CHƯƠNG XVI PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG-
MỘT niềm vui bao la, kỳ lạ tràn ngập lòng ông: một chuyện gì đó đã kết thúc, một chuyện gì đây đang mở mối; sự khổ não khốc liệt đeo đẳng ông từ bấy lâu nay, giờ đây đã xa dần, đã tiêu tan. Theo ông, hình như thế. Sự buồn rầu đó đã kéo dài năm tuần lễ. Ồng giở tay lên, ngắm nghía chiếc khăn thấm máu và lẩm bẩm:
'‘Lần này thì mọi việc đều xong hẳn. Và suốt buổi sáng hôm đó, lần đầu tiên trong ba tuần nay, hầu như ông không còn nghĩ gì đến Lisa, làm như giòng máu từ những ngón tay bị cắt chảy ra kia cũng đã có thể trang trải xong món nợ đó.
Ông biết là mình vừa thoát khỏi một nguy cơ tày trời. Ông nghĩ: ‘‘Những người thuộc loại đó, trong phút trước còn chưa biết là mình có giết người hay không, một khi cầm trong đôi bàn tay run rẫy con dao và cảm thấy trên đầu ngón tay giòng máu mới trào nóng hổi, thì không những họ chỉ bằng lòng giết chết người thôi mà họ còn
phải chặt đầu anh thật ‘‘gọn bân’’ như các tù tội thường nói, họ mới chịu cho’’.
Ông không tài nào ở nhà được, và khi ra đi, ông tin chắc là ông phải làm ngay tức thì một việc gì đó, hay là một việc gì đó nhất dịnh phải xảy đến cho ông. Ông hết sức mong muốn được gặp một người nào đó, được hàn huyên với bất cứ ai, ngay cả với một kẻ xxa lạ, và chỉ đến lúc đó, ông mới chợt nghĩ đến chuyện tìm bác sĩ để nhờ băng bó bàn tay một cách đàng hoàng. Sau khi khám vết thương, bác sĩ, một người ông quen đã tứ lâu, tò mò muốn biết ‘‘tại sao có thể bị như thế’’.
Để tránh câu trả lới, Veltchaninov vờ đùa cợt, cười như nắc nẻ và thiếu chút nữa là kể hết cho ông ấy nghe; nhưng ông kịp giữ miệng. Vị bác sĩ bắt mạch và sau khi nghe kể qua cơn đau tối qua, đã bắt ông uống ngay một liều thuốc an thần có sẵn đó. Về hậu quả vết thương, bác sĩ đã nói cho ông vững lòng: ‘‘ Kết quả chuyện này không có gì đáng ngại đâu’’. Veltchaninov cười và cam đoan rằng kết quả chuyện đó, trái lại rất tốt. Suốt trong ngày hôm đó, thêm hai lần nữa, ông lại muốn, một sự ham muốn khó cưỡng, kể lại tất cả, và đã một lần, trong một tiệm bánh, ông đã khơi chuyện với cả một ông khách hoàn toàn xa lạ, dù rằng ông vẫn thường ghét bắt chuyện nơi công cộng với những người không quen.
Ông tạt vào nhiều cửa hàng, tiệm buôn, mua một tờ báo, ghé bác phó may quen đặt một bộ áo quần. Ý nghĩ sẽ đến thăm gia đình Pogoréltzev vẫn tiếp tục làm ông khó chịu, và ông cố sức không nghĩ đến họ nữa ; Vả lại, ông không thể về nhà quê: ông đang chờ một chuyện gì đây phải xảy ra tại đây, trong thành phố này. Ông dùng cơm rất ngon miệng, trò chuyện với anh bồi bàn và người khách bàn bên và uống hết nửa chai rượu vang, ông không nghĩ là cơn đau hôm qua có thế tái phát và ông tin rằng bệnh mình đã hết hẳn từ cái lúc, sau một tiếng rưởi đồng hồ ngủ mê mệt, mình nhảy ra khỏi giường và xô ngã tên sát nhân xuống. Tuy nhiên, buổi chiều ông chóng mặt và đôi lúc cảm thấy bị những tư tưởng giống như trong giấc mộng đêm qua dày vò. Lúc về đến nhà, trời đã sẫm tối, và khi bước vào, quang cảnh căn phòng hầu như làm cho ông e sợ. Đối với ông, căn nhà có vẻ ảm đạm, ghê rợn ; ông đi vòng vòng nhiều lần và ghé cả xuống bếp, nơi ông không hề bao giờ bước chân vào. Ông ngẫm nghĩ: ‘‘Họ nung nóng dĩa ở đây’’. Ông cẩn thận đóng cửa lại và thắp nến sớm hơn thường lệ. Khi kéo cửa, ông chợt nhớ là lúc nẩy khi đi ngang qua nhà người giữ cổng, ông đã hỏi thăm Mavra là lúc ông vắng nhà, Pavel Pavlovitch có đến không, xem như ông ấy đến thăm ông là chuyện tất nhiên vậy.
Khóa chặt cửa xong, ông mở hộc bàn giấy, lấy hộp dao cạo ra và chăm chú ngắm nghía con dao ‘‘hôm qua’’. Trên cán dao bằng ngà trắng, người ta nhận thấy lờ mờ vài vết máu. Ông xếp dao vào bao và khóa hộp dao lại trong hộc bàn. Ông buồn ngủ và cảm thấy cần phải đi ngủ tức thì, vì, nếu không, ‘‘ ngày mai, ông sẽ chẳng làm được gì cả’’. Vậy đối với ông, cái ngày mai đó, không hiểu vì sao, là một ngày không tránh được, một ngày ‘‘quyết định’’. Suốt ngày, ngoài đường, những ý tưởng tương tự đã không ngớt đeo đẳng ông, giờ đây, lại ồ ạt kéo đến bủa vây bộ óc bệnh hoạn của ông, không cho ông một phút nghỉ ngơi nào; ông nghĩ ngợi, nghĩ ngợi, và rất lâu, ông vẫn không thể nào ngủ được.
‘‘Nếu xác định rằng hắn ta không định trước việc cắt cổ mình, ông ngẩm nghĩ, thì phải chăng cái ý nghĩ đó cũng đã đến trong đầu hắn, dù chỉ một lần thôi? Ít nữa nó cũng đã một lần mơ đến chuyện đó trong những lúc khốn đốn của cuộc đời?’’
Ông giải quyết vấn đề đó một cách khá kỳ lạ. ‘‘Phải, Pavel Pavlovitch muốn giết mình, nhưng ý nghĩ giết người chưa hề đến trong đầu hắn.’’ Hay nói cách khác: ‘‘Pavel Pavlovitch muốn giết.’’ Câu nầy không có nghĩa, nhưng mà nó như thế, Veltchaninov ngẩm nghĩ. Hắn ta đến Pétersbourg không phải vì Bagaoutov, cũng chẳng phải vì việc bổ nhiệm, dù rằng nó có ra vô các bộ và có đến thăm Bagaoutov thật đấy; cái chết của anh chàng này làm nó nổi giận. Nhưng nó coi khinh Bagaoutov như rác. Vì mình mà nó đến Pétersbourg và vì mình mà nó dẫn Lisa theo’’.
‘‘Còn mình, mình có chờ nó... tìm cách giết mình không?’’ Ông kết luận là ông có chờ đợi và việc đó bắt đầu đúng ngay từ phút mà ông thấy hắn đi theo đám táng Bagaoutov. ‘‘Từ đó, mình ngong ngóng một chuyện gì, nhưng chắc chắn là không phải chuyện đó ; dĩ nhiên mình không chờ nó cắt cổ mình!’’
‘‘Và có thể nào, ông la lớn vừa nhổm đầu khỏi gối và mở mắt ra, có thể nào... cái thằng điên đó lại thành thật khi tối qua nó đóan chắc vì lòng thương mến của nó đối với mình, khi cằm nó run lên và khi nó tự đấm vào ngực?
‘‘Ừ, nó thành thật, ông tự nhủ và phân tích kỹ càng hơn nữa. Cái thằng gù Quasimodo của tỉnhT... đó vừa đủ bao dung và đần độn để say mê gã tình nhân của vợ mình, người vợ mà suốt hai mươi năm trời dưới mắt nó, tính nết không có điều gì đáng chê trách. Trong chín năm, nó đã kính trọng mình, đã tôn thờ những kỷ niệm về mình và còn nhớ cả những ‘‘lời nói’’ của mình nữa. Trời! Thế mà mình, mình chẳng nghi ngờ gì cả! Hôm qua, nó không thể nào nói dối được. Nhưng, hôm qua, khi tỏ lòng cảm mến và nói với mình câu: ‘‘Hãy trang trải nợ nần’’, có thật nó thương mình không? Có, nó vừa thương mình lại vừa thù ghét mình, và đó chính là tình thương mãnh liệt nhất.
‘‘Có thể là, và chắc chắn như thế, lúc còn ở T...,mình đã tạo cho nó một ấn tượng phi thường và ‘‘tốt lành’’. Đó là chuyện phải xảy đến với nhà thơ Schiller kiêm tên gù Quasimodo đó. Nó đã thổi phồng mình lên cả trăm lần vì mình đã làm cho nó đảo loạn trong cảnh cô đơn suy gẫm của nó... Nó tò mò muốn biết đích xác cái gì đã đảo lộn nó. Có lẽ là đôi bao tay mới mua và cách thức mình mang chăng? Những tên Quasimodo thường rất ham chuộng thẩm mỹ!Ồ! Chúng ái mộ cái đẹp biết là chừng nào! Đối với những tâm hồn quảng đại, nhất là đối với những ‘‘đấng ông chồng muôn thuở’’, nội những cặp bao tay kể ra cũng đã là quá đũ rồi. Ngoài ra, họ phóng đại chuyện đó lên cả trăm lần và nếu cần, họ sẽ đánh nhau vì bạn, nếu như bạn muốn. Và nó đã ngưỡng mộ đến bực nào những phương pháp quyến rủ của mình. Có thể chính ngay những phương pháp đó, hơn tất cả những điểm khác, đã chinh phục họ. Và tiếng hét hôm nọ của nó: ‘‘Nếu cả anh đó nữa thì biết tin ai bây giờ?’’ Sau tiếng hét như vậy, người ta trở thành một loài dã thú’’.
‘‘Hừ...! Nó đến đây ‘‘để hôn mình và để khóc!...’’ như chính nó đã từng nói một cách quái gỡ như thế, nghĩa là nó đến Pétersbourg để cắt cổ mình, nhưng nó lại tưởng tượng là đến chỉ để hôn mình và để khóc... Và nó dẫn Lisa theo. Nhưng nếu mình cùng khóc với nó, có lẽ nó sẽ tha thứ cho mình, vì nó đang khao khát muốn tha thứ. Thế mà ngay trong lần gặp đầu tiên, tất cả chuyện đó lại hóa thành những nét mặt nhăn nhó của thằng say, thành những cử chỉ thô bạo, thành những tiếng than van hèn yếu của người đàn bà mang nhục (và cặp sừng, cặp sừng mà nó tự hào!). Chính vì chuyện đó mà nó đã đến nhà mình trong trạng thái say sưa để có thể trút tất cả những ẩn ức trong lòng dù là chỉ bằng cách nhăn nhó. Không say, có lẽ nó không dám thô lỗ... Nó vừa đủ thích những trò khỉ và những trò hề đó! À! Nó thích những trò đó biết là chừng nào! Và nó sung sướng biết bao khi làm đủ mọi cách để cuối cùng được hôn! Nhưng nó vẫn còn chưa biết chuyện đó sẽ kết thúc ra sao: bằng những nụ hôn hay bằng những nhát dao? Cuối cũng, nó tìm được cách hay nhất, dĩ nhiên là như thế, là vừa hôn và vừa đâm chết. Đó là giải pháp đương nhiên. Phải, cuộc đời không thích những quái nhân và đã tiêu diệt chúng bằng ‘‘những giải pháp đương nhiên’’. Tên quái nhân quái đản nhất là cái tên có những tình cảm cao thượng. Mình biết được điều này là nhờ chính kinh nghiêm bản thân, tên Pavel Pavloyitch đó! Đối với lũ quái vật, Tạo hóa đâu phải là một bà mẹ hiền dịu mà chính là một mụ dì ghẻ cay nghiệt. Tạo ra một quái nhân và đáng lý phải thương hại nó thì hóa công lại đày ải nó. Và sự đời nó phải như thế. Ở thời đại chúng ta, những cái ôm choàng và những giòng lệ tha thứ không thích hợp với cả những người lương thiện: vậy thì kể gì đến bọn chúng mình, hở Pavel Pavlovitch?
‘‘Phải, nó vừa đủ ngu đần khi dẫn mình đến nhà vợ chưa cưới của nó. Trời! Một vị hôn thê! Chỉ có cái thứ gù Quasimodo đó mới có ý nghĩ là nhờ sự ngây thơ của cô nàng Zakhlébinine để xây lại cuộc đời mới mà thôi. Nhưng mà Pavel Pavlovitch ạ, mầy không phải là thủ phạm, không hề là thủ phạm! Mầy là một con quái vật thì tất cả những gì thuộc về mầy, những giấc mơ và cả những hy vọng tất nhiên đều phải là quái đản. Nhưng, dù là quái nhân chăng nữa, nó vẫn nghi ngờ giấc mơ của nó, cần có sự thừa nhận của ông Veltchaninov đáng kinh, đáng trọng này. Nó cần phải có sự tán thành của ông Veltchaninov; sự đoan chắc của ông Veltchaninov là giác mơ đó không phải là một giấc mơ mà chính là thực tế. Đúng là vì kính trọng mình mà nó đã dẫn mình đến đó, nó đặt tin tưởng vào nhũng tình cảm cao thượng của mình, và có lẽ nó còn tin là mình với nó sẽ ôm nhau vừa hôn, vừa khóc, sau một bụi rậm, không xa cô bé ngây thơ kia là bao. Phải! cuối cùng rồi một ngày nào đó, tên chồng muôn thuở kia phải dứt khoát tự trừng phạt mình và, để tự trừng phạt, nó đã cầm lấy con dao cạo, hẳn nhiên là không toan tinh trước, nhưng dù sao thì nó cũng đã cầm dao! ‘‘Tuy nhiên, trước mặt quan Thống Đốc, nó đã tặng cho ông kia một nhát dao’’. Hừ, khi kể mình nghe câu chuyện anh chàng phù rễ đó, nó có nghĩ đến điều, gì giống như thế không nhỉ? Và đêm nọ, khi ra khỏi giường và đứng giữa phòng, nó có một ý nghĩ nào đó trong đầu chăng? Hừ…! Không, đó chỉ là một trò đùa. Nó dậy là vì một chuyện khác, nhưng thấy mình sợ, nó đã lặng thinh không trả lời trong mươi phút vì nó thích thú khi thấy mình sợ nó... Rồi có lẽ lần đầu tiên, ý nghĩ kia đã nẩy nở trong đầu khi nó đứng im trong bóng tối.
‘‘Tuy nhiên, nếu đêm đó mình đừng bỏ quên dao trên bàn, có lẽ sẽ không có chuyện gì xảy ra. Có phải như thế không nhỉ? Có phải thật như thế không? Vả lại, nó đã tránh mình và nó đã chờ đến hai tuần mới đến thăm mình. Nó trốn mình vì nó thương hại mình. Lúc đầu, nó chọn Bagaoutov chứ không phải là mình. Và trong đêm đó khi mang dĩa đi nung, nó hy vọng làm như thế để khuây lãng tâm trí: từ con dao bước qua lòng trắc ẩn!... Nó muốn cứu mình và đồng thời tự cứu bằng cái dĩa nung nóng.’’
Và cứ thế, cái đầu óc bệnh hoạn của con người từng thuộc ‘‘giới thượng lưu’’ đó suy nghĩ mông lung cho đến khi ông lấy lại bình tĩnh. Sáng hôm sau, ông thức dậy, đầu vẫn còn nhức nhối, và ông cảm thấy một sự kinh hãi mới mẽ, hoàn toàn bất ngờ dày vò mình.
Sự kinh hãi mới mẽ đó bắt nguồn từ chỗ ông đột nhiên đinh ninh tin rằng mình, Veltchaninov, con người của giới thượng lưu, lại hoàn toàn tự ý đến thăm Pavel Pavlovitch ngay trong ngày hôm nay. Tại sao? Vì mục đích nào? Ông ta không biết gì và lòng đầy ghê tởm, ông không muốn biết gì cả; ông chỉ biết có một điều là ông sẽ lết đến đó mà không hiểu vì sao.
Tuy nhiên, cái ý nghĩ điên rồ đó — Ông không thể gọi khác được — rõ ràng đến độ trở nên khá hợp lý và có một cái cớ khả dĩ chấp nhận được: hôm qua, ông tưởng tượng là khi về phòng, Pavel Pavlovitch khóa cửa lại tự ải như cái ông thâu ngân viên mà Maria Syssoievna đã nói với ông. Cái ý nghĩ đó dần dần biến thành một niềm tin phi lý nhưng khó lay chuyển. ‘‘Nhưng trời đất quỷ thần! Tại sao cái thằng đó lại treo cổ?’’ ông tự nhủ như cắt đứt giòng tư tưởng. Ông nhớ lại những lời của Lisa... ‘‘Vả lại, mình mà ở địa vị nó, có lẽ mình cũng tự ải...’’ ông thầm nghĩ thế.
Cuối cùng, đáng lý đi ăn, ông lại rẽ về phía nhà Pavel Pavlovitch. Ông tự bảo: ‘‘Mình đến hỏi thăm Maria Syssoievna thôi.’’ Nhưng vừa bước xuống thang gác, ông dừng lại dưới vòm cổng.
‘‘Sao đây! Ông la lên và đỏ mặt vì xấu hổ có thật là mình sẽ lết đến tận đằng ấy để hôn nó và khóc lóc? Ngoài sự xấu hổ này ra, lại còn phải thêm vào một việc làm đê tiện ngu ngốc này nữa sao?’’
Nhưng, nhờ ơn trên luôn luôn chăm nom những người đàng hoàng đứng đắn, ông đã thoát khỏi ‘‘cái việc làm đê tiện ngu ngốc đó’’. Vừa ra đến đường, ông đụng đầu ngay Alexandre Lobov. Gã trẻ trai này thở hồng hộc và rất bồn chồn.
— Tôi vừa mới đến ông! À này! Ông nghĩ sao về ông bạn Pavel Pavlovitch của chúng ta?
— Anh ta tự ải rồi à? Veltchaninov lẩm bẩm với vẻ thất thần.
— Tự ải? Tại sao? Lobov trợn tròn đôi mắt.
— Không có gì... Cậu tiếp tục đi...
— Trời! Ông có những ý nghĩ thật lạ lùng! Giả đâu có treo cổ (tại sao lão lại treo cổ đã chứ?). Trái lại, giả đi rồi. Tôi vừa đưa giả đến tận toa xe và tống khứ giả đi rồi. Nhưng giả nhậu quá sá! Chúng tôi nốc cạn những ba chai. Có cả Predpossylov nữa. Giả nhậu quá sá! Giả nhậu quá cỡ! Giả hát om sòm trong toa xe; Giả có nhớ đến ông giả giơ tay vẫy chúng tôi và nhờ chúng tôi chào ông giùm giả nữa. Nhưng mà giả là một thằng bất lương! Ông nghĩ sao về chuyện này, hở ông?
Giả đã say: khuôn mặt đỏ nhừ, cặp mắt sáng rực và giọng nói lè nhè đã đủ chứng minh chuyện đó. Veltchaninov hả họng cười.
— À! Rốt cục rồi các ông cũng dùng rượu để kết thân! Ha ha ha! Họ ôm nhau và cùng khóc với nhau. Ồ! Thi sĩ nhà các anh! Schiller!
— Xin ông đừng sỉ nhục! Ông nên biết là ở đằng ấy, giả đã chối từ mọi chuyện. Hôm qua và ngày hôm nay, giả ở lại đẳng. Giả tố cáo chúng tôi và người ta đã nhốt Nadia trong một căn phòng trên gác xép. Có cả tiếng khóc nhưng chúng tôi không nhượng bộ! Nhưng nếu ông biết được lão đã nốc rượu như thế nào! Và còn cái thứ ngôn ngữ của lão! Giả nói liên miên về ông, nhưng làm sao có thể so sánh giả với ông được? Dù sao đi nữa, ông là một người đàng hoàng, và quả thật đã từng thuộc giới thượng lưu; giờ đây, vì thiếu phương tiện nên bắt buộc ông phải tránh xa giới này mà thôi, tôi tin là như vậy... Ồ! Mặc xác giả! Tôi chưa hoàn toàn hiểu...
— Vậy thì ra chính ông ta đã nói về tôi như thế?
— Vâng, chính lão, nhưng xin ông chớ giận. Làm một công dân lương thiện tốt hơn là thuộc vào giới thượng lưu. Tôi nói thế là vì trong thời đại này, ở nước Nga chúng ta, người ta không biết nên tôn kính ai. Đó là một điều bất hạnh cho một thời đại mà người ta không còn biết được ai là người đáng tôn kính, ông đồng ý chứ? Đúng thế chứ?
— Vâng, đúng, đúng! Nhưng mà ông ấy?
— Ông ấy? Ồng nào nhỉ? À, vâng, tại sao lão nói luôn miệng câu: ‘‘Cái anh Veltchaninov đã ngũ tuần rồi, nhưng ảnh lại sa sút. Tại sao ‘‘nhưng sa sút’’, mà không là ‘‘và sa sút’’? Lão cười và lập đi lập lại câu đó cả ngàn lần. Khi ở trên toa, lão bắt đầu hát rồi khóc. Thật là phát tởm! Đáng thương cho tên say đó!Ồ! Tôi không thích mấy đứa ngu. Rồi thì giả phát tiền cho kẻ nghèo để linh hồn Élisabeth được yên nghỉ. Vợ của giả?
— Không, con gái ông ta.
— Tay ông bị gì thế?
— Bị dao phạm phải. Không hề gì, rồi sẽ lành.
— Ông biết chứ, lão rời khỏi đây là tốt đó. Mặc xác lão! Nhưng tôi dám cá là vừa mới đến chỗ mới, lão sẽ cưới vợ liền. Ông không tin sao?
— Nhưng, cả anh nữa, anh cũng muốn cưới vợ đó chứ?
— Tôi?... À, tôi thì lại là chuyện khác... Ông thật là kỳ cục. Nếu ông đã năm mươi thì lão cũng đến sáu chục. Phải biết lý luận chứ, cụ ạ. Ông biết chứ, trước kia, đã lâu lắm rồi, tôi là một người thuần túy duy Slave, nhưng hiện giờ tôi lại chờ bình minh từ Phương Tây đến... Thôi, xin tạm biệt! Rất sung sướng được gặp ông mà khỏi phải ghé ông; xin ông chớ nài nỉ, tôi không thể nào vào nhà được, tôi không có thì giờ...!
Gã tiếp tục dạo bước, nhưng gần như quay gót tức thì.
— Chết thật, trí ớc tôi ở đâu thế này! Ông ấy có nhờ tôi đưa lại ông một lá thư. Thư đây. Tại sao ông không ra ga tiễn lão?
Veltchaninov trở lên phòng và xé phong thư mang tên ông. Phong thư không có lấy một giòng chữ nào của Pavel Pavlovitch, nhưng lại đựng một lá thư khác. Veltchaninov nhận ra nét chữ. Giấy đã ngã vàng, mực đã nhạt. Bức thư viết cách đây mười năm, hai tháng sau khi ông rời khỏi T... Nhưng người ta đã không gởi nó đến cho ông mà thay thế bằng một lá thư khác; chuyện này thấy rõ trong nội dung lá thư trên. Trong lá thư này, Natalia Vassilievna gởi lời vĩnh biệt, giống như trong lá thư ông đã nhận được, và nàng thủ thật với ông là nàng đã yêu một người khác rồi, nàng cũng không giấu việc mình có thai. Trái lại, để an ủi ông, nàng hứa sẽ tìm dịp trả lại đứa con, đoan chắc với ông là từ nay trở về sau, hai người sẽ có những nghĩa vụ mới và như thế tình bạn sẽ mãi mãi keo sơn gắn bó. Tóm lại, tuy không hợp lý mấy nhưng mục đích vẫn là một; gạt bỏ mối tình của Veltchaninov. Nàng cũng còn cho phép ông, trong vòng một năm nữa, trở lại T …để thăm đứa bé. Có Trời mới hiểu nổi vì sao, sau khi suy nghĩ, nàng lại gởi một lá thư khác thế cho lá này!
Đọc xong những giòng thư đó, Veltchaninov tái mặt, ông tưởng tượng Pavel Pavlovitch khi tìm được lá thư này và đọc nó lần đầu tiên trước chiếc hộp gỗ mun có cẩn xà cừ của ông bà để lại.
‘‘Chắc chắn cả lão ta cũng tái nhợt như một thầy ma, ông thầm nghĩ khi thấy chính bóng mình trong gương. Nó đọc, có lẽ khép kín mắt lại, rồi thì mở ra với hy vọng rằng lá thư sẽ chỉ là một tờ giấy trắng... Nó làm như thế ít ra cũng phải ba lần!...’’