Chương XIII FLORĂNGXƠ LARIƠ
Từ vài ngày nay, tôi muốn thay đổi môi trường, có cát mịn và biển yên tĩnh. Tất cả những ngày này, giam mình trong văn phòng làm tôi suy yếu. Những cuộc dạo chơi với con Caretxơ ngày càng trở nên ngắn hơn. Hồ sơ Fo ám ảnh tôi từ khi tôi thấy ở đó có một cái bẫy không chỉ đối với Fo mà đối với cả tôi.
Luật sư Buyxông đã xin cho Fo được tại ngoại, ông đã đạt được không có khó khăn, thẩm phán thay biện lý đã bật đèn xanh. Tôi đã tạo điều kiện dễ dàng cho những sự việc nhờ ở con dao mổ đáng nguyền rủa ấy. Buyxông đã chứng minh cho tôi rằng bất kỳ ai, cả trong trường hợp một phụ tá của ông, đều có thể lấy cắp con dao mổ tại Bệnh viện Giắccơ Đờlaruy. “Hung khí” này là xương sống của hồ sơ Fo. Quá rõ ràng, không thể chối cãi nổi đối với chàng bác sĩ phẫu thuật trẻ nếu anh ta sử dụng nó, việc này làm tôi ngày càng nghi ngờ.
Không vì thế mà Fo hoàn toàn sạch tội. Sự có mặt của anh ta tại nơi xảy ra tội ác, việc trốn chạy, những lời khai dối trá ban đầu, nỗi sợ việc gây rắc rối của anh ta…
Câu hỏi đặt ra: Ai có thể biết Fo đến công ty của Patric Parăng ngày hôm ấy? Không một ai, ngay cả Letxli Menxphin. Chính vì điều này mà cái bẫy thật tai ác. Không thể chứng minh một người lạ mặt có mưu toan tấn công chống lại người bác sĩ phẫu thuật trẻ.
Ngay cả thừa nhận kẻ lạ mặt đang nói tới đã theo dõi Ê-ma-nuy-en Fo từ nhà anh ta đến công ty của Parăng thì hai lý lẽ phản bác lập tức được đặt ra: Thứ nhất, y, tức kẻ lạ mặt chỉ có thể phạm tội ác sau khi Fo đã đi qua. Thứ hai, y cần lấy cắp con dao mổ trước đó.
Luật sư Buyxông hẳn có lập luận này nên ông không bao giờ đưa ra giả thiết một âm mưu. Nếu nhận định Fo không phải là kẻ sát nhân, chỉ có thể cho yếu tố ngẫu nhiên tác động vào cái mớ bòng bong này. Điều này tỏ ra mỏng manh.
Thế nhưng còn một giả thiết đáng tin cậy hơn, vẫn phải cho rằng Fo vô tội, đó là X. kẻ lạ mặt muốn cái chết của Parăng và không muốn điều tốt cho Fo. Y chuẩn bị gây tội ác bằng cách lấy cắp con dao mổ tại Bệnh viện. Rồi y đi giết Parăng và để lộ con dao mổ trong thùng rác, không biết rằng Fo sẽ đến ngay sau đó, việc đó đối với y là vận may vô vọng. Vậy yếu tố ngẫu nhiên tác động vào, nhưng lần này đáng tin.
Vấn đề còn lại là tìm kẻ lạ mặt, nam hay nữ, quen biết cả Parăng và Fo và đều ghét họ.
Lúc này là tám giờ tối, tôi còn ở Toà án và như có lửa đốt trong đầu. Đã đến lúc tôi phải đón con Caretxơ tại chỗ người gác cổng. Không khí dịu ấm và có hương vị mùa hè. Caretxơ đi lững thững và đánh hơi mỗi gốc cây mà chúng tôi tới. Tôi nghĩ tới Ê-ma-nuy-en Fo. Anh ta làm gì buổi tối đầu tiên với tư cách người được tự do? Anh ta có gặp ngay Letxli Menxphin không? Có thể lắm. Trừ phi bố mẹ anh ta… Ông bố nhìn nhận vụ án này rất tồi tệ nhưng bà mẹ chống lại mạnh mẽ, trong tâm trí bà, không chút nghi ngờ, con trai bà vô tội. Nếu phải đến toà án, bà sẽ là nhân chứng tuyệt vời để bảo vệ.
Luật sư Buyxông. Lần cuối cùng tôi gặp ông ta, ông ta tạo cho tôi một cảm giác kỳ lạ, như thể ông ta chuẩn bị một đòn chơi xấu. Tôi đã gọi điện cho bố tôi để hỏi có phải ông bạn Buyxông của ông là người thích chơi những đòn chuyển biến bất ngờ. Tiếng cười của bố tôi vang lên rất to trong ống nghe. “Con hãy chuẩn bị đón điều tồi tệ - Ông nói với tôi - Buyxông là kẻ làm trò có tài”. Điều đó không làm tôi vững lòng. Vì Fo được tại ngoại, trò chơi sẽ trở nên khó khăn hơn. Nếu tôi bất hạnh để mình bị Buyxông làm cho choáng ngợp, tôi sẽ khó uốn nắn vành móng ngựa.
•Cần phải chọn giữa nghỉ hè hoặc điều trị liệu pháp tâm lý. Tôi thích liệu pháp tâm lý hơn. Bố tôi nói với tôi “bố tặng con cả hai”, nhưng tôi từ chối, nói chính xác hơn là tôi đã dung hoà: một tuần ở đảo Rê và bác sĩ khoa thần kinh đã quyết định những ngày nghỉ của ông ở đây nhằm không bị đám đông quấy rầy.
Ông ta có một thân hình hết sức mảnh khảnh đặc biệt và bộ mặt thản nhiên của người Á châu. Bốn mươi tuổi. “Cái tuổi thích hợp cho sự chuyển dời của con”, bố tôi mỉm cười, nói. Thế là quyết định. Tôi đến xưng tội với bác sĩ Clôtđơ Fritman này trong một văn phòng đủ tiện nghi và đôi mắt tôi hoài công tìm kiếm những bức tranh hoặc ảnh, nhưng không có gì ngoài tấm vải đay che ốp những bức tường. Tôi nói về tuổi thơ của tôi một cách ung dung nhưng chẳng thích thú gì, như thể đó là một câu chuyện có phần hơi xa lạ với tôi. Fritman có vẻ nghe tôi với đôi mắt màu xám tối, rất dài, được bảo vệ kém do đôi mi có thể nói là trong suốt, nhìn thẳng vào tôi với sức mạnh làm tôi bối rối.
Ông nhận xét với nụ cười mỉm tê liệt trên môi:
— Bà đừng căng thắng, bà nói như đọc bài. Hãy cố thật tự nhiên.
— Nói thật rõ là tôi không quan tâm tới tuổi thơ của tôi - Tôi nói.
— Chính điều đó gợi nên sự quan tâm của tôi - Ông trả lời - Thái độ đối xử của bố bà với mẹ bà thế nào?
Tôi suy nghĩ mà không thể thấy được một kỷ niệm cụ thể có thể đủ thấy rõ về đôi vợ chồng cổ điển là bố mẹ tôi. Tôi thổ lộ với Fritman rằng vài chục năm xa cách tuổi thơ của tôi đã xoá nhoà hết mọi chuyện. Mẹ tôi thời ấy vui vẻ dẫu chồng bà có những hành động ngông cuồng kín đáo. Bố tôi đã rất yêu tôi và nay tôi tin chắc rằng nếu ông đã không ly hôn, mặc dầu ông đã có ý định này khi tôi mười hai tuổi, chính là vì tôi.
— Đây là người đàn ông của cuộc đời bà - Fritman nói - Và đó không có vấn đề.
— Đó là trụ cột.
Ông mỉm cười, vẫn nụ cười kỳ lạ làm hằn sâu một nét nhăn ở khoé miệng mỏng và tái nhợt của ông. Rồi ông buộc tôi lại khơi sâu những kỷ niệm của tôi có chủ định một chút: Những xúc cảm tình dục ban đầu của tôi, những tâm sự thầm kín của mẹ tôi, những món quà của bố tôi tặng tôi, buổi lễ ban thánh thể long trọng của tôi để làm vui lòng bà ngoại tôi, việc tôi vào trường trung học… Tôi khó nhận ra mình ở tuổi thiếu nữ ấy nên tôi ngập ngừng và có chút sợ hãi khi mô tả. Tôi sẽ thấy gì sau những lời tâm sự của tôi?
— Hôm nay kết thúc ở đây - Fritman nói để lộ vẻ mảnh mai hấp dẫn của ông.
• • •
Không có bình luận gì. Tôi lại thấy ánh nắng mặt trời gay gắt và con Caretxơ thè lưỡi lòng thòng. Pari đổ hết người ra đường với vẻ hoan hỉ làm tôi mơ màng. Tôi không bỏ qua nguyên tắc: mỗi khi tôi đi nghỉ, tôi có cảm giác cùng lúc từ bỏ thủ đô và không bao giờ để quên. Đó là lý do mà tôi đã nói với bố là rốt cục, năm nay tôi sẽ không đi nghỉ. Thế nhưng ông nài ép tôi trước chuyến đi Roayăng của ông cùng với mẹ tôi và đôi vợ chồng bạn ông.
Ông gõ cửa phòng tôi và tôi mời ông vào trong sự bừa bãi của tôi mà ông vờ không thấy. Chúng tôi uống rượu uytxki nhẹ pha nhiều nước, ngồi trên chiếc tràng kỷ đã lún xuống.
— Nào, đồng ý chứ, con đi với chúng ta. Các bạn của chúng ta có xe riêng.
— Còn bác sĩ khoa thần kinh?
— Ông ấy sẽ đợi con. Một tuần là hợp lý rồi. Theo nguyên tắc, con đi nghỉ hè và viên lục sự của con cũng thế.
— Con tính đi một mình tới đảo Rê vào tháng Chín để ra sức nghiên cứu hồ sơ Fo.
— Hãy hoãn lại một chút. Điều đó không ngăn cản con được nói về chuyện ấy. Vả lại ở Roayăng, con sẽ không phải bận tâm gì hết, ngay cả với con Caretxơ, bố sẽ dắt nó đi chơi.
Cuối cùng ông thuyết phục được tôi và tôi mời ông ra ngoài để chuẩn bị túi hành lý của tôi và báo cho ông bác sĩ khoa thần kinh qua điện thoại. Ở Roayăng, tôi sẽ gặp lại ngôi nhà tuổi thơ của tôi và mọi kỷ niệm gắn với nó. Một chương trình lý thú xiết bao!
Ngay hôm sau, trong chiếc xe Mecxêđet do bố tôi lái rất thận trọng, tôi bực mình về thói ba hoa của mẹ tôi nhưng bố tôi không hề để ý, nhưng tôi thầm nghĩ rằng tôi đã quên cuộc sống gia đình và sẽ cần phải thích nghi lại. Ngôi nhà lớn nhưng tôi quyết định chọn căn phòng ở dưới mái, gần phòng bà quản gia.
— Con điên đấy à - Mẹ tôi nói - Mẹ xin con ngừng ngay những thói kỳ quặc của con.
Hai vợ chồng ông Moranh, bạn của bố tôi sẽ đến vào hai ngày sau, nhưng tôi không muốn chia sẻ với họ tầng gác ba, tôi ít quen biết họ. Đó là lý do tôi cố giải thích cho mẹ tôi, tất nhiên bà không muốn hiểu.
— Hãy để nó yên - Bố tôi nói - Florăngxơ cần yên tĩnh để có thể làm việc. Nó sẽ thoải mái trong phòng trên cao của nó.
Caretxơ say sưa sục sạo trong vườn bằng cách lăn lộn quanh những bông hoa. Tôi chờ đợi cơn thịnh nộ của mẹ tôi nhưng bà nhẫn nhục trước tiếng cười giòn tan của bố tôi. Trở về với cuộc sống gia đình, tôi đang ở nhà mình.
Ngôi nhà giống mọi ngôi nhà cũ của gia đình với tiện nghi không thoải mái, trần quá cao, các phòng quá rộng và khó làm ấm với một lò sưởi duy nhất. Những đồ gỗ nặng nề thô kệch chất đầy phòng nghỉ, tất cả đều có lịch sử của chúng mà mẹ tôi sẽ vui thú kể ngay cho vợ chồng Moranh.
Không biết bác sĩ Moranh đã ly hôn và mới tái hôn, tôi ngạc nhiên thấy bà Mactinđơ Moranh trẻ hầu như không hơn tuổi tôi. Bà là nữ thư ký của một đạo diễn nổi tiếng với nụ cười nhăn nhúm làm ta quên đôi mắt quá nhỏ nhưng tinh anh và cái trán thấp, thân hình béo tròn như hạt mít. Bố tôi nói với tôi là bà ta dễ thương. Mẹ tôi buông thõng một câu “hơi tầm thường” nhưng đối với những ngày nghỉ… và Xaclơ thật có cảm tình!
Ông có thiện cảm không chút nghi ngờ. Bác sĩ khoa Tim, bạn học cũ của bố tôi ở trường Trung học Côngđoocxê, gầy và nhỏ người với bộ mặt đẹp mệt mỏi và mái tóc đen, ông làm cho những bữa ăn của chúng tôi thường ở hàng hiên trong mùa hè oi nồng và dông sôi nổi hẳn lên. Say sưa theo dõi vụ án Parăng qua các thông tin đại chúng, một tối ông làm tôi bối rối khi khẳng định rằng chỉ có phẫu thuật viên hoặc bác sĩ mới nghĩ tới giết người bằng con dao mổ.
— Cần phải biết sử dụng dụng cụ này - Ông nói - Và tôi không nghĩ rằng một gã bình thường nào đó có thể làm việc này. Có bao cách khác giết người có hiệu quả hơn!
— Vậy anh tin rằng bác sĩ Fo là thủ phạm ư? - Bố tôi hỏi.
— Than ôi, phải! Một kẻ không làm vẻ vang gì cho giới Y học.
— Tại sao lại than ôi?
— Vì cái gã ấy không phải là một tên cướp và vì gã làm tôi có cảm tình hơn nạn nhân. Nhưng ý kiến ấy chỉ là riêng tôi thôi. Cô nghĩ gì về việc này, Florăngxơ?
— Bí mật của thẩm cứu - Tôi cười, nói - Đừng làm cháu rơi vào bẫy, uổng công thôi!
Mactinđơ ngồi trước mặt tôi, bà ta cũng say sưa về vụ án này.
— Tinh thần trách nhiệm làm sao! - Bà ta nói - Tôi khâm phục cô đấy. Cô có vẻ một cô bé thế mà cô nắm trong tay mình mạng sống của một con người.
— Không đơn giản như thế đâu - Bác sĩ Moranh phản bác - Tự do của Fo lệ thuộc vào nhiều người, nhất là luật sư của anh ta.
Ông quay về phía bố tôi:
— Anh nghĩ gì về Buyxông?
— Đó là một tiếng nói lỗi lạc trong công việc với sự cả gan ghê gớm. Tóm lại, đó là một người ở đoàn luật sư.
Moranh bĩu môi:
— Tôi ít quen biết luật sư - ông nói - Nhưng tôi đã thường lui tới con người này một thời gian. Một công dân kỳ cục.
— Còn sao nữa? - Tôi hết sức thích thú hỏi.
— Bí mật nghề nghiệp - Ông mỉm cười trả lời - Chúng ta đang nghỉ hè, việc đó gợi cho chúng ta lòng khoan dung.
— Kẻ giả dối làm sao! - Mactinđơ Moranh phàn nàn - Ông ấy nhử mồi chúng ta và rồi… chẳng có gì cả. Florăngxơ, cô cho phép tôi gọi cô là Florăngxơ nhé, cô nghĩ gì về cái người ta gọi là công lý ngậm miệng.
— Tôi không làm chính trị. - Tôi thận trọng nói.
— Khẳng định không làm chính trị, chính là có làm. - Bố tôi nói xen vào.
— Ơ kìa! - Mẹ tôi nói - Tôi cảm thấy tất cả các người sắp làm hỏng cái ngày đẹp đẽ này.
— Không - Mactinđơ làm bà yên lòng - Nhưng bà thừa nhận rằng người ta rút ra được ở những người thẩm phán ấy một vụ án nóng bỏng…
— Có thể họ đã làm quá nhiệt tình - Bố tôi thở dài - và không phải hoàn toàn vô hại. Họ biết những gì đang chờ đợi họ.
Để kết luận, tôi nói rằng công lý không lừa mà lấy được… Ai muốn uống sâm banh nào? Hiện nay tôi đã sống nửa đầu thế kỷ, thật khó mà chịu đựng. Tôi cần thứ có bọt.
Chúng tôi chúc mừng tuổi năm mươi của bố tôi khá vui vẻ… Cho tới lúc Mactinđơ Moranh hỏi tôi có phải tôi là vợ Giăng Giăccơ Filông mà bà ta quen biết vì anh đã làm việc về một kịch bản của bà. Mẹ tôi lập tức chen vào bằng cách nói rằng anh ta quả thật đã là con rể của bà nhưng đó là chuyện cũ rồi, rồi bà buộc chân mình vào cuốn tiểu thuyết mà bà đang đọc trong khi chúng tôi đi tắm. Từ khi mãn kinh, mẹ tôi từ chối phô mình ra trong bộ áo tắm, nhất là với sự có mặt của những phụ nữ trẻ. Tám tuổi mà bà hơn bố tôi ngày nay được chứng rõ và bà khó mà nhìn tình cảnh này.
Chiều hôm ấy tôi để những người khác đi trên bãi biển để ở bên mẹ tôi:
— Đó là sự ngu ngốc hoàn toàn - Bà nói - Con chỉ có tám ngày nghỉ thế mà lại nhịn tắm biển khi con có dịp.
— Tối nay con sẽ đi với Caretxơ. Chúng con sẽ tắm vào nửa đêm. Trời nóng quá!
— Vậy mẹ có thể sẽ đi với con. Con thấy Mactinđơ Moranh thế nào?
— Được lợi và chán ngắt. Nhưng con là thẩm phán tồi, nếu con dám dùng chữ này.
— Cô ta sẽ giết ông ấy, phải. Xaclơ khốn khổ ấy không lực lưỡng. Cô ta lôi ông ấy đi khắp nơi trong lúc ông ta cần nghỉ ngơi.
— Đừng lo mẹ ạ, việc đó làm ông ta vui và trẻ ra.
— Mẹ tự hỏi - Bà mơ màng nói - Cái gì có thể làm mẹ trẻ lại nhỉ?
— Nâng cấp.
— Khủng khiếp biết bao!
— Mẹ sẽ đạt được.
— Không bao giờ. Sửa lại tự nhiên đến mức ấy… không!
Bà nhìn tôi vờ buồn bã:
— Khi nào con có thể nói về Giăng Giăccơ - Bà nói - mà mặt con không bình thản?
— Con không biết.
— Matinđơ biết nó rõ hơn điều cô ta nói với con về nó. Cô ta thường gặp nó, chí ít cô ta đã gặp nó từ thời kỳ nó ốm yếu.
Tôi không trả lời câu nào nên mẹ tôi nói tiếp:
— Mẹ nghĩ là phổi. Mẹ không dám chắc. Nhưng cái đó có vẻ nghiêm trọng.
— Với Giăng Giăccơ, không có gì là nghiêm trọng cả - Tôi nói có vẻ ngu ngốc.
— Có thể nói rằng cuộc sống của nó đang gặp nguy hiểm.
— Cuộc sống của chúng ta vào bất cứ lúc nào cũng trong vòng nguy hiểm cả.
— Cuộc sống của nó lộ rõ hơn, con biết rồi đấy.
Bi kịch của tôi chính là do biết quá muộn.
Vả lại đây là điều tôi nói với Fritman vài ngày sau. Bác sĩ khoa thần kinh của tôi đã khen tôi: “Tôi không biết có phải cô nhờ ở những ngày nghỉ của mình hay do liệu pháp tâm lý của tôi, nhưng hôm nay cô đẹp lắm”. Vì ai? Bố tôi có thể nói thế vì ông trông đợi ở những ngày nghỉ của tôi ở Roayăng để thấy tôi bắt đầu một chuyện tình đã thiếu.
— Hãy nói với tôi về người đàn ông mà cô đã kết hôn - Fritman nói.
— Đã cưới ư?
— Cần phá vỡ ung nhọt.
— Cái gì làm ông nghĩ có ung nhọt?
— Sự thận trọng và sự giữ gìn ý tứ của cô. Đau đớn hả?
— Vâng.
— Nói đi.
— Anh ấy rất đẹp trai.
— Anh ấy có già không?
— Không. Hiện nay ba mươi hai tuổi. Vào thời ấy là hai mươi bốn, hầu như một đứa trẻ.
— Nói tiếp đi.
— Anh ấy luôn tai ác.
— Tai ác là đặc tính của trẻ con. Sự vô hại là thiên chức hiếm hoi và là nỗi bất hạnh lớn. Nhưng cô không giải thích gì hết. Sự tai ác ấy che đậy gì?
Tôi thở dài. Tôi không sẵn sàng “nói nhiều hơn” như ông đòi hỏi. Chúng tồi ngồi im lặng một lúc lâu. Tôi châm một điếu thuốc lá.
— Về gia đình riêng của chúng tôi, về việc học tập của tôi, về nghề nghiệp mà tôi quyết định theo đuổi. Điều này làm anh ta cười. Anh ta nghĩ xấu về nghề thẩm phán thẩm cứu. Anh ta nói với tôi rằng tôi không biết đặt những vấn đề hay!
— Qua đó anh ta muốn gì?
— Tôi không biết. Tôi đã hỏi anh ta nhưng anh ta nói với tôi rằng đến lúc nào đó tôi sẽ hiểu.
— Cô phải mất bao nhiêu thời gian để hiểu ra?
— Hơn một năm.
— Hôm nay kết thúc ở đây. Mạnh khoẻ chứ?
— Khoẻ.
Trở lại đường phố với những người qua lại, tôi có cảm giác mình đến từ rất xa. Chính xác không phải là cơn khó ở mà là một tâm trạng lạ lùng. Tôi mở ra một lỗ hở trong những kỷ niệm đã khép kín và tôi hoàn toàn choáng váng về chuyện này.
Nhằm nhập vào thực tế hằng ngày, tôi cho con Caretxơ ra khỏi xe và dắt nó đi dạo dọc những bến cảng trong lúc nghĩ tới hồ sơ Fo mà hơn một lần đọc lại vẫn không gợi điều gì khác cơn nhức đầu dai dẳng. Tất nhiên dấu hiệu quá rõ ràng để tôi hướng vào đó. Cần có một cái nấc chặn mà không bao giờ xảy ra.
Tôi đợi Pôn trở về để đến văn phòng. Tôi lợi dụng cơ hội này để thu dọn nhà cửa và chuẩn bị cuộc gặp sắp tới với Fo vì anh ta không rời Pari. Anh ta sẽ đi cùng luật sư Đôrôtê Blăng thay cho luật sư Buyxông vài ngày nữa mới về.
Trong khi xếp dọn tủ tường, tôi phát hiện dưới chồng áo sợi đan và những khăn choàng cổ khác một cuốn an bum ảnh trắng đen và màu chụp trong hai năm hôn nhân của tôi.
Hành động đầu tiên là tôi không mở quyển an bum ra mà đi về phía thùng rác. Nhưng vào phút chót tôi xử sự hèn nhát, và nghĩ tới bác sĩ khoa thần kinh của tôi, tôi mở tập an bum. Bộ mặt Giăng Giăccơ lập tức lộ ra, tươi cười. Bên cạnh anh ta, tôi có vẻ tẻ nhạt, rầu rĩ. Tuy nhiên trong thời kỳ đó, chúng tôi kết hôn với nhau được sáu tháng, tôi còn tương đối hạnh phúc, ngây thơ. Rồi sau đó chúng tôi ở Xanh-Trôpez trong con tàu của Stêphan Đatxlơ ăn khoai tây rán và uống rượu vang. Địa ngục của tôi bắt đầu, nhưng trong ảnh, tôi không có vẻ biết được việc đó: tay cầm cốc rượu đầy, tôi khích lệ thuyền trưởng Stêphan kéo buồm lên. Giăng Giăccơ nhìn anh mỉm cười mỉa mai. Chúng tôi hầu như khoả thân, da rám nắng, tóc khô và phai màu do biển và ánh nắng mặt trời. Đầy tràn sức lực, trẻ trung, thật hết sức trẻ trung.
Không cần giở tiếp, tôi gập cuốn an bum mà Caretxơ thận trọng đánh hơi. Tôi có cảm giác nó nhận ra những người bạn của nó. Hầu như nó trách cứ tôi đã bỏ họ. Hầu như nó sẽ không bao giờ sung sướng bằng thời kỳ đó nhưng là thời kỳ mà tôi bắt đầu lặng lẽ đau khổ. Chỉ sau này khi liên tiếp xảy ra những cảnh thô bạo, lắm chuyện, Caretxơ mới có thói quen ẩn mình, hoặc dưới gầm giường hoặc trong bếp hay phòng tắm.
Từ chấn thương tâm thần ấy, nó giữ một kỷ niệm đẩy nó tới muốn lẩn trốn im ắng khác thường. Con chó cái của tôi trở nên rối loạn tính nết bằng cách bắt tôi chịu một tội lỗi phức tạp mà không một bác sĩ thú y nào có thể làm giảm bớt được.
Sau bữa ăn riêng của chúng tôi, tôi dành cho mình hai giờ thư giãn bằng cách xem một bộ phim Mỹ cũ ở máy thu hình. Gary Côpơ đẹp trai như một vị thần và Maclen Điơtric xứng đáng với tình yêu của anh ta. Những con người này ngày nay đã chết hoặc rất già, họ đã làm vui tuổi trẻ của bố mẹ tôi, còn tuổi trẻ của tôi ít sinh động hơn họ nhiều, ảo thuật của điện ảnh.
•Hơi rám nắng, gầy hơn một chút, con mắt lanh lợi, sáng nay Pôn hầu như có vẻ hấp dẫn. Anh ta nói chuyện với tôi về những ngày nghỉ của mình ở Tru-vin với chút luyến tiếc não nùng trong con mắt nhìn và trong giọng nói. Ở đấy, anh ta đã gặp cô Êlôđi nào đó…
— Vào việc đi, Pôn, sáng nay sẽ bận rộn đấy.
Khi Ê-ma-nuy-en Fo vào văn phòng tôi, không có người canh giữ, không bị khoá còng cổ tay, cả anh ta cũng đẹp ra. Anh ta mặc chiếc bludông nhẹ ra ngoài áo sơ mi trắng và chiếc quần gin mốt mới nhất. Luật sư Blăng đi cùng anh ta trong bộ quần áo nữ bằng vải lanh và đi giày gót phang. Nếu không phải là nơi này, có lẽ người ta nghĩ tới một cuộc họp của những sinh viên năm cuối, cả Fo cũng phô bày nước da hơi rám nắng hẳn nhờ ở bể bơi Đơlinhi.
Vừa ngồi xuống, luật sư Blăng đã nói:
— Chúng tôi muốn chứng minh rằng nạn nhân Patric Parăng có thể bị giết bởi một người đàn ông trẻ, trong lúc này chưa nhận dạng được, nhưng không phải là bác sĩ Ê-ma-nuy-en Fo.
Tôi mỉm cười thầm nghĩ việc này bắt đầu trở thành một thói quen mà ta không nên lạm dụng.
— Tôi chờ đợi những chứng cứ của luật sư, thưa luật sư.
Cô lấy trong cặp da của cô những tờ giấy mà lúc đầu tôi thấy như những chân dung vẽ bằng chì than và đẩy trên mặt bàn giấy của tôi.
— Những chân dung mô phỏng người lạ mặt chưa nhận diện được - Cô nói.
— Liệu tôi có được vài lời giải thích không?
Trong mười phút, cô nói với tôi về những bước hoạt động của cô với bà gác cổng ngôi nhà cạnh công ty Bất động sản nơi Patric Parăng làm việc. Tôi chăm chú xem xét ba chân dung mô phỏng nhưng không gợi cho tôi người nào mà tôi có thể nhận dạng được. Tôi nói:
— Không có gì chứng tỏ rằng người lạ mặt trẻ tuổi này có thể giết Parăng.
— Trong lúc này thì không. Nhưng dù sao việc này cũng chứng tỏ rằng cuộc điều tra của cảnh sát đã không đi rất xa. Người đàn ông trẻ tuổi này có một thái độ lạ lùng, bà gác cổng nói rõ ràng.
— Tôi sẽ triệu tập bà ấy - Tôi nói - Hết chứ?
Luật sư Blăng tỏ vẻ sửng sốt.
— Tôi có cảm giác đây là một bước dài hướng về một con đường khác.
Tôi quay về phía Ê-ma-nuy-en Fo:
— Ông có gặp người đàn ông trẻ này không?
— Không. Nhưng bức chân dung mô phỏng anh ta làm tôi bối rối.
— Hãy thử nói rõ hơn.
Anh ta nhìn nữ luật sư của mình và đưa bàn tay to mập của anh ta quệt mồ hôi trán.
— Tôi có thể nói rằng nó gợi cho tôi một người mà tôi biết, chí ít là tôi đã gặp nhưng tiếc thay, thưa bà thẩm phán, tôi phải thú nhận rằng trong tâm trí tôi chưa thấy rõ lắm. Một sự bối rối, một sự xúc động, thế thôi.
Tôi lại xem xét kỹ những bức chân dung mô phỏng và một ánh sáng đỏ loé lên trong đầu tôi một ánh chớp ngắn ngủi tuột ngay khỏi đầu óc tôi. Tôi bực mình về việc này, như thể sự bối rối của bác sĩ Fo đã lây lan sang tôi.
Một loại ảo thuật.
— Thật ít - Tôi nói - Nhưng thưa luật sư, nếu cô cho phép, tôi sẽ chuyển những chân dung mô phỏng này cho các cơ quan tư pháp. Có thể họ rút ra ở đây điều có lợi.
Đột nhiên cô tỏ vẻ lo lắng về việc trao những bức vẽ này cho tôi.
— Có điều gì không thích hợp, thưa luật sư?
— Tôi không tin luật sư Buyxông tán thành bước hoạt động này.
— Luật sư đã nói với ông ấy về chuyện này ư?
— Vâng.
— Thế rồi sao nữa?
— Ông ấy hoàn toàn không tin.
Điều này có nghĩa rõ ràng là ông ấy chống lại. Vì sao? Tôi hết sức tránh hỏi luật sư Blăng chuyện này, nhưng tôi giữ những bức vẽ chân dung mô phỏng với hy vọng tia chớp sẽ trở lại báo cho tôi và tôi có thể giải thích.
— Cả tôi cũng không tin - Tôi nói - Thật mong manh, thưa luật sư, rất mong manh. Vấn đề không phải là một lời chứng mà là sự giải thích một cảm giác thôi.
— Đây là bước đầu - Cô nhấn mạnh - Cảnh sát không bao giờ tìm hiểu để biết có phải còn nhiều kẻ khả nghi khác không. Và đây là một.
— Không có căn cước.
— Nếu cảnh sát tiến hành điều tra, có thể người ta sẽ tìm ra được một.
— Tóm lại, cô gợi ý cho tôi tung vào con đường mong manh này một sự uỷ thác xét xử.
— Tại sao không? Những chứng cứ chống lại thân chủ của tôi cũng mỏng manh; những chứng cứ ấy sụp đổ cái này sau cái kia…
Tôi khâm phục sự cả gan và sức lực của cô.
— Từ khi nào? - Tôi nói - Bác sĩ Fo được tại ngoại không có nghĩa là ông ấy vô tội. Xin cô vui lòng đừng đi quá xa. Chúng ta hãy trở lại ngày xảy ra tội ác.
Ê-ma-nuy-en Fo cựa quậy trên ghế. Tôi hỏi anh:
— Ông có điều gì muốn nói không?
— Không. Đúng hơn là có đấy. Tôi đã suy nghĩ rất kỹ về ngày hôm đó. Tôi còn quay trở lại phường có công ty Bất động sản để cố nhớ lại những ký ức của mình. Tôi bước đi hồi lâu trong phố Tôckơvin cố lặp lại những hành động của mình… Ngày xảy ra tội ác không hề có người và còn ít hơn khi tôi trở lại đây. Hình như… hình như có cái gì đó không hợp…
Tất cả chúng tôi đều rất chăm chú nghe, ngay cả Pôn cũng quay ngoắt lại để nhìn Ê-ma-nuy-en Fo.
— Ông nói về cái gì?
— Về cái cửa. Cái cửa trông ra phố, sáng hôm đó không được đóng khoá đã cho phép tôi bước vào. Nhưng khi đi vòng các phòng, tôi nhận thấy một cái cửa khác gần nhà vệ sinh trông ra sân ngôi nhà, cánh cửa này hé mở.
— Ông tin chắc chuyện này chứ?
— Chắc chắn. Lúc ấy cái đó làm tôi ngạc nhiên, nhưng tôi chưa phát hiện ra thi hài Patric Parăng. Sau đó tất nhiên chi tiết này đã mất đi trong trí nhớ của tôi. Việc còn lại thật ngán ngẩm! Chỉ khi trở lại những nơi này và nhớ lại những hành động của mình ngày hôm ấy thì cánh cửa hé mở này mới trở lại trí nhớ của tôi.
Tôi lập tức nghĩ rằng thật đúng lúc. Để “gắn” với việc thêm vào một kẻ khả nghi khác, một người đàn ông trẻ mà bà gác cổng đã nhìn thấy trong sân ngôi nhà.
Như đoán được sự hoài nghi của tôi, luật sư Blăng nói xen vào:
— Chắc chắn ta có thể tìm lại được bản báo cáo đầu tiên của cảnh sát hình sự ở nơi xảy ra tội ác. Thưa bà thẩm phán, bác sĩ Fo đã chính thức nói rõ là ông ấy đã trông thấy cái cửa ấy hé mở…
Vì chúng tôi có thời gian nên tôi đành tìm lại biên bản đầu tiên ấy. Pôn đề nghị giúp tôi việc này. Bản thân anh ta đã bị ảnh hưởng trước sự hăng hái bảo vệ này.
Cuối cùng chúng tôi đã tìm được biên bản do chánh thanh tra Giăng Clôđơ Frêmôni và thanh tra Rôbe Êchiêvăng ký.
— Cửa trông ra sân không được nêu rõ - Pôn nói - Nó được đóng hay để mở không biết?
— Tiếc thật - Tôi nói - Trong biên bản không nói rõ nó được hé mở.
Fo tái mặt, vã mồ hôi. Luật sư Blăng trấn an anh. Tất cả không phải đã hết. Cô hỏi tôi:
— Liệu tôi có thể nói chuyện với hai viên thanh tra ấy không?
— Cần phải tính đến những ngày nghỉ - Tôi nói - Hầu như sẽ là điều kỳ diệu nếu gặp được Frêmôni và Echiêvăng.
Trước cái nhìn cầu khẩn của cô, tôi nhấc máy điện thoại. Sau nhiều phút, tôi biết Echiêvăng đã đi nghỉ nhưng có khả năng gặp Frêmôni. Tôi thử chuyển máy này sang máy khác. Cuối cùng tôi nghe được giọng nói của chánh thanh tra Frêmôni, và tôi hỏi ông:
— Ông còn nhớ rõ những căn phòng đã tìm thấy thi hài Partic Parăng ở đó không?
— Hầu như tôi đã ký vào báo cáo.
— Nhưng không nói rõ một chi tiết.
— Chi tiết nào?
Giọng nói có vẻ sốt ruột. Ông Frêmôni không thích người ta nghi ngờ về những phẩm chất nghề nghiệp của ông, nhất là khi thẩm phán thẩm cứu lại là một phụ nữ.
— Cái cửa trông ra sân… được đóng hay hé mở?
Im lặng. Tôi nhìn bàn tay luật sư Blăng đặt lên bàn tay thân chủ của mình. Cuối cùng câu trả lời rõ ràng:
— Hình như nó hé mở, tôi còn lấy mũi giầy đẩy cửa để xem nó mở ra chỗ nào. Tôi có thể nói rõ cái cửa trông ra sân ngôi nhà.
Với máy tăng âm mà tôi đã nối mạch, mọi người đều nghe được. Tôi cảm ơn viên thanh tra.
— Đây là một dấu hiệu - Tôi nói - Nhưng còn xa mới là một chứng cứ. Dù sao, bản thân bác sĩ Fo có thể ra qua cửa này và để hé cửa.
— Chắc chắn là không - Anh nói.
— Ông có thể chứng minh điều này không?
Anh suy nghĩ, thở dài. Luật sư Blăng vội cứu anh:
— Nhân chứng là bà ở xưởng nhuộm đã nhìn thấy ông ấy vào thì rất có thể nhìn thấy ông ấy đi ra. Cần phải hỏi bà ấy về việc này.
— Tôi sẽ nghĩ tới việc này. Hết chứ, bác sĩ Fo?
Anh gật đầu, rõ ràng thất vọng.
— Tôi muốn ông lập một bản danh sách tất cả những người đàn ông trẻ tuổi mà ông đã năng đi lại với họ, hoặc thường gặp hoặc ngẫu nhiên trước khi xảy ra tội ác. Tôi biết đây là một công việc chán nản, nhưng nó có thể giúp ích cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta không trở lại nói về vụ sát hại Patric Parăng. Ông hãy nói về những sự nhớ lại của ông, đó là quan trọng nhất.
Buộc tội và gỡ tội. Hầu như cuộc thẩm cứu của tôi rõ ràng hướng về dạng thức thứ hai. Không phải tôi tin vào sự vô tội của Fo mà tôi còn hoài nghi hơn về khả năng phạm tội của anh ta. Kỳ lạ thay, chính chuyện con dao mổ làm tôi bối rối. Tôi khó thấy một bác sĩ phẫu thuật có chủ ý lại sử dụng dụng cụ làm việc riêng của mình để giết người; còn ít thấy là ném con dao mổ ấy vào thùng rác. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng, trong những lúc hoảng loạn thì chính những người thông minh nhất lại làm những điều ngu xuẩn nhất. Nếu Fo đi ra qua chiếc cửa sau này, có thể vì anh ta nghe thấy tiếng động ở lối phố vào. Anh ta lo sợ bị bắt với con dao mổ trong người nên có thể ném nó vào nơi đầu tiên thấy thuận lợi.
Thế nhưng, không có gì cho thấy anh ta đã lo sợ vì một tiếng động khác thường, còn ít hơn vì thiếu nhân chứng. Trái lại, kẻ lạ mặt trẻ tuổi có thể thấy Fo đến, đã hốt hoảng. Vì vậy, y phải bỏ trốn qua cửa sau mà không có thì giờ đóng cửa lại và lo sợ điều xấu nhất, y đã ném con dao mổ vào thùng rác. Trong bối cảnh ấy, việc đó cho phép y lợi dụng cơ hội độc nhất này để Fo bị buộc tội. Rõ ràng đã có việc chọn con dao mổ, một trong những dụng cụ mà người ta có thể tìm được ở Bệnh viện Giắccơ Đờlaruy. Nhưng đặt mình vào địa vị người đàn ông trẻ tuổi không phải là một tên cướp và không muốn để mình bị nhận ra bằng cách mua một thứ vũ khí, dù là vũ khí gì, kể cả con dao mổ, y lựa chọn thứ gì? Một con dao mổ lợn ư? Cần phải mua hoặc lấy cắp nó. Con dao mổ có thể hấp dẫn với kẻ mới làm việc này. Hơn nữa việc lựa chọn này làm rối những con đường truy nã hoặc đúng hơn là chỉ ra một con đường tách xa những người điều tra về kẻ sát nhân thực tế.
Ê-ma-nuy-en Fo và luật sư Blăng đã đi được hơn mười lăm phút mà tôi vẫn còn chìm đắm trong dòng suy nghĩ của mình. Pôn đã đi kiếm cà phê, hẳn anh ta lợi dụng dịp này để tán chuyện với cô Bonê, một phụ nữ trẻ đã ly hôn đang xếp hồ sơ vào tài liệu lưu trữ. Anh ta gọi cái đó một cách kỳ cục là “sự tán tỉnh có trí tuệ” của anh ta. Không khí ở Toà án lúc này dịu mát hơn. Khi Pôn trở lại, tôi đã miệt mài nghiên cứu hồ sơ Rơvecđi, một vụ án dơ dáy về những tên kẻ cắp hèn mọn đã lấy trộm của những bà già.
— Bà nghĩ gì về chuyện nhớ lại của bác sĩ Fo? - Pôn hỏi tôi.
— Xảo trá, phải không?
— Thế nhưng, tôi nghiêng về phía tin anh ta.
— Chính luật sư Blăng đã thuyết phục được anh, Pôn thân mến ạ. Cô ấy khá xinh đẹp.
— Không bằng bà khi bà rám nắng và ăn mặc chững chạc.
Tôi thoa phấn như một thiếu nữ.
— Pôn, đừng phỉnh phờ tính kiêu căng của tôi.
— Tôi không phỉnh phờ gì hết. Tôi nhận thấy thế mà. Để trở lại việc của bác sĩ Fo, tôi bắt đầu thay đổi ý kiến, tôi không thể nhận thức nổi một con người thông minh với một nghề nghiệp nổi tiếng lại có thể làm những điều ngu ngốc để mình phải gánh trách nhiệm.
— Sự hoảng loạn, anh bạn ạ.
— Không, không thể thế được. Nếu anh ta giết Parăng, anh ta đã hành động khác kia.
— Anh đừng quên những lời dối trá ban đầu của anh ta.
Pôn thở dài:
— Tôi tự hỏi, nếu mình bị buộc tội nhầm đã giết người, tôi sẽ không bắt đầu bằng nói dối. Này, vâng. Phản xạ cũ.
— Có thể.
— Tất nhiên. Nhưng anh chàng Fo này, tôi thấy anh ta mềm yếu. Ở địa vị anh ta, tôi sẽ thét lên là mình vô tội.
— Nếu như anh không mềm yếu như anh ta thì vô tội hả?
— Cũng thế thôi.
— Vậy việc đó không nói lên được điều gì hết. Anh cũng như tôi đã thấy những tên cướp hèn mọn gào lên là chúng vô tội, mà tất cả đều là thủ phạm.
— Nhưng Fo không phải là một tên cướp. Còn nghiêm trọng hơn thế.
— Bà hãy giúp anh ta - Anh ta nói - Bà hãy giúp anh ta. Cà phê đã trở nên đáng ghê tởm, bà không thấy ư?