- 6 -
Trước khi vượt ngục Kon Turn, Cả Chanh được giao một số đầu mối liên lạc ở Quy Nhơn và Hội An. Đồng chí nắm đầu mối Tu-ran đã bị chuyển đi lao Ban Mê Thuột, chưa móc nối được. Chanh không được phép ghi chép gì hết, anh phải học thuộc lòng họ tên, tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp, mật hiệu của từng người.
Khi bàn với ông Hai Rê chọn người đưa thư - những lá thư thăm hỏi có mật hiệu chen vào - Chanh thấy ông Hai chẳng tin ai cả. Đến con gái ông cũng khó tin cậy.
- Nói thiệt với chú, chưa qua đòn tra mật thám thì đố biết ai vững ai hèn. Thằng Xuân chạy trốn khủng bố đó, tôi nuôi như ông hoàng, bị đánh đau nó dẫn mật thám tới nhà, chỉ giữa mặt tôi cho bắt. Thôi thì đủ thứ kềm sống, kềm chín, kẹp ngũ trảo, bốn lần tra điện nữa, tôi cắn răng chịu, cãi lấy được, rứa mới thoát án đó chú. Tôi tin chú. Chú bị bắt khi đang rải truyền đơn, nghe nói tụi nó băm vằm chú cả tháng, rốt cuộc một mình chú lãnh án bảy năm tù, anh em chẳng ai rầy rà chi hết, họ phục chú lắm lắm. Con Thùy còn non nớt rứa, lỡ nó khai ra chú thì tôi vô quan tài cũng không nhắm mắt được mô!
- Bác thấy đó, cháu đi lại khó quá. Bây giờ đang hỗn quan hỗn quân còn đỡ, nay mai bộ máy mật thám của Nhật ổn định lại, nó lùng sục bắt bớ tràn lan, những người dính dáng với cháu sẽ lần lần bị moi ra hết…
- Thôi thì vầy: chú giao việc nớ cho tôi. Một mình tôi là đủ, đừng chắp ghép với ai nữa, con Thùy cũng đứng ngoài.
Ông Hai đã quyết thì đừng hòng lay chuyển. Bàn tính xong lúc mười giờ đêm, sáng hôm sau ông mó ngay vào việc.
Tên lý trưởng trước cò kè chưa ngã giá cái giấy thuế thân, nay thân hành cầm giấy tới nhà ông:
- Bác đưa cho ai thì bảo họ điểm chỉ. Bác nói là bà con vô làm ăn, cháy đồ trên xe lửa, thì tôi cứ biết vậy chớ không tò mò. Sắp tới đây vật đổi sao dời, có gì bác nói giùm tôi mấy tiếng là đủ, miễn tôi được yên thân mà nạp cái đồng triện!
Xong một khoản. Tới việc làm của ông ở đề-pô xe lửa. Bọn kỹ sư và đốc công Pháp không bị bắt, chỉ phải trình diện và làm việc dưới quyền một tên hiến binh Nhật. Tên này mít đặc nghề xe lửa, chỉ biết mắng bọn “quỷ da trắng” và nói từng tràng về Đại Nhựt Bổn, Đại Đông Á. Tên phiên dịch lặp mãi đến nhàm chán khi dịch cho công nhân hắn đâm ra tùy hứng.
- Bữa nay ổng nói gần gần như hôm qua. À mà ổng có thêm là hoàng đế Bảo Đại với sáu ông quan lớn nhứt ở Huế đã xin cho nước mình độc lập rồi, chánh phủ Nhựt cũng cho mình độc lập rồi... Học trò trường cô-le kéo đi tung hô vạn tuế là mừng cái sự đó. Anh em đây cũng phải mừng như vậy... Tôi nói cho dễ: mình chưa kịp học tiếng Nhựt hễ gặp họ thì cứ giơ tay vầy nè, hô thiệt to “ban-dai! ban-dai”[1] là họ ưng bụng, khỏi lục soát gì hết.
Một số công tư chức ở Quy Nhơn nhảy ra lập “Ủy ban quốc dân tỉnh Bình Định”. Cái ủy ban táp nham ấy gồm đủ hạng người: đảng phái thân Nhật có, làm áp-phe chính trị có, ngây thơ tưởng đã độc lập có, ham lạ có, nhưng tất cả đều muốn chia bớt đôi chút quyền hành của các quan Nam triều. Viên phó ga người Việt dự họp về, lắc đầu: “Nội cái chuông giữ trật tự của ông xếp... à quên, ông chủ tịch, cũng cãi như ễnh ương cả giờ”.
Nhân tên hiến binh Nhật cho phép cử Ban đại diện công nhân, Chanh bàn với ông Hai:
- Thử sức một keo coi, bác. Họp bầu xong, anh em đưa luôn yêu sách phải cho tụi Tây thôi việc hết. Thiếu gì cớ. Việt Nam độc lập rồi, sao còn để xếp Tây cưỡi cổ. Tây làm ít phá nhiều, làm gián điệp cho Anh Mỹ đánh Nhật. Hễ Anh Mỹ đổ bộ thì Tây nổi loạn tức thì. Thằng Nhật nghe chỗ này chắc rúng xương. Nó không biết xe cộ gì, cứ nói anh em mình tự lo được hết.
- Chắc nó phải hỏi thượng cấp...
- Hễ nó dây dưa, anh em cứ lãn công. Tức là làm chơi chơi, nghỉ nhiều hơn làm. Tụi Tây ghét Nhật, sợ người mình, chẳng dám thúc ép đâu.
Mọi việc diễn ra gần đúng như vậy. Ban đại diện được bầu, ba già hai trẻ. Nhiều người giới thiệu ông Hai Rề, ông đứng dậy ngửa cái đầu tóc tiêu muối:
- Tôi vô đó cũng được, mà sợ phiền cho anh em. Một, tôi theo đạo chúa, ắt là Nhựt họ ngại. Hai nữa hồ sơ sổ đen Sở mật thám đang còn đó, Tây nó ghi tôi là tình nghi cộng sản. Ít bữa rồi Nhựt họ khui, ra coi, họ lại tưởng cả Ban đại diện là cộng sản hết. Rứa tôi mới xin tháo lui cho khỏi rầy rà, chớ cái mạng già ni xin sẵn sàng thí bỏ!
Cuộc họp ban nãy nhao nhao lên khi có người rụt rè nêu tên lão cai Tống - tên chỉ điểm chuyên nịnh trên nạt dưới - lúc này lại nhao nhao một lúc vì ông Hai. Rốt cuộc họ bầu được năm người tất cả.
Bọn Nhật không quá dại như Chanh tưởng. Tên trùm hiến binh Qui Nhơn vọt xe lên ga, gọi hết dân thợ dân thầy đến. Hắn dỗ một lát, dọa một hồi, thề sẽ đánh trốc gốc Việt Minh cộng sản bên trong và quân Anh Mỹ bên ngoài, hẹn sẽ trừng trị thẳng tay nếu xe lửa chạy hụt chuyến, thiếu toa, chậm giờ, chết máy. Không một lời nào nhắc tới độc lập hay chủ quyền.
Một số thợ già và viên chức sợ xanh mặt, lảng tránh Ban đại diện. Hầu hết thợ trẻ quyết làm tới. “Đến thằng Tây ngã ngựa mà còn để cho nó đè đầu thì quá nhục, nhục không để đâu cho hết”. Và cuộc lãn công bắt đầu.
Ông Hai Rề nổi tiếng trong xóm là người chỉ coi trọng những nghề sắt thép máy móc. Cụ lang già ở gần nhân đến chơi ngày Tết, đã lỡm ông là “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu hỏa xa cao”. Ông không bực mà còn gật gù thích chí.
Thế nhưng bây giờ ông ngả sang đi buôn. Chường mặt ra mà buôn, kiếm lời từng xu từng cắc, không phải như những ông thợ khác kiếm vốn cho vợ con mở sạp hàng mà còn phân bua rằng để họ ở không dễ sinh hư. Ông mượn đâu được cái xe đạp cọc cạch đã tháo hết những gì có thể tháo, sắm đôi giỏ tre lớn treo hai bên chỗ đèo hàng, bắt đầu chạy chợ. Ông buôn đồ la-ghim từ vườn tới chợ, từ chợ tới tận các ngõ hẻm và xóm lẻ. Gặp người quen, ông lắc đầu ngán ngẩm: “Xe hư dồn đống, đã làm mửa mật mà lại cứ bị Tây thúc, Nhựt chửi, đồng lương chết đói sống răng cho nổi”. Cai ký ở đề-pô thấy ông khai đau ốm liên miên, biết ông cùng anh em lãn công mà không dám bẩm báo lên trên.
Có một điều chỉ riêng ông biết: Ông làm liên lạc cho đồng chí Phan Chanh.
Bảy Tộ mới nghe Cả Chanh nói mấy câu đã vung tay ngắt lời, chòm râu mép đen như vệt mực nhảy lia lịa:
- Em thưa vầy anh Cả đừng phiền. Anh Cả giỏi việc nước việc đời, còn công chuyện lặt vặt như anh Cả nói đó thì em đây mới chúa. Đã buôn lậu thì phải nhiều tay chân, mỗi đứa tay chân lại làm đầu nậu một mớ tiểu yêu nữa. Hễ thằng nhỏ gì đó còn ở Qui Nhơn thì nội nhựt bữa nay em tầm ra nó cho anh. Cái phố bằng bàn tay đâu khó như Sài Gòn!
Chanh phải dặn đi dặn lại Bảy Tộ không được nói với đám đàn em là có người nhà đang tìm thằng Cam, mà chính Bảy Tộ muốn giao việc gì cho nó.
Tối hôm sau anh quay lại nhà Bảy Tộ, chưa dám hi vọng. Bảy Tộ đọc luôn một hồi vanh vách: thằng Cam không được ăn học mà ở đầy tớ cho nhà Lợi Thịnh, bị nghi thông đồng ăn trộm, bỏ trốn vào khoảng tháng sáu năm ngoái, đi ăn xin lang thang, nay đang được một cai khố đỏ là Năm Phi Đao nuôi, ở trọ nhà thím Lụng trong xóm Bàu, mặc áo quần lành và tối tối đi học Truyền bá quốc ngữ. Nó vẫn lẩn lút.
- Năm Phi Đao... hắn ta ở đây à? Mày gặp hắn lần nào không? Nhà hắn chỗ nào?
- Ơ hơ, anh cả biểu em tầm nã thằng Cam chớ đâu có hỏi phi đao phi tiêu gì! Anh muốn gặp thì em chở xe đạp nó tới đây, hay là em dẫn anh tới xóm Bàu ngay bây giờ. Đi đường tắt êm ru, tới đó em hỏi nhà thím Lụng, kêu nó ra...
Chanh ngồi thần mặt. Đôi lông mày nét mác cau lại gần chạm nhau, bộ râu ngày càng rậm bao quanh miệng anh thành hình tròn khẽ mấp máy như anh đang tính nhẩm. Hai anh em không nhớ mặt nhau và cùng giấu mặt cả, thế mới khó. Thằng Cam bị đánh động có thể trốn mất lần nữa. Trốn về nhà quê hay đi tỉnh khác thì đến thổ thần như Bảy Tộ cũng bó tay!
Cân nhắc chán rồi Chanh mượn giấy bút, viết thư:
Chú Năm!
Kể từ ngày chia tay trong căn nhà ấm áp phố Chí Hòa, tôi được ơn trên phò hộ vẫn được mạnh giỏi trong khi bèo giạt mây trôi. Ngày nay tôi được trở về nơi cố hương, xiết bao mừng tủi, ngặt vì đang lâm bịnh nên khó tới viếng thăm chú. Vậy tôi mong chú bớt chút thì giờ cùng đi với chú em tôi là người cầm thơ, tôi cho tôi được hỏi han đôi lời thì lấy làm quý hóa lắm.
Người cùng quê với chú,
P. ĐAO
Bảy Tộ đọc xong, há miệng:
- Lạ, hồi xưa anh viết chữ nhỏ và đẹp lắm, văn chương ngang nhà báo. Đây chữ bằng gà mái, giọng như bô lão...
- Phải tập đóng đủ các vai chớ, Bảy!
Vì lá thư sẽ chuyển qua tay Cam hay thím Lụng, nên Cả Chanh hẹn ba ngày sẽ trỏ lại lấy tin. Anh sẽ gặp Năm Phi Đao trước, qua hắn ta mới dỗ được thằng Cam chịu nhận anh nó.
Máy bay Mỹ sau đảo chính dường như thay đổi cách đánh. Không còn Pháp làm tay trong nữa, chúng không xẹt ngang sạt thấp mà kéo từng đoàn vài chục chiếc bay rất cao vào thành phố. Khu doanh trại vây cót của Nhật từ tiệm thuốc tây Phan Quỳnh tới sát nhà thờ đã lộ rõ là miếng mồi nhử bom, đặt đầy xe hư và súng cao xạ bằng tre gỗ, Mỹ hết mắc lừa. Chúng trút bom tựa sấm xuống những nơi có dấu vết đáng ngờ trên núi và chung quanh núi. Những lúc ấy máy bay và cao xạ Nhật nín hơi không lên tiếng. Hai bên chơi trò ú tim tìm bắt, hẩy sang bên rất nhiều xác người Việt bản xứ lọt vào giữa hai thớt cối xay.
Chiếc xe đạp chở rau của ông Hai Rề luồn giữa các đợt báo động, mang về cho Cả Chanh mấy tờ báo in đá, tài liệu quay giấy nến, thỉnh thoảng có một lá thư. Các đầu mối lần lượt trả lời bằng nhiều cách. Hai người sợ bom bỏ về nhà quê, biến mất tăm. Một người xem thư xong chỉ nhắn miệng là đợi tụi nó bớt rình mò sẽ hay. Một người chửi vung lên rằng bị đem con bỏ chợ. Ba người nữa hẹn sẽ theo Đảng tới cùng. Riêng anh Hiển gửi tài liệu cho Chanh và muốn gặp anh gấp để báo tin khẩn. Chanh chỉ biết anh Hiển là thượng cấp.
Chỗ gặp là một ngôi mả vôi trên gò cát có tường vây quanh. Anh Hiển đến trước, mặc áo quần bà ba đen bạc màu, đội nón lá. Trong ánh sao mờ mờ Chanh chỉ thấy trán anh hói cao, trụi tóc tới gần đỉnh đầu. Giọng anh khàn khàn hơi khó nghe.
- Ta vô việc luôn đi.. Đảng bộ Quảng Nam hay tin đồng chí vượt ngục thành công, rất mừng, ở đây đồng chí lộ quá, khó hoạt động. Nên sắp đặt về ngay Quảng Nam, móc nối tại Hội An, nhận chỉ thị xong là về thẳng quê gốc. Tôi đưa đồng chí bản chỉ thị mới của Trung ương về vụ Nhật Pháp bắn nhau, học thuộc xong đốt luôn. Đồng chí không đặt bí danh à?
- Dạ có. Là Thanh Trà... Hai Thanh Trà.
- Quê gốc ở làng Linh Lâm, huyện Tây Quảng, sát chân núi, phải chưa?
- Dạ phải. Anh có tới đó hả?
- Các đồng chí Quảng Nam cho biết vậy. Tinh thần bây giờ là ào tới, xốc tới, giành giựt từng ngày với Nhật. Ai sợ bị bắt đi căng[2], sợ đòn tù, cứ tạm để ngoài cuộc cái đã. Đồng chí có trí nhớ khá không?
Anh Hiển bắt Chanh lặp lại nhiều lần những tên và địa chỉ ở Hội An cần móc nối. Có hai tên trùng với đầu mối Chanh được giao tại Kon Tum, một tên lạ.
- Nhớ nghe, tình hình thay đổi nhiều, có người sáng mai khởi nghĩa mà tối nay còn khai báo. Đề phòng cứ đề phòng, táo bạo cứ táo bạo. Đảng biết đồng chí hồi năm bôn mươi rất gan lì, uy tín cao trong công nhân, quý lắm... Nè, có tiếc nhớ cô Hai Thùy không đó?
- Không, không... ông Hai là cơ sở, vậy thôi...
Anh Hiển đi rồi, Chanh mới thấy trán mình mát lạnh, vuốt tay ươn ướt. Quái, mình chưa hề gặp đồng chí thượng cấp này, sao ảnh biết về mình cặn kẽ quá vậy? Mà ảnh cố ý nói cho mình khỏi nghi ngờ, không căn vặn gì cả... Chanh lách qua những bụi xương rồng và hàng rào tre gai, rạo rực nghĩ rằng trong khi mình tìm người khác thì Đảng đang tìm mình, rất hiểu mình.
Hai người đang ngồi nói khẽ ở góc buồng trong. Vừa thấy Cả Chanh với Bảy Tộ vào, người to lớn vịn vách nhỏm dậy, kêu hơi to:
- Anh Cả!
Chanh vồ lấy hai bàn tay của Năm Phi Đao giơ tới trước.
- Ngồi, ngồi xuống... Què chân mà ráng làm gì... Đi cà nhắc hả?
- Thưa, em đi xe kéo. Đại ca đã gởi giấy vời, em gần chết cũng phải bò lết mà tới.
Năm Phi Đao nói trịnh trọng chứ không bỡn cợt bằng lối nói của truyện Tàu. Chanh quay sang cái bóng nhỏ hơn, ngập ngừng:
- Cam đó hả? Anh đây, Cả Chanh đây mà!
Cam đứng im trong góc buồng. Thân hình gầy gò của nó không động đậy. Cặp mắt nó mở thao láo chỉ lộ vẻ sợ hãi.
- Em nhìn ra anh chưa? Chín năm rồi, anh để râu coi lạ lắm hả? Hồi xưa cứ bắt anh cõng cả ngày!
Cam bật run, vẫn đứng đờ ra. Người nó lạnh rồi nóng từng cơn. Nó đang bị hút và bị đẩy. Nó vừa thương vừa kinh hoảng.
Khi Bảy Tộ đem thư đến, ra về ngay, nó chạy vào buồng đọc cho anh Năm nghe. Năm mừng muốn reo, cho nó biết người gửi thư chính là anh cả nó. Anh Cả... con người mà nó nhớ là rất cao lớn đã chơi với nó một lúc nào đó khi nó nhỏ xíu, người anh vắng mặt mà cha hay trách móc và mẹ nhắc tên với tiếng thở dài... con người đã tan biến vào những chuyện kể đời xưa, nay bỗng hiện trở về như người sống thật.
Mừng khấp khởi được một lát, nó bắt đầu sợ. Người lớn là người có quyền đánh chửi trẻ con, sai vặt, cấm đoán, chán chê rồi thì túm tay trẻ con đem bán cho nhà khác. Cha nó đã từng lôi nó tới ở giữ ngựa nhà ông phủ Đỉnh, lấy tiền uống rượu. Mỗi lần cực quá nó chạy về, lại bị cha rút roi cày trên mái tranh, rượt đuổi nó quay lại ấp ông phủ. Anh Cả Chanh có làm như vậy không? Có tóm cổ nó giao cho nhà bà Lợi Thịnh không? Ảnh giống cha hay ảnh giống Năm Chò?
- Anh nhớ hồi nhỏ em tròn hin như cục bột, anh đi đâu em chạy lon xon theo đó, cái miệng kêu mếu máo đòi cõng. Xốc lên lưng rồi mới don dỏn: Cả ơi, con chi rứa? Cả ơi, bắt con chào chào chỗ tê...
Hai ngày qua, Chanh chờ đợi cuộc gặp lại thằng em. Nó sẽ nhào tới sà vào lòng anh, khóc kể thút thít. Hoặc nó ngước cái mặt câng câng, nói nó chẳng kể số gì cha mẹ anh em, đời nó cứ để nó liệu. Hoặc nó lấm lét con mắt, nhận rằng nó lỡ dại trộm cắp, từ nay nó chừa... Anh lường trước mọi đàng, chỉ trừ cái dáng run rẩy đầy ngờ vực đang phơi ra ở chỗ góc buồng, cách anh chỉ hai bước. Nó không chịu mở miệng. Giữa hai anh em đối mặt nhau có cả một hố sâu nghi kỵ.
Chanh buồn rầu nhìn Năm Phi Đao:
- Nó quên mình rồi Năm à. Thôi để lần lần nó nhớ, con nít mà. Cậu muốn về Quảng Nam không?
- Muốn lắm chớ anh. Có điều chân cẳng lôi thôi vầy đây... Thịt em hiền, uống thêm đa-giê-năng vô, năm bảy bữa nữa em đi được.
- Ờ, mình đợi đi chung với cậu. Dắt luôn thằng nhỏ về. Phủ Đỉnh, Lợi Thịnh, mẹ cố tổ cái bọn trẻ chẳng tha già chẳng nể!
Thằng Cam bỗng buột mồm:
- Có phải giữ ngựa nữa không anh?
- Giữ chớ. Tao trói đầu thằng cha Phủ Đỉnh, giao cho mày giữ!
Anh không ngờ câu đùa ấy làm tan dần tảng nước đá cứng lạnh trong lòng đứa em mới gặp lại.
*
* *
Mười một ngày sau, họ lên đường.
Bảy Tộ thu xếp rất khéo. Cậu ta dẫn ba anh em tới gửi gắm cho người bạn làm xe-rơ-phanh[3] ngồi ở cuối đoàn tàu. Tay này xếp cả ba vào một buồng xí trên toa áp chót, đưa tiếp vào một thùng nước chè, một bọc to bánh mì bột gạo, một gói tôm thịt kho mặn, tất cả do vợ Bảy Tộ sắm sửa.
- Chịu khó ngồi xà-lim một ngày thôi nghen. Đây về Phe-phô[4] chẳng bao xa. Tôi khóa ngoài đó. Hồi bí quá thì thò đầu ra cửa sổ, hét thiệt to về phía sau. Đập cửa chẳng ai nghe đâu.
Tay này mới đổi về hơn một năm, không quen Cả Chanh.
Bây giờ, bánh xe đang gõ xình xình cốp cốp trên đường sắt. Thằng Cam gục đầu ngủ trên đùi Chanh. Năm Phi Đao dựa vào vách, gật gà. Cửa sổ kéo lên kín mít. Gió từ bên dưới lùa qua lỗ hố xí quạt vào căn buồng nhỏ xíu. Cả Chanh ngồi nhắm mắt nhưng không ngủ. Những tiếng ồn của chuyến xe lửa thời chiến tuôn vào tai anh, lắng xuống khi xe đang chạy, rầm rĩ táo tác khi tới ga.
Tàu ra Bắc không đầy nghẹt những gia đình rách rưới bỏ quê đi kiếm ăn, mà lại chật ních người buôn, nhiều nhất là buôn gạo, khoai khô, sắn khô. Tàu chưa dừng hẳn, bao lớn bị nhỏ đã bay ào qua cửa sổ, tiếp tới những thân người hò hét sấp ngửa nhào theo, đạp bừa trên đám đông đã lèn chật như nêm cối, đầy ghế đầy sàn, mỗi người úp mặt trên một mớ hành lý mà ngủ chập chờn trước khi bị xéo lên đầu và lưng. Đấm đá, chửi bới một chầu để giữ chỗ và giành chỗ, sau một hồi lắc xóc ai nấy đều lọt xuống tới đáy và tạm yên chốc lát cho đến ga sau.
Ra khỏi Diêu Trì vài cây số, báo động máy bay. Đầu máy kéo còi dồn dập, đoàn tàu hãm gấp, các toa thúc vào nhau như động đất. Người đổ túa qua tất cả các lỗ hổng, chạy ra đồng, gào thét gọi nhau nấp chung cho khỏi lạc, trẻ con bị xô ngã và đạp gần chết rú lên nghe rợn người. Còi báo yên, lại một cuộc tấn công cướp chỗ, dậy lên tiếng la khóc khi kẻ cắp đã hốt sạch những thứ đáng giá bỏ lại trên toa. Có người nấp xa trở về không kịp, lếch thếch chạy theo sát đuôi toa cuối, há miệng mà không kêu ra tiếng, bị bỏ rơi dần đến khi mất hút. Nhưng trên tàu lại thêm nhiều người lậu vé leo lên các toa dẹt, toa than, sẽ nhảy xuống khi sắp vào ga sau, hoặc cứ ngồi lì khi thấy vắng kiểm soát.
Chuyến xe đến ga Tam Quan. Tiếng huyên náo dội đến từ xa, riêng những toa gần cuối lại vắng lặng. Nhiều miệng hô lệnh, gọi, quát tháo bằng tiếng Nhật và Việt. “Xuống hết! Đi chỗ khác!”. Hành khách trong toa của Chanh rậm rịch kéo xuống, rên rỉ chửi đổng. Quân Nhật trưng dụng xe dọc đường, số toa không còn đủ để móc thêm vào tàu. Giày đinh lộp cộp, gươm súng loảng xoảng, ồn dậy lên mấy phút rồi êm. Không ai đập cửa cái buồng xí bấm khóa ngoài có đề chữ phấn “Hư hỏng - Abimé”.
Bây giờ Chanh mới hiểu vì sao Bảy Tộ can anh đừng mua vé tốn tiền, nhét cả ba vào cái ngăn lau chùi khá sạch này. Hồi làm ở đề-pô, anh nghe nói nhân viên trên tàu chỏ người lậu rất dễ, không ngờ chỗ giấu lại đơn giản đến thế. Món thuốc phiện lậu của Bảy Tộ hẳn là giấu trong đầu máy, nhà Đoan nào dám tháo cả máy ra mà khám xét!
Anh đánh thức Năm và Cam dậy ăn trước khi trời tối hẳn. Xe chạy đủ ồn để họ nói chuyện bên tai nhau. Uống nước hút thuốc xong lại ngủ tiếp, không ngại bị chen lấn hay xua đuổi.
Ngả lưng trên hai tờ báo trải nối, Chanh xa dần vào giấc nửa mê nửa tỉnh, tai nghe mà óc cứ chiêm bao. Lối ngủ của người trực buồng bệnh, gác máy điện thoại, cũng là của người thợ khám xe làm ca đêm đang chờ chuyến tàu khuya...
Còi rít dài đằng xa. Chanh nhỏm dậy, vơ ngay cái búa cán dài, cây đèn khí, choàng túi dết qua vai, cũng vừa nghe thằng xếp Tây quát giật giọng: “Vi-dít-tơ”. Anh đáp thật to như chưa hề ngủ: “Prê-dăng”[5]. Sau tiếng đáp anh mới tỉnh hẳn, bước nhanh ra sân ga. Ngủ quên hay chậm chân là bị Tây bạt tai, cúp lương. Những thanh ray song song láng bóng đang hằn nhiều vệt đỏ vụt đổi sang màu xanh dưới đèn hiệu thông đường. Đốm đèn độc nhỡn rẽ sương mù đến gần. Chiếc đầu máy đen bóng phụt tàn than đỏ trong hơi thở hổn hển, phì phò. Tàu tốc hành không rẽ xuống cảng Qui Nhơn, chuyến tàu chợ này đên đây là ga cuối, sẽ tháo rã và lắp thành đoàn tàu mới.
Chanh đi vội tới đầu máy, đặt đèn cho kính đỏ xoay về buồng lái, lách vào mở ống hơi, khóa các xu-páp, tháo các móc, bước ra lắc đèn cho thợ lái đưa đầu máy đi. Hễ trúng Bảy Tộ thì trăm lần như một nó đang ngủ đứng. Anh phải lại gần quát: “Bảy, xách siêu nước đi không?”. Bảy giật mình, quờ tay lên ấn cái cần mở ga. Đầu máy từ từ nhích tới, các thứ xích và ống tuột rơi lích kích. Cái “siêu nước” chạy thẳng về đề-pô, nhường chỗ cho các đầu máy ma-nơ xụt xịt tới lui, kéo còi tàu từng khúc một, lần lượt đẩy các toa hàng niêm phong, toa than, toa bưu điện vào các ngả đường rẽ đợi bốc dỡ, kéo các toa khách rỗng về đề-pô để khám và ráp đoàn tàu bốn giờ sáng.
... Chanh không ngủ được. Anh nhỏm dậy cẩn thận che nón lá đánh diêm hút thuốc. Chẳng phải vì lạ tiếng bánh xe sắt rùng rùng cạch cạch dưới lưng mà anh thức, trái lại, chính vì nó quá quen, quá gợi nhớ sau ngót năm năm chia xa.
Những ca đêm lắp tàu trong đề-pô. Những đêm nóng nực, đầy muỗi, nồng khét mùi giẻ dầu đốt xua muỗi. Mỗi phát đập tay vào mặt hay cổ để lại một mảng nhọ đen sẽ dính kéo dài. Bọn đốc công ngủ trong góc kín, từng lúc lỉnh ra rình thợ hút thuốc hay ngủ gật, hò hét, ghi sổ trừ lương. Chanh xách đèn đi gõ búa vào các bánh xe, đầu trục, má phanh, căng tai ra nghe từng tiếng lạ, đánh dấu phấn vào chỗ cần xem kỹ và sửa. Đến mỗi đầu toa lại len vào soát các thứ xích, móc, ống nối nhau. Hễ xảy ra tai nạn là đi tù. Anh tránh được tù nhờ thạo nghề, nhưng suýt chết kẹp giữa hai tấm tăm-pông[6] khi một cậu lái ngớ ngẩn cho dồn toa trước khi nhận hiệu lệnh.
Chỉ trong ba năm, từ thợ phụ sửa xe lên thợ chính rồi thợ khám xe, ấy là bước tiến rất nhanh trong nghề. Lão cai Tống nói có chỗ đúng: Chanh sinh ra trong lò rèn của cha, lớn lên vừa học chữ vừa phụ rèn ở quê và ở Qui Nhơn, quả thật anh quen tiếng búa. Nhưng lại có một bí quyết ai cũng biết mà rất ít người làm: anh chịu khó học, cả học nghề lẫn học chữ. Ông Tư Chua dồn sức cho đứa con đầu lòng thoát cảnh dốt chữ của dòng dõi ông, nhưng chỉ đủ tiền nuôi con tới khi đậu cái bằng sơ học yếu lược. Từ ấy trỏ đi, Chanh vừa làm vừa học say mê, học đầy thèm khát, học như người dại gái. Vào tù, sau những tháng đòn đau và biệt giam, khi về chung lao với người có chữ, anh lại học... Anh ngạc nhiên khi thấy các bạn không theo lời khuyên của anh để làm một việc thật dễ: trước khi sửa một chỗ hư hỏng, hãy gõ búa tập nghe tiếng lạ, sửa xong gõ lại để nhớ tiếng lành. Chỉ bấy nhiêu thôi đủ cho anh dần dần nổi tiếng là thạo bắt mạch xe...
Tàu đến thị xã Quảng Ngãi, lính Nhật rổn rảng kéo xuống. Người ào lên tức khắc, lèn chật hơn cả những toa khác. Có tiếng nhân viên gọi lấy lệ, mệt mỏi: “Ê, cấm bu hai bên cửa... đừng leo lên nóc toa chớ... Dẹp bớt mấy gánh treo đây...”. Con tàu lại thuốn vào đêm với mấy chục cái hộp lớn nhét đầy người, tắt đèn tối như bưng. Lâu lâu lại nổi lên tiếng gào thất thanh báo có người rớt xuống đất. Tàu không dừng vì những vụ như thế.
Chanh thiếp dần. Một hình ảnh gợi lên, chao đảo: nụ cười tươi tỉnh của cô Hai Thùy khi anh chào ra đi. Thùy không hề bịn rịn, chỉ mỉm cười và đi luôn xuống bếp, để anh tần ngần ngó theo... Anh chìm hẳn trong giấc ngủ nặng như chì.
Chú thích:
[1] Tiếng Nhật: vạn tuế!
[2] Tiếng Pháp. Camp: trại tập trung
[3] Tiếng Pháp. Serre-frein: người hãm xe lửa.
[4] Faifoo: tên Pháp đặt cho thị xã Hội An.
[5] Tiếng Pháp: présent: có mặt.
[6] Tiếng Pháp. Tampon: Tấm đệm chống va chạm lắp ở đầu toa.