← Quay lại trang sách

- 7 -

Ở người trẻ tuổi mới qua một trận đau ốm, những nét suy sụp hiện ngay trên bộ mặt và dáng vóc, ai gặp cũng nhận ra. Còn ở các cụ cao tuổi, ai thật quen mới hỏi sau một hồi ngờ ngờ: “Vừa rồi cụ bị mệt?”.

Những thành phố trẻ đang sức lớn, là đầu mối xe lửa và tàu biển dọc miền Trung, sa vào Chiến tranh thế giới thứ hai suốt năm năm đã tàn tạ đi rất nhanh. Nhà cửa bị bom Mỹ đánh và chủ bỏ mặc không sửa sang sơn quét, lắm chỗ phải bôi bùn lem nhem hay vẽ thêm cây lá che mắt máy bay, bày rõ vẻ rạc rài. Người dân những nơi ấy mất nguồn kiếm ăn, sáng chiều phơi thân đói rách trên đường phố, chìa tay ăn xin mà đôi mắt long lên căm giận. Các quan Tây vào trại tập trung, quan Nhật lo số phận mình khi thua trận, quan Việt tính đường gỡ tội và chuồn êm. Các quán rượu và tiệm nhảy vẫn bật đèn xanh đỏ nhưng bà chủ ngồi ngáp trên ghế thu tiền, ngón tay đặt hờ trên nút tắt đèn, lắc đầu than ế.

Ngược lại, những thị xã cổ kính đã ngừng phát triển, từ lâu và ít bị phá phách lại giữ được bộ mặt trước chiến tranh hay gần gần như thế. Hội An già rồi, còn nhắc những kỷ niệm của thời xưa “nhất Kinh kỳ, nhì phố Hội”, nhưng nay cửa sông đã bồi cạn, đường sắt chẳng thèm ghé xuống, người mua bán lớn khó tìm thấy ở đây những thứ có thể mua và bán, cho đến những chiếc ô tô chạy than cũng ngại mắc kẹt giữa những đường phố cũ kỹ không đủ rộng cho hai chiếc xe bò tránh nhau. Tỉnh lỵ Quảng Nam vẫn chứa tòa Sứ ở ngay thị xã và dinh Tổng đốc ở tít gần Vĩnh Điện, nhưng tựa hồ bị cả Nhật lẫn Mỹ bỏ quên. Chỉ có Việt Minh không bỏ quên. Hội An cao tuổi đang trẻ lại nhờ những chuyện ly kỳ về Việt Minh với cờ đỏ sao vàng và truyền đơn “đánh Tây đuổi Nhựt” Chuyện Việt Minh theo đường bộ và sông Thu Bồn loang xa về các huyện xã, gây náo động trong lòng người đang đòi hỏi đổi đời.

Cả Chanh nhận ra nét riêng ấy của Hội An trong hai ngày cuốc bộ đi bắt liên lạc, lang thang tìm đường phố và số nhà. Anh qua Hội An chỉ một lần hồi mười hai tuổi, theo cha xuôi đò dọc xuống Phố trước khi vào Qui Nhơn. Tới chuyến thăm nhà bốn năm sau, anh ngược về quê theo đường bộ, khi ra đi lại xuôi theo sông Thu Bồn, lên xe lửa ở ga Kỳ Lam chứ không ghé tỉnh lỵ, vào thẳng nơi anh sẽ làm xe lửa và làm cách mạng. Những hình ảnh mới của Hội An sau đảo chính in hằn trên kỷ niệm chập chờn hư ảo của tuổi nhỏ, tô những nét mực xơ xác nhưng rất bạo tay trên giấy hoa tiên từ năm xưa để lại.

Chiều tối ngày thứ hai, anh đi dọc bờ sông tìm chiếc thuyền có phơi cái áo nhuộm chàm với miếng vá trắng ở cùi tay như đã hẹn trước. Qua khỏi chợ vài trăm thước anh mới thấy nó. Anh nhìn quanh xem bị bám đuôi hay không, rón rén bước tới mũi thuyền, dòm vào mui:

- Cho tôi hỏi chút... Ghe ni có về phường Rạnh hay Trung Phước không, tôi chở mấy gánh mắm.

- Ờ, ông xuống đây rồi ta tính, được giá thì đi.

Anh chui vào thuyền. Người đàn ông đội nón ngồi sau lái bước lên mui thuyền, đi rào rạo ra trước mũi, lay nhổ cây sào và đẩy thuyền ra. Ông già ngồi trong khoang đang vá lưới quay lại, cười rất rộng miệng:

- Mi quên tao hả Chanh?

- Ối trời, anh... anh Quý! Nó chôn anh ở Côn Lôn... mấy đồng chí nói vậy!

- Thời thế ni, chôn rồi tao cũng lật mả tao về!

Chanh há miệng định nói, nhưng tắc họng không thốt ra lời. Anh quệt nhanh những giọt nóng vừa tràn khỏi mắt, rất xấu hổ trước đồng chí Xứ uỷ Trung Kỳ. Anh Bảy Quý bùi ngùi nói khẽ:

- Anh em nghe lầm thôi. Tay Quý kia là đảng viên Nghệ An, chưa biết chữ mà gang thép lắm, bị tụi cai đội đánh bể đầu khi đấu tranh chống cơm trộn trấu. Tội nghiệp, hấp hối còn dặn bạn tù nhớ lột hết áo quần cho người bệnh, đừng chôn theo mà uổng. Tao nhớ ngày tử với mổ mả, chưa báo cho gia đình được, xa quá... Nè, mi trẻ mà để râu xồm coi khác tướng ghê gớm. Tao lảng vảng dọc đường Chùa Cầu, thấy mi đi qua khi trưa mà ngờ ngợ hoài.

- Còn anh, ngó như ông Lữ Vọng đi câu!

Chanh dồn dập hỏi tin các đồng chí quen ở khám Chí Hòa. Chanh bị giải về Kon Tum trước, gần nửa năm sau anh Quý mới ra Côn Lôn. Anh cười, nói cà rà, vuốt chòm râu đen và thưa như cố kéo cho nó mọc nhanh hơn, từng lúc bóp trán nghĩ:

- Tao qua nhiều lao quá, bị tra hoài, bây giờ nhớ trật bậy hết, chuyện nọ xọ chuyện kia. Hay là chừa râu giả làm ông già, cái đầu tưởng thiệt nó cũng già đi luôn!

Thuyền đã sang gần bờ bên kia, chỗ khúc sông vắng. Anh chân sào cắm thuyền cách bờ mươi thước khom lưng chui vào khoang. Anh Quý dặng hắng, đưa hai tay vuốt mạnh mái tóc đốm bạc như xua những tiếng thì thầm nào đó bên tai, nói hơi vội:

- Chà, thôi, chuyện cũ để sau sau đã... Xin giới thiệu đây là đồng chí Tô Xáng, tỉnh ủy viên thường vụ phụ trách Ủy ban khởi nghĩa tỉnh mình. Đồng chí Chanh về ngoài ni là phải, dễ hoạt động hơn, cơ sở công nhân cứ để anh Hiển lo tiếp. Tỉnh ủy định giao đồng chí Chanh trở về huyện Tây Quảng, tổ chức du kích quân và xây dựng căn cứ địa rất gấp, theo kiểu các đồng chí ở căng Ba Tơ. Đồng chí thấy răng?

Chanh ngồi ngây ra, choáng váng. Tất cả những gì anh biết về du kích quân hay Giải phóng quân đều là nghe kể lại trong nhà tù hoặc đồn đại trong dân lẫn lộn sự thật và mơ ước. Cả chuyện Ba Tơ khởi nghĩa cũng lung linh như chuyện đời xưa mặc dù đang diễn ra ở tỉnh bên.

Anh chợt thấy anh Bảy Quý đang nhìn mình, cái nhìn nhấn mạnh và hơi xoi mói nữa, trong khi mấy ngón tay vẫn vân vê chòm râu thưa. “Cái chính là cậu có đủ tinh thần hay không...”, mắt anh Quý rõ ràng nói câu ấy. Chanh đáp ngay:

- Thưa thượng cấp, tôi được Đảng bày dạy nhiều mà chưa đền đáp gì. Tôi xin sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, sẵn sàng... khởi nghĩa đánh Tây đuổi Nhựt. Bị cái là tôi làm thợ rồi ở tù, chưa rờ tới súng đạn bao giờ, sợ hư việc của cách mạng!

Tô Xáng bật cười khà khà:

- Tụi mình cũng chưa hề cầm gươm vác súng bao giờ hết. Mình con nhà chài lưới mà... Công tác vậy đó, đồng chí nhận không?

- Dạ, xin nhận.

- Rồi. Có cơ sở hay cảm tình nào trong binh lính không? Là nói lính chiến, biết đánh chác, chớ không phải khố xanh gác tù hay lính lệ hầu quan....

Chanh nói như reo:

- Ôi chao, quên chưa báo cáo! Anh Quý nhớ Năm Phi Đao không?

- Ờ, tay anh chị làm trùm xan ở Chí Hòa hả? Hắn đâu rồi hè?

- Lính chiến chánh hiệu đó anh. Hồi Tây đánh với Xiêm, hắn có dự vài trận. Hắn bạt tai cấp trên phải vô Chí Hòa, ra sau anh, lại đi tiếp khố đỏ đóng lon cai. Rượu chè hơi nhiều mà rất ghét Tây. Phục cộng sản lắm đó, phục từ hồi ở tù kia.

- Nói cho đúng là hắn phục đồng chí Chanh! Bị hắn ăn hiếp mà không thù oán, hắn bệnh gần chết lại lo nâng giấc, hắn khỏe còn dạy chữ cho nữa... Hồi đó hắn không dám lại chỗ tôi, tin chắc là tôi ho lao sắp chết. Hễ tôi tới gần là hắn lảng xa!

Anh Xáng bằng lòng cho dùng Năm Phi Đao làm huấn luyện viên với điều kiện Chanh phải kèm riết bên cạnh. Tới khoản vũ khí. Phải rèn thật nhiều giáo mác, đại đao, sắm cả ná tên trên miền núi nữa. Chanh lại ngớ ra khi nghe Việt Minh đang quyên tiền mua súng.

- Mua đâu ra thứ đó, anh?

- Có nguồn rồi, chỉ thiếu tiền thôi. Tụi Nhựt lấy được súng Tây nhiều, có đứa lén đem bán...

Chanh đã ham, vồ vập hỏi mãi chuyện súng đạn đến khi anh Quý đột ngột ngắt lời:

- Thôi nghe, chưa chi đã tính đùng đoàng! Khuya rồi, ông dân chài có nồi cháo cá thơm phức đằng sau tê, ăn xong ta ngủ đây luôn. Mà nè, Chanh, mi về Quảng Nam phải như tao, tập nói trở lại giọng Quảng đi cho nông dân họ dễ hiểu. Nãy chừ tao mần ông già Cửa Đợi. Giống không?

Anh Xáng bưng nồi cháo ra mũi thuyền. Mảnh trăng hạ tuần đã lên cao, tỏa ánh xanh mát rượi giữa trời nước. Xóm làng tắt hết đèn, lâu lâu mới nghe một tiếng chó sủa bâng quơ. Nơi cửa sông này vắng lặng khác thường, phố xá bên kia sông cũng bình yên đến mức khó hiểu. Chanh thong thả húp cháo cá, từng sợi gân thớ thịt trên người anh buông chùng ra, dãn ra sau rất nhiều ngày tháng bị kéo căng như dây đàn.

Anh Quý đủng đỉnh:

- Nha Trang, Qui Nhơn, nhứt là Đà Nắng, bom đạn rầm rầm, báo động không ngớt tiếng còi hú, mình về đây thấy lạ lắm…

Chanh quay lại:

- Anh Bảy vô Qui Nhơn hồi nào?

- Hà hà, buổi chiều mi cho ông Hai Rề tới móc nối, ngay tối đó lão Hiển hỏi tao có biết Phan Chanh là ai không, đưa tao coi nét chữ, câu ám hiệu. Tao thấy trúng hết, mới bàn lão Hiển gặp mi báo tin Quảng Nam kêu mi ra. Thằng khôn thiệt, ở nhà Hai Rề mà giữ kín. Tao ghé Qui Nhơn đúng một ngày, không chờ mi được phải ra đây trước, bu đằng sau cái xe ga-dô, hít hơi than gần chết! Lần sau phải ký bí danh, nghe chưa?

Chanh suýt kêu: đồng chí xứ ủy gần gấp đôi tuổi anh đã xông xáo quá nhiều so với anh!

Trong khi một mình đi bắt liên lạc, Cả Chanh giao cho Năm Chò và Sáu Cam hai việc: học thuộc tên các đường phố và nghe ngóng xem dân tình ra sao. Sau này hoạt động hợp pháp hay bí mật đều phải hiểu lòng người và thung thổ.

Nơi ở của ba người là một căn nhà tranh nằm lọt trong xóm ngoại ô, gần cây số Một từ Hội An lên Vĩnh Điện, tức là “từ tòa lên tỉnh” theo cách nói của anh chủ nhà, bạn cũ của Năm Chò. Anh này có đi lính mấy năm, nay về đánh xe ngựa chạy con thoi trên quãng đường mà bất cứ ai có việc dây Hình với các quan đầu tỉnh, đều phải ngược xuôi đến ốm xác. Khác với ông Hai Rề kỹ tính, anh xe ngựa cứ toang toang:

- Tôi chẳng cần biết ai là ai, hễ Năm Phi Đao dẫn tới thì cứ chơi hết mình. Bà con đây là dân giang hồ tứ chiếng, đứa nào khám xét nạt nộ thì họ vác đòn gánh họ rượt. Đại ca đây thứ Cả, tên là Trà, mới tìm được thằng em lưu lạc, đang chờ tàu trở vô Qui Nhơn. Vậy được chưa? Còn cha Năm đây trốn lính... cứ nói là trốn lính, chòm xóm họ mới thương! Thằng này muốn phản, hay con vợ ham tiền muốn chỉ điểm, cũng phải sợ thứ dao bay của Năm trả thù, ha ha ha!

Anh ta rút dưới gầm giường ra một chai nước trắng, ném lên bàn bó mực khô, hét vợ quạt lò than hồng, nhất định bắt “đại ca” ngồi vào làm cái lễ tương kiến.

Cả Chanh chỉ nhấp một hớp rồi xin kiếu, đi ngay. Chén chú chén anh một lát, nghe Năm bàn chuyện đi coi phố phường, anh bạn bốc hứng:

- Phố Hội đây bằng cái lỗ mũi, có gì mà coi. Tao đưa tụi bay đi Tu-ran, mới rồi đổi tên ra Đà Nẵng đó. Đi xe ngựa thôi, tới nơi còn sẵn xe đi ngắm cảnh nữa chớ. Đi ta hè!

Năm quên ngay hai việc của “đại ca” giao, còn Cam thích mê. Con ngựa già được đóng vào xe, kéo họ ra đường nhựa, chẳng đợi giật cương hay quất roi cứ quen nếp chạy lóc cóc lên Vĩnh Điện. Anh bạn chếnh choáng kể vô số chuyện về Tu-ran, từng lúc thò cán roi xuống cho các nan hoa bánh xe gỗ róc róc một hồi thay chuông giẹp đường, lại xua tay quát:

- Bữa nay chở người nhà, gấp, không chở khách... Đợi xe khác nghen! Đừng chưởi nghen!

Theo anh thì người dân ở đất Tu-ran nhượng địa chống chọi với Tây, Nhật, quân Nam Triều, riết rồi đâm ra bạo miệng bạo tay hơn dân chỗ khác. Cộng sản cũng dậy nhiều hơn, treo cờ với rải truyền đơn hết vụ này tới cuộc khác. Nghe nói họ có súng mà sao chưa thấy đánh trận nào. Chẳng như ngoài Lạng Sơn, Cao Bằng, họ lập cái chiến đấu khu, chường mặt ra đánh Tây Nhật chết dồn đống. Chắc tại dân đàng Thổ ngoài Bắc tánh hung hơn dân trong mình, nhà nào cũng có súng hỏa mai, họ rèn súng tốt hơn súng đúc của Tây nữa, người mình dở chỗ đó.

Qua khỏi Vĩnh Điện một quãng, tiếng bom rền rền từ Đà Nắng dội vào làm anh bạn hơi tỉnh rượu, bớt hăng. Anh bắt đầu lẩm bẩm rằng người núp hầm chẳng sợ gì bom, chỉ có con ngựa phơi thân ra đó không chết cũng què. Vì thế, khi trạm gác của Nhật ở đầu cầu Miếu Bông chặn người và xe không cho vào thành phố, anh gần như vui mừng xuống xe dắt ngựa quay đầu lại, quất mạnh roi cho nó mở nước kiệu trở về cái phố Hội chỉ bằng lỗ mũi:

- Tổ cha thằng Nhựt! Nói cho mình độc lập mà cứ hằm hằm chặt đầu mổ bụng người ta. Tao không vướng vợ dại con thơ, tao theo Việt Minh uýnh bể mấy cái đầu trọc cho sướng tay!

Để đền bù, anh tính đưa Năm và Cam đi một vòng thị xã. Năm gạt ngay:

- Ngồi xe thì thấy gì đâu. Mày thả tụi tao xuống đầu đường rồi đi kiếm mối làm ăn, tối về ta nhậu tiếp.

Năm Phi Đao vốn có tửu lượng cao, lại nể Cả Chanh giảm rượu nhiều, ban nãy chỉ uống một phần ba chai chưa đủ nóng mặt. Anh dặn Cam:

- Ai hỏi, cứ nói như hồi nãy ta bàn, tức là tìm thằng em lạc dẫn về Qui Nhơn... Mày coi kỹ tên đường phố, đọc to lên cho tao thuộc với.

- Em mới biết đánh vần, bảng lại đề chữ Tây, đọc không ra. Bữa trước anh kể là có học chữ với anh Cả trong tù mà!

- Chữ thầy trả thầy hết. Nói cho ngay, chữ nó chết chìm trong hũ trong chai, không kịp vớt lên.

Các tên Tây đặt cho đường phố chưa thay đổi sau đảo chính. Cam đánh vần chữ được chữ mất thành những tên quái gở. Thỉnh thoảng Năm đón hỏi người qua lại, cũng nghe và nhớ trật bậy. Rốt cuộc Năm hẹn với Cam cùng nhớ những tên tự nghĩ ra: chỗ bến cá, đường sân banh, bãi trước tòa Sứ. Sau một buổi đi rã chân, họ ăn trưa bằng khoai luộc với canh hến của gánh hàng rong cạnh bờ sông, uống nước chè loãng cũng của bà hàng, tìm gốc cây vắng ngồi nghỉ. Ôn lại những nơi đã qua. Năm nhận thấy thằng Cam nhớ giỏi hơn mình rất nhiều.

- Vậy mà tao cứ tưởng mày khờ. Không khờ mà chịu đói!

- Tại em sợ bị bắt. Em nghĩ chắc nhà bà Lợi Thịnh đi báo cảnh sát rồi, ló ra là họ chụp, đem về đánh chết tươi luôn. Với lại... em không quen ăn mày... xấu hổ hết sức...

- Xấu hổ thì tập ăn cắp, móc túi người ta mà nhét vô bao tử mình! Nhát gan hả?

Cam cười, không đáp. Có lẽ vì sợ một phần, nhưng phần chính là nó cảm thấy cái gì đó cứ níu tay nó lại khi nó đi sát một cái ví vô ý nhét hờ trong túi sau, một tờ giấy bạc rơi bên hông của chị bán cá đang bận giành giật với khách, cả khi nó gặp một đứa nhỏ hơn đang gặm ổ bánh mỳ thịt trên bãi biển vắng. “Cái gì đó” là cái gì, nó không hiểu nổi.

- Từ nhỏ tới lớn, ai cũng dạy tao phải sống lương thiện. Chung cục lại, tao thấy chẳng có đứa chó nào sạch sẽ hết. Như ông già tao đó, hiền như hòn đất, lên xứ núi Linh Lâm vỡ đất hoang kiếm ăn, rảnh việc thì lên mọi[1] cõng quế, chống bè chèo ghe thuê cho mấy cha buôn ác chú[2], vậy mà cũng bị hại tới chết... Chuyện dài lắm mày. Tao rình giết thằng Tây chủ đồn điền miết mà không được. Nó ghiền thuốc phiện ốm nhom như con mắm, vậy chớ mỗi lần về coi đồn điền là cưỡi ngựa, đeo súng săn hai nòng, có lão quản lý với thằng con cũng cưỡi ngựa theo... Lưỡi dao hồng tâm của tao là dành cho thằng La-phạt đó! Giết thằng con nó chưa ăn nhằm gì đâu!

Năm Chò kể lộn xộn như chỉ nói với mình. Cam không dám hỏi thêm. Nó liếc nhìn vóc người vạm vỡ và đen cháy của anh Năm, cảm thấy con người rất tốt bụng với nó chứa bên trong cả một mớ điều lạ mà chắc suốt đời nó không sao hiểu hết. Đợi lâu không nghe Năm tiếp, nó ngập ngừng:

- Chị Tư là vợ anh hả anh Năm?

- Tư nào?

- Chị Tư Toản nuôi anh ở Qui Nhơn...

- Ối, Tư đó hả? Thằng lính ưa nhậu gặp con bán rượu lậu, nhơn ngãi chơi bời chớ vợ con gì mày! Coi trẻ vậy mà hai đời chồng rồi đó. Chồng thứ nhứt chết trận ở Lạng Sơn. Nó lấy lẽ một lão quản, theo lão về Qui Nhơn, sau bị lão bỏ rớt lại khi đổi lên Pờ-lây-cu... Mày coi tướng nó thương tao thiệt hả?

- Thiệt anh à. Chỉ lo cho anh từng chút, khóc lên khóc xuống hoài!

- Gặp tao nó thương thiệt, tao đi rồi nó đụng đứa khác cũng thương thiệt, sức nó còn thương được cả chục đàn ông... Mà thôi, nói vậy nghe bạc bẽo với tình nương quá sá. Không chừng về sau gặp lại, tao lấy con Toản làm vợ luôn cho gọn. Mặt nó như bánh tráng rắc mè đen, còn mặt tao như tảng than đá chấm vôi trắng xứng đôi vừa lứa lắm!

Cam cười dài đến sặc và ho. Anh Năm cứ tỉnh khô, đứng dậy:

- Ừ, cười cho mau lớn, khóc hoài thì sống không nổi đâu em. Cuộc đời đểu giả lắm, coi đời như trò cười là hay nhứt.

- Anh khác xa anh Cả, sao lại theo anh cả làm cộng sản?

- Tao theo cộng sản hồi nào?

- Bây giờ đây chớ hồi nào.

Năm nói rất trang nghiêm:

- Tao phục anh cả là người tốt bụng, tài giỏi, tôn ảnh làm đại ca, ảnh làm gì tao làm nấy. Anh cộng sản thì tao cũng cộng sản luôn, vậy thôi.... Nghỉ lâu rồi, ta đi tiếp hè. Thằng này sáng dạ lắm, lớn lên chắc cũng khôn như anh Cả mày.

Những ngày sau đó, Cả Chanh vẫn bận việc của mình, vắng liên miên mà chẳng nói đi đâu. Ăn nhờ bạn mãi không tiện, Năm Chò tính kiếm việc gì làm tạm, được đồng nào hay đồng ấy.

Ở bến ghe phía trên chợ Hội An xuất hiện hai anh em mới tới. Anh làm phu khuân vác, em bán bánh bột lọc. Mấy tay đầu nậu bến ghe xáp tới định đòi cái lễ ra mắt, ngắm bộ ngực xăm chàm những bùa chú rất lạ và vóc người đô vật của Năm một lát rồi chuyển sang mời chén trà điếu thuốc làm quen. Lũ trẻ bán hàng rong mới bắt đầu gây sự với thằng em gầy gò, đã thấy ông anh đứng sau lưng, cười cười:

- Ê, sắp nhỏ, thằng em qua mới lượm về đó, chơi với nhau cho đáng mặt giang hồ nghĩa hiệp nghe chưa?

- Dạ...

Những lúc vắng khách rảnh việc, Năm lại kể từng mẩu đứt đoạn về cái “cuộc đời chó đểu” mà anh nếm trải từ nhỏ. Cam chắp ghép lại mới hiểu nổi phần nào.

Năm Chò thua Cả Chanh hai tuổi, vị chi năm nay hai mươi bốn tuổi ta. Sinh ra cầm tinh con chó, chắc vì vậy mà hậu vận chẳng ra gì. Cha mẹ đem nhau lên tận Linh Lâm vỡ đất và làm đủ nghề, cũng mát mặt hơn hồi cày thuê cuốc mướn ở quê gốc Điện Bàn. Đẻ năm con chỉ nuôi được chị Ba Liễu với Năm Chò.

Thằng Tây kiểm lâm La-phác-sơ, mà cả làng đều gọi là La-phạt vì hắn quanh năm la với phạt khi kiểm soát thuyền bè trên sông Linh, được Nhà nước khoanh cho một vùng đất rất lớn ven bờ sông Linh để lập đồn điền. Đất nhà Năm Chò nằm lọt vào giữa vùng ấy. Mua rẻ không được, đuổi không đi, La-phạt cho tay chân làm cái việc vô cùng dễ là chôn một gói bã rượu vào đất nà[3] của người dân cứng đầu, gọi Thương chánh bắt bỏ tù. Bà mẹ buồn và cực nhọc quá ốm chết. Chị Ba sợ khiếp, xuôi nhờ đò dọc về lại Điện Bàn sống dựa họ hàng. La-phạt chiếm đất, lão lý trưởng dỡ lấy cái nhà làm chuồng trâu.

Năm Chò hồi ấy mới mười lăm tuổi mà đã to khỏe cày cuốc hay chèo chống đều không thua người lớn. Tức ứa máu mà chẳng cãi gì được, Năm đeo tay nải vào xóm chợ Linh Lâm, chỉ ở nhờ và đi làm thuê chứ nhất định không làm đày tớ, cũng không bỏ chạy xa như chị Ba. Thằng La-phạt ở tận Tu-ran, lâu lâu mới về một lần, Năm rình mãi mà chưa có dịp giết nó. Không đủ kiên nhẫn để chờ lâu hơn, nhân một hôm thằng Pi-e là con trai La-phạt về đồn điền nghỉ hè đang ngồi câu chỗ vắng. Năm nện cho nó một hòn đá vào đầu, xô nó xuống sông Linh rồi chạy thẳng. Năm chạy thoát nhờ may mắn: dân làm nà ven sông vớt được thằng bé mười ba tuổi, báo cho cha nó đem về cứu sống. Nhưng thằng Pi-e bị đánh từ phía sau, ngất đi ngay, không biết ai cố giết nó. La-phạt nổi điên, tát lý trưởng đổ máu mũi, dẫn tay chân ùa vào làng khám xét, bắt luôn mười sáu người đáng ngờ đem về tự tay tra tấn, tuy hắn chỉ là một chủ đất bình thường.

Hồi đầu chẳng ai nghi Năm Chò, đứa trẻ mồ côi lầm lì thường theo người lớn cõng quế trên núi cao hay xuôi bè xuống tận biển, đi vắng hàng tháng. Người thù của La-phạt thì vô số. Đến khi bọn hào lý biết đích xác là Năm Chò đã trốn hẳn, thì thủ phạm đang ở tận Cần Thơ, phụ việc cho một ông thợ mộc già đóng bàn ghế trong xóm.

Năm không làm gì được lâu. Năm nghĩ: mình giết con Tây, lúc này Tây đang tư giấy và đánh dây thép khắp nơi, trước sau cũng tìm ra mình. Bắt được, chắc nó xẻo từng miếng thịt. Chí thú làm ăn rồi tới đâu? Tứ cố vô thân, ai cần gì mình? Kiếm tiền ăn chơi cho đã thèm rồi chết, bấy nhiêu thôi. Năm nhập vào nhóm móc túi ở Cần Thơ, được thằng trùm khá công bằng dạy nghề ăn cắp. Thằng trùm bị bắt, Năm theo đoàn xiếc rong phụ khiêng đồ đạc và tập ném phi đao. Gánh xiếc rã, Năm theo gánh cải lương đang diễn gần bên, kéo phông màn và học nhẩm những câu hào hùng cũng như chửi đời. Khi Tây mộ lính gấp rút để sửa soạn đánh nhau với Nhật và Thái Lan, Năm đi khố đỏ luôn, phó mặc cuộc đời cho rượu, gái, súng đạn.

Tây đổ rồi Năm mới trở về Quảng Nam định tìm thằng La-phạt, cho nó lãnh ngọn dao hồng tâm. Nhưng anh bạn xe ngựa cả quyết rằng tất cả bọn Tây ở Đà Nẵng đã bị Nhật dồn vào Nha Trang, cho nên anh không cố lùng thằng thù số một ấy nữa. Hy vọng rằng trong đêm đảo chính nó đã bị gươm Nhật sả làm đôi.

*

* *

Bom Mỹ nổ tới tấp ở Đà Nẵng, dọc quốc lộ Một và đường sắt. Tiếng rền từ xa vẳng đến Hội An không đủ rung các mái ngói âm dương đen kịt điểm rêu thưa lấm tấm xanh. Những phố rất hẹp vắng xe nhà binh và giày đinh quân Nhật từng lúc đưa rõ xa một câu rao canh hến hay đậu hũ, đôi chỗ dội lên tiếng lách cách hối hả của những khung cửi gỗ đạp chân dệt vải xi-ta nội hóa. Bốn con chó và khỉ gác bốn góc Chùa Cầu vẫn ngồi xổm trong giấc ngủ thiếp kéo dài mấy trăm năm, sàn cầu lát gỗ thưa nẩy lộp cộp dưới chân người hay bánh xe đạp không đủ sức đánh thức chúng. Mé dưới chùa, bến sông ken dày những thuyền lớn nhỏ từ các nơi bị đánh phá kéo về trú ở nơi “phi chiến địa” này, đông hơn cả hồi Nhật Mỹ chưa đánh nhau. Nhiều chủ thuyền lo xa còn đậu tản rộng ra tránh máy bay, chợ cũng họp trải rất dài trên con đường nhựa ven sông.

Chiếc thuyền rớ của gia đình anh Tô Xáng, biến thành trạm giao thông của tỉnh ủy và được gọi là ghe dét-tê, có vẻ ngại bom hơn cả. Nó đậu tách riêng bên kia sông Cửa Đại dọc hòn đảo dài Cẩm Phò, cắm sào im lìm gần một quãng bờ vắng nào đó từ làng Kim Bồng có lũy tre mọc sát mé nước tới làng An Hội với những rừng dương liễu rậm rạp. Cả Chanh, biến thành anh chân sào, mặc chiếc áo nhuộm chàm với miếng vá trắng ở cùi tay làm tín hiệu, mỗi ngày ba lần dời thuyền theo đúng quy định an toàn.

Anh Bảy Quí giữ Chanh ở lại Hội An một tuần nữa, bắt phải đọc kỹ cả một bó những số báo Cờ Giải Phóng và báo cáo về phong trào trong tỉnh. Riêng các nghị quyết chỉ thị mới của Đảng và bản Chương trình Việt Minh thì dứt khoát phải học thuộc lòng. Chanh dựng ván đóng kín hai cửa khoang, thắp ngọn đèn dầu dừa trong cái chén mẻ hay chống hé một tấm liếp che cửa sổ dưới mui thuyền lấy ánh sáng, ngả lưng trên sạp ván trơn bóng và nứt nhiều chỗ, thả mình rơi chìm vào những dòng chữ viết tay hoặc in trầy trật bằng bảng đá, giấy nến, xu xoa. Những lời đồng chí nói với nhau, những tia nắng xiên mây đen chiếu sáng bước đường đi tới của cách mạng và của riêng anh, những nét màu rạng rỡ của ngày nắm chính quyền mà anh chỉ thấy bằng tưởng tượng trong những đêm trằn trọc trên nền xi-măng lạnh của nhà pha.

Bó giấy to sù ấy được giấu trong một ống sắt khá nặng, hình như từ ống nước thành phố cưa ra, có nắp vặn rất kín và nhiều mấu sắt hàn xì trên thân. Ban đêm Chanh để nó trên thuyền, lục soạn tha hồ, đến mờ sáng mới dồn các thứ tối mật vào, lặn xuống móc nó vào hai chiếc đinh khuy to lắp dưới đáy thuyền, chỉ để lại trong khoang những tài liệu ít quan trọng.

Anh Bảy Quý ghé về ngủ với Chanh hai đêm, giảng giải thêm những gì khó hiểu. Chanh hỏi nhiều, hỏi dồn, hỏi mãi, cảm thấy mình đang lật một cuốn từ điển bách khoa chỉ được mượn rất ít giờ. Anh Quý hành hạ chòm râu cằm lưa thưa trong khi trả lời, hết vuốt lại xoắn. Có lúc anh cười xòa:

- Mi làm như tao là Thường vụ Trung ương hay sao chớ! Đợi tao thỉnh thị thượng cấp rồi mới dám mở miệng. Ý kiến cá nhơn tao vầy đây...

Anh nói ý kiến riêng, và Chanh ngẩn người: sao mình không nghĩ ra nhỉ?

Đôi khi Chanh mải ngắm “ông già Cửa Đợi” đến quên cả câu chuyện đang dở dang. Mười lăm tuổi Đảng cộng thêm bốn năm mò mẫm trước khi Đảng chính thức ra đời. Anh bị đuổi học sau khi để tang chí sĩ Phan Châu Trinh và ký giấy thỉnh nguyện đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, lang thang kiếm sống bằng nhiều nghề, vô sản hóa thành phu khuân vác ở ga Tua Chàm gần Phan Rang, ra Hà Nội làm thợ sắp chữ cho các báo tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng hồi Mặt trận Dân chủ, vào tù thì biến trại giam thành trường học, thoát ra lại như con cá kình trở về biển... biết bao giờ Chanh mới học được một phần nhỏ những gì tốt đẹp ở anh xứ ủy cao tuổi này?

- Buồn ngủ hả Chanh? Thức đêm vừa vừa thôi, tao biết tánh mi hay sa đà lắm. Giữ sức mà về Tây Quảng đánh du kích nghe chưa. Tỉnh mình lập bốn chiên khu, chỗ mi nhiều triển vọng nhứt đó.

Anh nhắc Chanh giữ sức, sau đó lại mang tơi lá, đội nón rách, một mình chèo xuồng ra đi lúc một giờ sáng dưới mưa dầm.

Chị vợ anh Tô Xáng bán quà rong trên mặt sông, mỗi ngày bơi xuồng tới ghe dét-tê hai lần, đem cho Chanh niêu cơm ghế khoai khô, trã cá kho hâm lại, xoong canh hến nấu rau lang, những món chắc bụng của dân nghèo vùng biển, nhưng dọn kèm theo các thứ quà riêng của chị, bày thành mâm cỗ không sao ăn hết được. Chị gầy và ngăm ngăm đen, mặc bà ba đen vá, không biết chữ và rất ít nói, chỉ cười tít mắt khi Chanh muốn đùn trả những thức ăn tốn tiền, quạt mạnh mái dầm đi xa mới cất tiếng rao lanh lảnh: “Ai cháo cua chả mực gỏi tôm nhộng xào không?”. Khi cần báo động cho các cơ sở giao thông trên bến dưới thuyền thì câu rao hàng lại đảo ngược cùng với ngọn đèn đổi chỗ đặt ra sau lái: “Ai nhộng xào gỏi tôm, chả mực cháo cua không?”.

Một hôm Chanh nhận mẩu giấy anh Xáng báo tin đồng chí Sáu Lễ tỉnh ủy viên sẽ đến nói về phong trào thành, thị. Chị Xáng cho thuyền áp mạn lúc sẩm tối - giờ đi lại trên sông dễ dàng nhất - chuồi qua cửa sổ cái mẹt đầy của ngon phần Chanh, buông gọn:

- Đồng chí Lễ tới đó, chú mở cửa sau. Chừng mười giờ tôi tới đón.

Chiếc thuyền chòng chành báo có người bước lên. Chanh mở cửa khoang phía lái, né cho một bóng người lòa xòa khom lưng bước vào dưới mui thấp.

Mùi nước hoa xộc mạnh vào mũi. Dưới ánh đèn dầu dừa khêu to ngọn, anh trơ trơ nhìn đồng chí Lễ: một bà béo trắng tô đầy phấn sáp, mặc áo dài lụa mỡ gà trên quần xa-tanh đen, tóc bọc lưới, đeo hoa tai nạm kim cương, dây chuyền vàng quanh cổ, xuyến vàng và nhẫn mặt ngọc trên hai tay.

Một mụ chủ tiệm vàng lọt vào tận đây, còn đồng chí tỉnh ủy đâu rồi?

Mụ ta ngồi xếp hai chân một bên, thong thả gỡ các thứ trang sức trên mình cho vào giỏ mây đan, khẽ cười: “Đồ giả hết đó, đồng chí ơi”. Rồi mụ chui ra sau lái một lát, Chanh nghe tiếng khoát nước rửa. Trở vào khoang là một chị buôn gánh bán bưng lam lũ với búi tóc củ hành và áo bà ba màu gụ đã bạc màu trên vai, túi áo gài kim găm cẩn thận. Chị nói giọng điềm đạm của người đứng tuổi:

- Coi lạ lắm hả? Chiều nay mình đi gặp mấy bà buôn to với vợ công chức lớp trên phải đóng vai nhà giàu... Bây giờ đồng chí ăn cơm đã, lát rồi nghe tình hình thành phố. Lên mạnh lắm, nhất là nữ thanh niên...

Chị xới cơm cho Chanh, dỗ dành:

- Rán thanh toán hết mâm nghen, mình ăn rồi. Mấy ảnh dặn tẩm bổ nhiều cho đồng chí, vượt ngục chưa bao lâu lại lên chỗ núi non. Chả mực chị Xáng ngon nhứt Hội An đó, ăn hết đi, để dành nuôi cá sông à?

- Chị được mấy cháu rồi, chị Sáu? Ảnh đang ở đâu?

- Ối, chuyện đời thì dài lắm, nói sao cho xiết. Ta nói chuyện công tác hay hơn. Tăm đây, nước đây, còn mấy điếu thuốc Mic...

Chị Sáu nói rất tỷ mỉ về các tầng lớp ở thành phố và các thị trấn trong tỉnh, về các đội tự vệ nam nữ đang mọc lên nhan nhản nhưng thiếu người chỉ huy và huấn luyện. Chanh không được phép ghi chép. Đến quãng giữa câu chuyện, chị Sáu đổi sang gọi Chanh bằng chú và xưng chị:

- Anh Quý khen chú nhiều lắm. Nghe nói chú là thợ xe lửa, chị mừng quá, năn nỉ mấy ảnh cho chú về giúp chị làm công vận. Mấy ảnh nhứt định không chịu, nói phải để chú lo mặt quân sự. Đang sửa soạn khởi nghĩa mà! Tây Nhựt nó không cho đờn bà vô xưởng máy lớn, thành thử chị hiểu giới thợ thuyền kém lắm Chanh à. Các đồng chí Đà Nẵng sẵn cán bộ, giàu kinh nghiệm, nắm công nhân giỏi hơn ta. Sắp tới để chị cằn nhằn riết coi thử mấy ảnh có chịu đưa chú qua xây dựng công hội hay không... Chị dặn thêm nghen: anh Bảy dạo này bị yếu phổi trở lại, chú cũng chưa được khỏe, hai anh em đừng thức thâu đêm rủ rỉ rù rì miết vậy, hại sức khỏe và cũng dễ lộ bí mật trạm dét-tê...

Chị Xáng tới đón chị Sáu Lễ đúng hẹn. Mãi đến khi đã rời thuyền đến cắm sào chỗ mới, tắt đèn sắp ngủ. Chanh mới sực nhớ một lần anh Tô Xáng bảo chị vợ anh Bảy Quý là Tỉnh ủy viên Quảng Nam, hai anh chị chỉ được một con nhưng bị chết non trong khi cả hai vợ chồng lần lượt bị bắt. Tội nghiệp, anh chị đều cao tuổi rồi.

Về anh Tô Xáng mới quen mà ai cũng gọi cả tên lẫn họ, Chanh hỏi anh Quý mới biết tông tích. Trong đợt khủng bố lớn năm 1940, bọn mật thám Quảng Nam vồ hụt anh Xáng hai lần, tức điên, dán khắp tỉnh những yết thị in ảnh và hứa thưởng hàm cửu phẩm cho ai chỉ điểm bắt được “tên cộng sản kỳ cựu Tô Xáng, bí danh là Đập hay Bát Đập”. Xáng cái tô hay đập cái bát là đồng nghĩa mà! Anh Xáng phải nằm dưới sạp ghe bầu lánh vào Tua Chàm gần Phan Rang được anh Quý giấu trong nhà cơ sở. Địch đánh hơi và bắt đầu rình, anh lại vọt vào tận Cà Mau làm dân chài. Năm ngoái anh trở về Quảng Nam nhưng phải ở ngoài Cù lao Chàm, sau đảo chính Nhật mới xáp vào Hội An và sống trên đò với giấy tờ giả.

Anh Quý chia tay đi Huế. Anh “Bát Đập” từ các huyện trở về, báo tin Thường vụ tỉnh ủy đã chỉ định Chanh làm huyện ủy viên Tây Quảng, lo việc xây dựng du kích quân và căn cứ địa ở tổng An Sơn. Bộ máy cai trị cấp huyện đang còn nhưng cấp tổng và làng đang rã rời, tê liệt, ta cần dấn tới gấp.

Cùng với em kết nghĩa và đứa em ruột mới tìm được, Chanh, hối hả trở về làng quê Linh Lâm với một nhiệm vụ to tướng và hai bàn tay trắng, vốn liếng mang theo chỉ có những dòng đã học thuộc lòng trong bảy ngày đêm nằm đò trên con sông Cửa Đại rất phẳng lặng trong mùa nước êm.

Chú thích:

[1] Từ khinh miệt thời xưa, chỉ các dân tộc Thượng ở miền Nam.

[2] Khách trú, Hoa Kiều

[3] Bãi đất bồi ven sông.