề tài văn nghệ. Cô Bảy cố tình bắt buộc tôi đóng vai bình phong.
- Đâu là bằng cớ? Anh Ba nói thử.
- Đêm đó tôi thao thức, bước ra khỏi nhà. Trời tối mờ mờ, mưa lác đác. Tôi thấy gió thổi mạnh. Bên kia, cách vài thước, cái thành mùng cô Bảy bay phấp phới. Cô thò tay ra ngoài. Tôi lại gần. Nhưng lập tức cô rút bàn tay vô, tấn ém mí mùng. Tôi ngỡ là mưa dột chái nhà nên đến gần. Trong mùng cô Bảy, lụ khụ những gối ôm. Và bỗng nhiên đứa bé khóc lên. Và trước khi nó khóc, tôi nghe cô chửi rủa nó. Cô Bảy cố tình gây tiếng khóc để cảnh cáo tôi, không cho tôi lại gần hơn.
Chàng soạn giả gật đầu:
- Anh Ba chưa hiểu rõ. Cô Bảy thỉnh thoảng rước một chàng trai trẻ vào mùng cho vui. Không chừng lúc đó anh Ba thấy chàng ta trong mùng mà ngỡ là cái gối. Chàng ta nhỏ thó, trắng trẻo. Chính là thằng Chước. Thằng Chước tìm cách chứng minh sự đa tình của bọn con trai.
Tôi lắc đầu:
- Vậy sao? Hèn gi có độ, thằng Chước thường đi chơi đêm. Khi về thì nó hút gió, động cửa, vặn đèn, làm rùm beng cả xóm theo kiểu "đợt sóng mới".
- Nó ở trong mùng cô Bảy Thém chun ra chớ đi đâu xa. Nó muốn phi tang. Nhưng gà đẻ, gà cục tác. Tôi dám bảo đảm rằng chuyện thằng Chước tư tình với cô Bảy còn ở trong vòng bí mật, chẳng ai hay biết.
- Nhưng tại sao chú mầy biết?
- Thằng Chước nói lại. Dạo đó, thỉnh thoảng cô Bảy cho nó vài trăm, gọi là cho mượn xài đỡ... Anh Ba thử nghĩ coi: ông chồng thương gia chẳng bao giờ hay biết, luôn cả anh là người gần như trong cuộc. Ai cũng nói cô Bảy nết na, thủ tiết chờ đợi ngày hối cải của ông chồng...
- Bây giờ cô Bảy còn đó không?
- Chồng cổ về rồi. Anh chàng thương gia ấy đã về chuồng cũ, sau khi theo vợ bé. Lá rụng về cội mà. "Hồn con một thuở đã đi hoang" giờ đây về quì lụy bên cạnh người vợ lớn. Chàng ta mua nhà, nuôi nấng vợ con, cho con học trường Tây, gia đình êm ấm lắm.
- Cũng đáng mừng. Rốt cuộc rồi, mọi người đều vui và sống trong lúc tao loạn. Cũng là vui. Chẳng ai chết chóc, trong xóm Năng Xy.
Nói xong, tôi nốc cạn ly rượu. Câu chuyện đã đến lúc nhạt phèo. Anh bạn soạn giả vẫn dựa lưng vào vách. Tôi đoán chừng anh ta đang chờ một người bạn để vay hoặc đòi nợ. Anh ta nói lạt giọng:
- Không phải vậy đâu, anh Ba. Đời là buồn.
Trong một tháng, tôi chợt hiểu anh ta đang thắc mắc về gia đình. "Một vợ nằm vườn lèo, hai vợ nằm chuồng heo". Sáng nay anh ta túng tiền, bị tất cả hai người vợ ruồng rẫy nên nhìn đời bằng cặp mắt xiêng xéo. Anh ta muốn giải bày nỗi lòng cho vũ trụ hay biết để bao nhiêu đau khổ được vơi! Tôi hỏi:
- Tại sao đời là buồn?
- Anh Ba lớn tuổi hơn tôi, anh dư biết.
- Làm sao tôi biết được. Chú mầy có tới hai vợ, hẳn là đầy đủ bản lãnh.
- Hai câu chuyện mà tôi vừa kể cho anh Ba nghe toàn là tài liệu sống, tai nghe mắt thấy. Nó chứng mình rằng mọi người đàn bà đều có dĩ vãng. Anh chàng Mỹ Kiều và anh chàng thương gia là hai kẻ vô tình mà biết sống với hạnh phúc hiện tại. Nếu suy nghĩ vớ vẩn đến dĩ vãng, nếu điều tra lý lịch vợ con mình thì làm sao họ cười cợt được.
- Ta nên bắt chước họ.
Chàng soạn giả lắc đầu:
- Làm sao bắt chước được. Anh chàng Mỹ Kiều và anh chàng thương gia chồng cô Bảy Thém hàn gần được dĩ vãng và hiện tại, nhờ họ có tiền. Chúng mình khô túi, chỉ còn cách nói dóc nghe chơi.
- Thôi, hẹn dịp khác.
- Anh Ba chưa tin hả? Cứ đi Năng Xy về xóm cũ.
Tôi vội bước ra khỏi quán, đi bộ, lần phía Năng Xy. Đường xa mà hóa ra gần. Vừa đi tôi vừa suy nghĩ miên man. Nếu không gặp chàng soạn giả này, chưa ắt tôi trở về xóm cũ.
Đến đầu hẻm.
Tôi đi chậm rãi, qua cây cầu ván. Nước đen ngòm, chảy lờ đờ, hơi cạn hơn hồi xưa vì rác rến đổ xuống quá nhiều. Qua cầu, tôi nhìn hai bên đường. Chẳng có gì lạ. Chẳng ai nhận ra tôi.
Cây trứng cá hiện ra, cao lớn. Lá vàng rụng đầy gốc. Cái chái nhà, nơi cô Bảy ngủ lúc chồng theo vợ bé hãy còn đó. Bộ ván trống trơn.
Tôi qua nhà con Lương.
Nhà trang trí khá đẹp, sặc sỡ, cửa khép hờ. Con Lương vặn máy thâu thanh, nhai kẹo. Người cha đang nằm đọc báo. Con Lương nhận ra tôi. Nó chào hỏi. Tôi vào nhà. Nó đã có chồng sang trọng, như anh chàng soạn giả thuật lại. Tôi hỏi đến cô Bảy. Con Lương cho biết dạo này chồng cô mua nhà, cưng cô lắm. Nhà cũ của cô Bảy chẳng còn ai.
Tôi hút thuốc, liếc ra cửa sổ:
- Còn cây trứng cá. Buồn quá.
- Chú thấy cây đó khác không? Nó không lớn, cứ như vậy hoài.
Tôi dòm kỹ. Rõ ràng cây trứng cá không rậm rạp tuy gốc to hơn. Và bên gốc, tua tủa những nhánh to bị chặt, bui lại những vết thương khô cứng như những con mắt mù lòa. Tôi hỏi:
- Hổm rày, thằng anh rể soạn giả có về đây không?
Con Lương đáp:
- Ảnh có về rồi đi. Coi bộ ảnh khổ lắm. Mời vô nhà thì ảnh không chịu. Ảnh đứng dựa gốc cây trứng cá cả buổi...
Tôi ngáp dài, kiếu từ. Lại một buổi sáng trôi qua, chẳng có gì mới lạ. Từ chàng soạn giả đến cây trứng cá và đến tôi. Như những con mắt mù lòa, cúi xuống đất.