← Quay lại trang sách

- 5 -

Một cơn bão trái mùa nào đó đang dồn ứ trên thành phố mới vào xuân, sống giữa trời yên biển lặng mà con người thấy như không khí bị nén ngột ngạt, sấm sét và gió cuồng sắp ập xuống đầu.

Gạo vọt lên vài ngày một giá. Mọi thứ đều thiếu, chỉ có người là thừa. Dân đói từ các tỉnh ngoài cứ tuôn mãi vào theo đường bộ, đường biển, nhiều nhất là theo những chuyến xe lửa thường bị máy bay Mỹ rượt theo quét đạn lửa từ toa đầu đến toa cuối. Dễ nhận thấy Mỹ không ném bom phá cầu và ga, cố tránh không đánh hỏng đầu máy xe lửa, những thứ sẽ cần dùng khi quân Đồng Minh đổ bộ chiếm Đông Dương. Người chết và hàng cháy không ngớt, nhưng các chuyến vẫn chạy cả ngày lẫn đêm, thả rơi vãi dọc đường những xác thui đen và thân hình đẫm máu, trút xuống các ga những vợ mất chồng, bầy trẻ lạc cha mẹ. Quân Nhật thiếu xăng dầu phải đi xe lửa nhiều hơn, ung dung ngồi trong toa hạng tư đã được sửa bên trong thành lô-cốt lắp bánh, với bao cát xếp kín cả bốn vách và dưới mái toa, hút thuốc lá Mic do Pháp cung cấp, đợi ngớt máy bay sẽ đi tiếp.

Trên những số nhật báo Đông Pháp đến Trung Kỳ muộn nhiều ngày, tin thắng trận của đội quân Thiên Hoàng do hãng Đô-mây đánh đi vẫn đầy dẫy quan đặc sứ Ma-txư-mô-tô cùng quan toàn quyền Đờ-cu nối tiếp nhau ca ngợi tình thân hữu Pháp - Nhật. Tạp chí Tân Á cứ ra đều và gửi biếu không, các chi nhánh Đai-nan Kô-si[1] mở tiệc mời các quan chức Pháp Nam nhiều hơn là bán bút máy Pi-lôt, các lớp đào tạo thông dịch viên tiếng Nhật lấy tăng học sinh. Mọi sự đều vui vẻ, tốt đẹp.

Trong bóng tối, Pháp và Nhật xỉa từng nhát dao vào lưng nhau và sắp nổ súng diệt hẳn nhau.

Pháp đặt căn cứ mật trên vùng núi, mộ rất nhiều lính Tây Nguyên về cho tập ráo riết. Máy bay Đồng minh thả bom xuống doanh trại Nhật, thả dù súng đạn xuống cho Pháp. Mật thám Pháp đang đêm ập vào xích tay những ai nhấp nhổm theo Đại Việt quốc gia xã hội đảng, dù chưa kịp uống máu ăn thề. Pháp để sẩy mất giáo chủ Hòa Hảo nhưng lại kịp bắt giáo chủ Cao Đài.

Phía Nhật xem chừng nhũn nhặn và kín tiếng hơn so với khi mới kéo vào Đông Dương. Những vụ húc xe và bạt tai quan chức Pháp giảm bớt nhiều. Lính Nhật ít ra phố, thu hình lại trong khu doanh trại che cót kín chung quanh hàng rào và những đồn lũy đặt pháo bờ biển, cao xạ. Rất nhiều toa xe chở ngựa mới mua từ Phú Yên ra, chờ đêm vắng mới trút ngựa đàn vào các vùng cấm ở chân núi. Chỉ có những chuyến bay tuần tiễu là tăng lên rõ: từng cặp máy bay khu trục Dê-rô lắp hai pháo rà rất thấp trên thành phố, vòng qua lại nhiều lần, rống nhức tai. Khi máy bay Mỹ đến đông thì Dê-rô biến mất, hình như chúng đậu núp bên dưới các cầu tàu xây bê-tông nhô ra biển. Người Việt tinh ý đoán rằng Nhật đánh Mỹ bằng cao xạ thôi, để dành máy bay đánh Pháp. Cứ nghĩ tới lúc máy bay Nhật giội bom ầm ầm xuống đầu các vị quan Tây bụng phệ, đeo đầy lon với ngù vàng bạc và chỉ quen lên xe xuống ngựa, cũng đủ sướng cái bụng đang đói!

Giữa những ngày căng óc căng gân ấy, Năm Phi Đao đến nhà thím Lụng với cái bọc khá lớn. Anh mở bọc, lấy ra một gói nhỏ nhét vào cái rương gỗ của Cam, một gói to hơn gửi thím giữ. Anh đưa xấp giấy bạc và nói rành rọt với thím:

- Tôi gởi thêm chị Sáu một tháng tiền cơm nữa cho thằng nhỏ. Hễ tôi đổi đi chỗ khác hay là bị mũi tên hòn đạn gì đó, chị rán nuôi giùm nó cho tôi năm bảy tháng, đợi ông già nó tới trả nợ chuộc về. Coi vậy chớ tôi sanh đúng giờ dữ, khi chết chắc là linh hiển. Cứ ăn ở tốt rồi tôi phù hộ cho cả nhà chị.

Thím Lụng xanh mặt, đánh rơi chén nước mắm cầm tay:

- Trời đất, chú nói gì độc miệng....

- Tôi làm ma, thiêng lắm đó chị. Không thèm hù dọa người ta đâu, tôi vật cho hộc máu đàng hoàng!

- Thôi thôi thôi, lạy chú một mớ lạy, chú nhậu say thì nói chuyện khác tôi nhờ!

Anh Năm xoay người bước ra, nháy Cam đi theo. Tới chỗ vắng anh mới ngồi bệt xuống sau một bụi xương rồng, cười đến sặc, ho một hồi mới nói được:

- Với mụ đó, phải oánh một đòn thất kinh hồn vía mụ mới thấm. Sáng mai trở đi, mụ không dám giao cho mày nấu bữa trưa nữa đâu. Mày ở trọ mà mụ coi như đầy tớ, bậy hết sức.

- Em nấu mau lắm mà. Nghe anh nói em cũng khiếp quá!

Năm Phi Đao kéo Cam ngồi xuống cạnh mình, cầm cổ tay nó nắn nắn một lát, nói rất dịu:

- Em còn ốm nhom, chữ nghĩa chưa được chút gì, thiệt tội. Có thương anh thì rán kiếm ít chữ bỏ bụng đi. Anh dốt đui dốt đen thành ra cực miết. Tình thế không yên được nữa, sắp tới họ đánh lộn nhau tới chữ, thân anh khó biết mất hay còn... Sụt sịt hả? Đúng thằng này là con gái bị bà mụ nặn lầm. Hết chưa?... Sanh ra trúng cái đời chó đẻ này, mình không ăn nẫu[2] thì nẫu cũng ăn mình, ở đó mà khóc mếu.....

Anh lại rút cái bi-đông chẳng bao giờ cạn trong túi dết ra, nhấp một hớp, trầm ngâm quệt miệng:

- Nghe anh dặn đây. Từ mai trở đi Tây nó cấm ra phố, nhốt hết trong đồn. Anh có vắng lâu thì đừng nóng ruột, đừng để mụ Sáu sai vặt. Nhớ kỹ điều này nghen: gặp hồi chộn rộn, anh Cả Chanh có thể trốn ra khỏi tù, về tìm em đó. Hễ gặp ảnh, em nói giùm thằng Năm Phi Đao là đứa biết tình nghĩa, nó nhắn cảm ơn đại ca, bấy nhiêu thôi. Nhắc lại anh nghe coi... Ờ, được đó, thôi về đi học!

Anh bỏ đi rất vội, không ngoảnh lại.

Ba hôm sau, đúng chín giờ tối theo giờ Đông Kinh một quả pháo hiệu đỏ rực vọt lên trời đêm. Lập tức súng lớn nhỏ nổ túi bụi phía đồn lính Ga-li-ê-ni điện thành phố tắt phụt, tiếng xe chạy và ngựa hí nổi lên trên các phố thường đêm vắng lặng. Không có tiếng máy bay và cao xạ.

Pháp và Nhật đã quật nhau chí tử.

*

* *

Sáng rõ mặt người. Cả Chanh nhất định vào nội thành tuy cha con ông Hai Rề cố can. Hai đứa nhỏ dậy muộn - đêm qua cô Thùy bắt chúng chui ngủ dưới gầm phản - ngơ ngác nhìn ông khách từ trong buồng xép bước ra, mặc quần đùi và áo ba lỗ, cái bao tải vắt vai. Anh đã nuôi được bộ râu khá rậm quanh mồm. Ông Hai cắt tóc cho anh theo kiểu nồi đất và chừa hai mớ tóc gọng kính ngoặc ôm vành tai, khuôn mặt anh trông khác hẳn đi.

Trời trở gió bấc hơi mạnh và se lạnh. Bãi biển và mặt biển đều vắng ngắt, sóng đập ồn hơn mọi ngày. Lính Nhật đã đứng gác trước các công sở, cầm ngang súng trường lắp lê, đội thêm mũ sắt trùm lên trên cái mũ vải “ba rèm” che gáy và hai tai. Chúng câm như hến, chỉ hẩy lưỡi lê xua những ai đi qua gần chỗ gác.

Chanh đi liều qua trước đồn Ga-li-ê-ni, sát mé đường bên kia, liếc nhìn vào sân đồn. Lính Pháp bị bắt đang khiêng các xác chết xếp dồn lại trước trụ cờ. Kẻ chết và người sống đều mặc đủ quân phục, quấn xà cạp và đi giày đinh hẳn hoi: Pháp không bị bất ngờ. Rất nhiều xác lính có băng đỏ quấn ngang bụng, anh nhận ra lính Đê theo lời tả của cô Thùy.

Trên đường phố, từng nhóm quân Nhật đội mũ sắt và cắm lá trên lưng đang đi tuần, men sát tường nhà, mắt gườm gườm.. Một chiếc xe tải dừng xịch trước cây xăng trên vỉa hè, hẳn là để bắt nộp xăng dầu. Cửa hàng Đai-nan Kô-si ở phố Gia Long mở toang cửa, năm bảy người trẻ tuổi mặc sơ mi ngắn tay và quần soóc nghênh ngang ra vào, cười hô hố, bắt đầu đeo vào tay áo cái băng trắng in hình tròn đỏ của cờ Nhật, nhưng' chưa kịp cạo trọc đầu làm Nhật lô-can[3], cũng chưa được phát võ khí.

Đúng như Chanh đoán trước, ngoài đường không còn tên cảnh sát nào. Nhật chỉ soát tìm súng hay lựu đạn, không soát giấy, anh yên trí hẳn, dừng đọc mấy tờ thông cáo in chữ to dán trên tường, từng lúc suýt bật cười vì câu chữ lủng củng và in sai lu bù.

Bản Tuyên-ngôn của Chánh-phủ Đại-Nhựt.

Quân-đội Nhựt vì sự phòng thủ Đông-dương cho nên định triệt-bãi công-chức Pháp ngang-nghịch với Đại Nhựt-Bổn và ban-trợ phương- tiện cho công-chức đương-hành mà có thật-tâm cộng-tác với Nhựt-Bổn như thế để có thể cộng-tác mà đạt được mục-đích nói trên...

Trên một tờ khác, “Quan Tổng-Tư-Lịnh Quân Đội Nhựt” hăm dọa rất gắt: “Những người nào bất cầu đại tiểu trở-ngại đến cuộc hành-binh của quân-đội Nhựt thì sẽ chiếu quân pháp mà nghiêm trị...”

Một ông già đứng đọc bên anh lẩm nhẩm:

- Lính của họ, họ còn bắt đứng gạc-đa-vu[4] đánh cho hộc máu nữa là dân mình.

Thấy có người bên ngoài, một bà đánh bạo hé cửa dòm ra, thì thào.

- Ai bắn ai vậy các ông? Giấy gì đó ông?

Ông già quay lại:

- Lính với quân đánh nhau. Giấy dán trước nhà bà, ra coi chớ thập thò gì nữa... Không biết chữ hả? Họ biểu mình xê ra cho họ uýnh lộn thả cửa.

Chanh bỏ đi, vẫn tức cười. Tụi Nhật không dám tin người Việt Nam đến cái độ phải dùng người Nhật viết thông cáo, kể cũng lạ. Ngay cả những tờ báo lá cải hay kiếm hiệp ba xu cũng không dám in những dòng ngô nghê như thế.

Đường phố vẫn thưa người qua lại, chỉ có đàn ông ra khỏi nhà nghe ngóng xem các thông cáo. Tiệm vải Lợi Thịnh đã gần, một căn phố hai tầng quét vôi trắng, đã lâu không quét lại nên màu xỉn và loang xám. Chanh băng ngang đường sang vỉa hè bên kia, thong thả đi tới. Một bắp thịt nào đó trong bụng anh chợt thít lại, đan đau.

Cửa lùa mặt trước tiệm đóng kín. Cửa xép chỗ hông bên phải cũng đóng. Chỉ có cửa sổ trên giác đang mở nhưng không có bóng người. Chanh bỗng thấy chân mình mỏi nhừ, anh gượng đi thêm vài chục bước rồi ghé vào một thềm nhà, ngồi xệp chỗ góc tường khuất, nhìn đăm đăm vào chỗ cửa xép thường chạy thẳng vào sân sau, nhà bếp. Chủ tiệm nằm nhà thì phải có đứa ở đi chợ hay mua quà sáng. Nhỏ như thằng Cam ắt được sai vặt như thế. Nó sẽ ra, sẽ ra...

Một cặp máy bay Nhật lướt qua, bay thấp hơn mọi ngày, bóng một chiếc quét ngang mặt đường nhựa. Chanh ngồi dựa ngửa đầu, lim dim mắt trông chừng bên kia, cố nghĩ xem mặt mũi đứa em bây giờ ra sao.

Anh là con đầu lòng, tuổi Thân. Nó thứ sáu, cũng là tuổi Thân, thua anh chẵn mười hai năm, như thế vào năm Dậu này nó mười bốn tuổi ta, tức mười ba tuổi tây. Anh theo cha vào Qui Nhơn khi nó mới được vài tháng, đang ngọ nguậy trong nôi. Lần cuối cùng anh trông thấy nó là năm 1936: anh được nhận vào làm thợ học việc trong đề-pô xe lửa Qui Nhơn theo cha về thăm nhà mươi hôm rồi trở vào một mình đi thẳng một hơi cho đến nay. Trong chục ngày ấy anh cõng nó đi tắm sông, tập cho nó thôi nói ngọng, kể chuyện vùng biển có cá ông voi nuốt người vào bụng nhiều đến nỗi người ta lập một làng trong bụng cá. Hồi ấy mặt nó tròn phình như trái cà chua, chân tay bụ bẫm. Năm ngoái cô Thùy lại thấy nó ốm nhom mà cao cao...

Chanh nặng nề đứng dậy, vất mạnh cái bao tải lên vai. Không nên đợi, cũng không thể gõ cửa nhà Lợi Thịnh hỏi nó. Anh em sẽ không nhận ra nhau, anh sẽ phải kể hết tông tích với nó trong khi đang cần giấu mặt. Và có thể vợ lão phủ Đỉnh sẽ căn vặn về con người lạ mặt, nó không chối quanh được mãi.

Một tốp lính Nhật nữa đi qua, không đội mũ sắt và cắm lá, có một thanh niên chừng hai mươi tuổi đeo băng in cờ Nhật đi theo, giải một tên Pháp cao lênh nghênh bị trói tay sau lưng. Chanh thoáng thấy dưới mũi hắn có một mảng rất trắng nổi rõ trên da sạm nắng: hắn vừa cạo bộ râu mép rậm để đổi dạng. Anh chợt nhớ bộ râu mới nuôi đang bao quanh miệng mình, thấy buồn cười.

Anh rẽ sang một đường hẻm, tìm nhà Bảy Tộ. Chưa giao được việc lớn cho cậu lái xe lửa kiêm buôn lậu này, nhưng hắn có thể dò tìm thằng Cam cho anh. Hắn khôn lắm, chắc trong lúc quân hồi vô lệnh hắn chẳng vội tới nhà ga đâu.

Cũng trong buổi sáng ấy, Cam xách cái giỏ mây rỗng đi băng qua vùng nhà lá thưa thớt của xóm Bàu, về phía chợ xép họp trên đường ô-tô vào Gành Ráng.

Chợ vẫn đông như mọi ngày, chỉ có các tiệm người Tàu không mở cửa, có lẽ họ thấy chộn rộn đang lo chôn của và dò giá mới. Chị hàng xén vừa bày mấy thứ ra sạp. Nghe Cam rỉ tai mấy câu, chị vội thu hết vào bồ, buộc nắp, gửi bà bên cạnh coi giúp, kéo Cam vào trong nhà:

- Anh Năm bị sao mà phải mua đồ băng bó? Ăn uống được không, hay là... Ảnh đang ở đâu? Em là gì của ảnh? Nói mau đi!

Chị hỏi dồn không kịp lấy hơi, lại cứ giục Cam nói. Nhưng anh Năm cấm không được kể với ai là anh đang ở nhà thím Lụng. Bác cai Sáu sợ quá đã đeo khăn gói chạy thẳng lên Tuy Phước ở nhà bà con, anh Năm Chò bị đạn xuyên qua đùi không đi xa được, phải về đấy núp trong buồng vợ bác Sáu.

Cam ấp úng một lát rồi phải nói thật. Coi bộ chị này không dính dáng với Tây Nhật, mà thương anh Năm rất ghê. Nó tin anh, tin luôn những ai thương anh.

Chị nghe xong, ra gánh luôn đôi bồ vào nhà cất kín.

- Chị nhớ rồi, em là thằng Cam phải chưa? Ảnh có kể mà chị quên. Ngồi đợi chút, chị đi sắm các thứ ảnh dặn. Gì chớ rượu thì đừng hòng chị cho uống! Ăn kẹo đi nè!

Nửa giờ sau, hai người xách hai giỏ nặng lội cát đi về xóm Bàu. Qua những câu đứt đoạn, Cam biết đây là chị Tư Toản, hay bán rượu lậu cho lính đồn và riêng cho anh cai Năm, “cũng bồ bịch với nhau chút đỉnh mà chưa tới đâu hết”. Người chị gọn và khỏe mặt cũng dễ coi nhưng lấm tấm nhiều tàn hương trên gò má cao.

Bước vào nhà, chị nói bô bô:

- Chào chị Sáu, tôi tới thăm Năm Phi Đao đây. Ảnh đâu rồi?

Thím Lụng giơ tay như muốn bụm miệng chị Tư:

- Tôi chắp tay tôi lạy cô, Nhựt Bổn họ tới đốt nhà, bắt bỏ tù hết...

- Ối trời đất cha mẹ ơi, cai đội người mình kéo đi hôi của rển rển ngoài đường kia, có đâu trốn chui trốn lủi như thầy cai Sáu với thầy Năm! Lão đội Chầm mới sáng đã tới đập cửa nhà tôi hỏi rượu, mà phải thứ nước nhứt để lão cúng tổ, tạ ơn đạn Nhựt xẹt rách áo mà chừa cái bụng! Chắc anh Năm rúc dưới giường nhà chị chớ gì? Tôi vô coi ảnh ngột thở hay chưa!

Chị xách giỏ bước thẳng vào buồng trong. Anh Năm Chò mặc may-ô quần đùi nằm trên giường, chân trái gác trên gói áo quần và quấn vải trắng giữa đùi, có vết máu loang bầm. Anh chắp hai bàn tay lót sau gáy, không nhấc đầu lên, chỉ cười tủm tỉm:

- Bông-rua cô Tư! Cái lưỡi cô còn bén hơn mớ phi đao của thằng Năm. Tôi có năm lưỡi thôi, cô được mấy?

- Không bén mà sống nổi với anh...

Chị nói được bấy nhiêu rồi đặt phịch cái giỏ xuống, ghé ngồi cạnh giường, đặt bàn tay run rẩy vào chỗ vải băng:

- Anh Năm... trúng xương không anh?

- Chỗ thịt thôi. Không làm độc thì mươi ngày đi được.

Chị Tư úp hai bàn tay trên mặt, bật khóc hu hu mà cố nói:

- Báu gì... mấy đồng lương lính.... mà anh thí thân thí xác vậy. Anh chết đi, em ở với ai... Một ngày là nghĩa, chuyến đò nên quen, em đâu phải như tụi đĩ bợm mỗi lần chơi một lần tiền... Không gì cũng từng trăng thề quạt ước với nhau, anh về ở nhà em nuôi...là cái ngãi tào khương...

Chị xì mũi cả hai bên, kéo cái giỏ lại, rút ra liên tiếp một gói giấy loang mỡ, một hộp bánh bích-qui tây in màu sặc sỡ, một chai lít vuông nhét nút lá chuối khô, hai hộp sữa Con chim.

- Tính không cho anh giọt nào nữa hết... Anh bị nhẹ, thôi, uống chút ít cũng được. Anh nhậu với ba-tê gan đây, sơ sơ vài ly... Cam, bắc giùm chị nửa siêu nước sôi, giỏi đi em!

Chị đưa anh Năm con dao tám lưỡi của lính Tây có đủ thìa nĩa xếp gọn vào cán, rồi thoăn thoắt ra nhà ngoài, thì thào một hồi với thím Lụng. Thím nghe ừ ừ và gật đầu liên tiếp, mặt tươi lên dần, thím te tái vào buồng:

- Chú Năm có cô Tư đây trông coi rồi, tôi gởi nhà đi một lát nghen. Đụng người vợ như cô Tư là số chú hên lắm đó!

Chị Tư soạn cái giỏ của Cam, lấy ra mấy gói băng cấp cứu của lính, pha thuốc tím vào nước nóng, xoa cồn 90 cho vào tay, thạo như y tá nhà nghề. Anh Năm cứ uống nhấm nháp, ăn ba-tê, trong khi chị rửa vết thương và kể dài dài:

- Em hỏi rồi. Lính Tây rúc trong lô-cốt, không dám chạy mà cũng chống cự ít, phần lớn ra hàng khỏi chết. Lính mình khôn nhứt, anh nào cũng xếp sẵn một khăn gói, súng nổ gắt là vạch rào trốn hết. Tội nghiệp đám lính Đê, bị Tây bắt nằm dưới tăng-sê dọc rào thép gai, dặn hễ bỏ chạy là xử tử, mấy cha ở đó bắn miết, bị Nhựt giết nhiều quá. Họ bò phía sau tới, ném thử tạc đạn xuống tăng-sê... Nhựt ít quân lắm anh ơi. Họ lén treo mấy chục dây pháo chung quanh đồn, thứ pháo to thiệt dài mua ở tiệm Tàu đó, chích lửa. Lính Đê thấy lửa nháng, nổ rẹt rẹt đùng đùng, cứ nhè chỗ đó mà bắn. Nhựt đi vòng tới sau lưng không biết. Sáng ra, tụi con nít đi rình hôi của chung quanh đồn thấy xác pháo dồn từng đống sau các bụi cây, nhiều nhứt là phía biển... Hồi nãy em nói với chị cai Sáu là nói thiệt đó anh. Nhựt nó lo tìm bắt Tây thôi, sức đâu đi tìm lính mình đang chạy tứ tung... Mấy đứa cảnh sát, mật thám lột áo trốn hết. Lý trưởng hương hào nằm nhà im xo, đợi coi vua quan làm ăn ra sao. Nghe nói ông vua Bảo Đại bị nhốt cứng, quan Toàn quyền bị chặt đầu... Ôi chao, ngó đi ngó lại anh xài mất nửa lít rồi! Uống giải khuây bấy nhiêu, khui bích qui ra ăn đi. Chị Sáu chưa về nấu cơm đâu, em bày cho chị cái tuy-ô mua đồ ăn cắp, đồ hạng nhì thôi, hạng nhứt tối nay có xe kéo chở tới nhà em. Lính Nhựt tới gác nhà Tây thiệt là khờ, cứ đứng ngang cổng trước như trời trồng, người mình vô cửa sau khuân đồ ra xe kéo sạch trơn... Anh ở tạm đây ít bữa, đi cà nhắc được rồi em đón về nhà ở với nhau, đón luôn thằng Cam nữa, chòm xóm nói gì cứ kệ cha họ. Đời con Tư Toản này ba chìm bảy nổi hai mươi mốt lênh đênh, chẳng ai nuôi bữa đực bữa cái nào đâu mà đòi dạy nó sự phép tắc lễ nghi!

*

* *

Các giáo sư trường Luật đều bị bắt hoặc đi trình diện với Kem-pê-tai[5] không ai đến. Mấy ông trợ lý lảng vảng thăm dò tình hình, ghé văn phòng một lát lại bỏ đi. Từng nhóm sinh viên qua lại ngoài sân, truyền cho nhau rất nhiều chuyện thục có hư có về cuộc đảo chính đêm qua.

Hai Khánh ra Hà Nội được hơn một tuần tin súng nổ. Chuyến thăm quê của anh gặp nhiều may mắn, xe lửa không bị máy bay bắn, đồ đạc không bị mất cướp hay mất cắp. Sau cơn giận hờn, Mỹ Duyên xoay được vé toa nằm cho anh đi chung với quan Tây chỉ dặn anh phải mặc com-lê ca-vát và cho tiền người hầu kha khá. Khi hôn nhau thật dài để chia tay nàng nhét một phong bì khá dày vào túi áo vét-tông của anh, về sau đếm được một ngàn hai trăm đồng, gần gấp đôi số tiền bà Lợi Thịnh cho anh. Tội nghiệp cho bà dì mới mười chín tuổi! Anh chấm hai ngón tay vào môi, ném qua cửa sổ toa xe đang chạy một chiếc hôn gió gửi Xi-mo-nét.

Khánh đi từ nhóm này sang nhóm khác, lượm những mẩu tin đôi khi rất khó tin. Nghe nói sinh viên Y khoa rất bốc sau đảo chính. Bốc là phải, Tây đổ thì họ ra bác sĩ sẽ làm trùm làm trưởng tha hồ. Sinh viên Luật xem chừng âu sầu cho thân phận mình nhiều hơn.

Nhưng không phải ai cũng âu sầu. Một gã đeo kính trắng và cắt tóc dài kiểu phi-lô vừa nhảy lên bậc thềm, vành tay lên miệng:

- Xin mời các bạn đến nghe tuyên ngôn cua Thanh niên ái quốc đoàn. Thanh niên ái quốc đoàn đã kịp thời lên tiếng trước thời cuộc. Muốn hiểu vận hội mới của quốc gia, xin mời nghe tuyên ngôn...

Hai Khánh giữ thái độ độc lập của bậc trí giả, chỉ bước tới thong thả và đứng vòng ngoài, đút tay túi quần nghe gã kia đọc tờ giấy đánh máy. Gã đọc chật vật có lẽ vì máy chữ không có dấu. Chung quanh Khánh nhiều bạn bọc xì xào.

- Thằng Nham ở năm thứ hai. Dốt, rờ-ca-lê[6] một keo.

- Nó đang luyện mép để ra làm thầy cãi...

- Cãi vã gì nó. Làm chính khách!

Thêm một cái tên phe phái mới ra lò sau mươi phút bàn bạc của một dúm người lựa gió phất cờ. Từ sáng đến giờ Khánh đã nghe vô số cái tên kêu to như thùng rỗng: Cách mạng đảng, Quốc xã đảng, Phục quốc hội, Hưng Việt đồng minh, Quốc gia liên minh. Chỉ có cái tên Quốc dân đảng là quen tai, nhưng lãnh tụ Nguyễn Tường Tam của họ biến đâu mà lâu thế?

Tiếng cười nổi to dần khi gã đeo kính đọc lầm liên tiếp. Khánh bỏ ra góc sân, mỏ khóa xe đạp, qua cổng. Anh đạp chậm một vòng, ngao du xem cảnh đường phố trong “vận hội mới”.

Nhà hát lớn vắng ngắt. Hiệu ăn Con gà vàng đóng cửa. Nhà hàng Gô-đa đóng cửa. Vườn hoa Pôn-Be đầy người chạy nạn đói từ nhà quê ra. Trước Ngân hàng Đông Dương, một đám đông túm tụm chờ rút tiền, nhưng mấy chục lính Nhật chặn cứng mặt trước, có cả mấy họng súng máy chĩa sẵn.

Đường Bờ sông có vẻ bình thường hơn với những nhóm phu phen đi lại, nhưng vắng xe tải. Đạp thêm một quãng nữa, Khánh đã thấy chán nản. Tăng Nhật bớt Pháp là hết chuyện. Anh rẽ qua trước nhà thương Đồn Thủy, chợt thấy một dáng quen quen ra khỏi cổng. Một sĩ quan Nhật không râu mép, không gươm dài, chỉ đeo súng ngắn và cái xắc-cốt treo đứng. Anh lái xe chầm chậm tới gần, gọi:

- Kon-ni-chi-oa, Ta-kê-đa-xa.[7]

Viên sĩ quan giật mình quay lại, gật đầu:

- Kon-ni-chi-oa!

Khánh xuống xe đi cạnh viên trung úy quân y. Vốn liếng tiếng Nhật của anh chỉ có mấy từ chào hỏi. Hai người nói tiếp bằng tiếng Anh. Ta-kê-đa là sinh viên y khoa chính gốc Đông Kinh, nói tiếng Anh khá thạo và mới sang Đông Dương hơn nửa năm. Khánh gặp gã này khi gã đang lúng túng hỏi anh phu xe kéo phải trả bao nhiêu tiền, đó là chuyện lạ, bọn sĩ quan Nhật chỉ quen rút một khúc gươm ra khỏi vỏ và thúc trở vào đánh cốp, thế là xong. Thấy anh kéo xe giơ hai ngón tay, gã hỏi gặng bằng tiếng Anh: “Tôi không hiểu. Hai đồng hay là hai mươi xu?”. Khánh từ trường Luật về, ghé lại dịch hộ gã phải trả hai mươi xu. Gã rất mừng gặp người biết tiếng, hẹn gặp Khánh chiều hôm sau trong tiệm cà-phê nhỏ gần Đồn Thủy. Họ chơi với nhau từ dạo ấy.

- Trước tiên, xin chúc mừng anh nhân dịp chiến thắng lớn của Hoàng quân Nhật Bản. Các anh đánh giỏi tuyệt vời.

- Cảm ơn anh. Riêng tôi không nổ phát súng nào cả.

- Tất nhiên. Nhưng anh tạo nên sức khỏe của quân đội. Cấp trên đã nói gì về số phận của Đông Dương chưa?

Ta-kê-đa khẽ mỉm cười:

- Ta đi uống cà-phê nhé? Xong, tôi sẽ ngủ một giấc đến tối... Theo tin Đô-mây, thủ tướng Koi-xô sáng nay đã tuyên bố tôn trọng chủ quyền quốc gia các xứ Đông Dương. Vua Bảo Đại có thể ngồi yên trên ngai vàng. Chắc anh vui lòng?

Hai người vào tiệm cà-phê cũ. Bà chủ mọi hôm hay lánh mặt, nay ra tiếp họ xoắn xuýt. Viên trung úy gõ gõ ngón tay, lơ đãng:

- Anh gọi hộ tôi một cốc cà-phê lớn, pha rom gấp đôi. Tôi đang cần uống. Tôi mệt và buồn ghê gớm, anh Khánh ạ.

Uống đến cạn nửa cốc cà-phê, gã mới dằn từng tiếng:

- Chiến thắng... đúng là quân chúng tôi đánh khá. Nhưng thắng mà làm gì? Táo bạo để làm gì?... Anh gọi cho tôi thêm hai ly cô-nhắc. Anh cũng uống với tôi đi. Hãy chạm cốc, cùng tưởng nhớ nước Nhật đang chết.

Thấy vẻ mặt sửng sốt của Khánh, gã cười rầu rĩ:

- Đừng tưởng tôi say. Đã uống đâu mà say... Bạn tôi là đại úy thông tin, lén báo cho tôi sáng nay: Đông Kinh vừa bị một trận bom lửa chưa từng có trong lịch sử loài người, ở đây chúng tôi nổ súng đánh Pháp lúc chín giờ tối, ba tiếng sau có chừng bốn trăm chiếc pháo đài bay B.29 dội bom cháy xuống Đông Kinh. Mỗi chiếc chở tám tấn bom, anh thử tính xem. Nhà tôi ở khu phố Bun-ki-ô, nhà gỗ, vách giấy bồi, lọt trong đường hẻm chật, khó chạy thoát... Còn vợ sắp cưới của tôi nữa. Tô-si-kô phải bỏ học đi làm cứu thương, bom đến mấy cũng không được rời trạm cấp cứu...

Một nhóm lính Nhật bước tới cửa, tần ngần dừng lại khi thấy viên sĩ quan. Ta-kê-đa đanh mặt, vỗ mạnh vào bao súng ngắn, quát to như sủa:

- I-chi-ma-ê![8]

Bọn lính rập chân chào, bỏ đi nhanh.

- Mặc kệ chúng nó. Lỡ có đứa biết tiếng Anh, nghe lỏm... Hà Nội có tất cả mười vạn dân, đúng không? Chính phủ Nhật báo tin ước tính có mười hai vạn dân Đông Kinh chết chạy đêm qua. Chúng tôi đoán phải nhân đôi con số ấy.

Khánh giương to mắt:

- Thế... không quân Nhật? Đại bác phòng không?

- Máy bay Dê-rô và Ru-phê rụng cánh gần hết rồi. Cao xạ chỉ bắn tới tám cây số, mà B.29 bay cao trên mười cây số. Lập đội Ka-mi-ca-dê tự sát để đánh tàu chiến chứ không chống được máy bay... Nước Nhật đang chết. Những người thân của tôi đã và sẽ chết. Thêm một cô-nhắc nữa đây!

Gã ép hai nắm tay vào thái dương khá lâu trước khi uống cạn ly rượu cuối cùng, lảo đảo đứng lên. Trên đường về Đồn Thủy, Khánh đắn đo hỏi:

- Nghe tin các anh, lực lượng nào sẽ làm chủ Đông Dương?

- Việt Minh. Rõ quá rồi. Pháp đã hạ súng đầu hàng. Nhật sẽ bại trận chẳng trước thì sau. Chỉ còn một mình Việt Minh đủ sức nắm quyền. Nghe nói họ là cộng sản, Anh Mỹ không ưa họ. Cần gì, họ liên kết với nước Nga là mạnh chán.

Bắt tay nhau trước cổng nhà thương, viên trung úy còn nói thong thả và rất tỉnh:

- Nếu tôi là người An Nam như anh, tôi đã theo Việt Minh từ lâu rồi! Tạm biệt nhé!

Chú thích:

1) Tiếng Nhật. Đại Nam công ty: tổ chức tình báo Nhật ngụy trang buôn bán.

2 ) Người ta.

3 )Tiếng Pháp. Local: bản xứ, địa phương.

4) Tiếng Pháp. Garde-à-vons: đứng nghiêm.

[5] Tiếng Nhật. Hiến binh đội: tổ chức kiểm soát dân chính của quân đội Nhật.

[6] Tiếng Pháp. Rơ-ca-lê: thi trượt

[7] Tiếng Nhật: Chào ngài Ta-kê-đa

[8] Tiếng Nhật: cút đi.