← Quay lại trang sách

- 8 -

Người bạn bồn chồn nhìn ra cửa quán, lại nhìn Hai Khánh:

- Có lẽ hắn ta không ra... Cậu xem mấy giờ rồi?

Khánh bật cười, tháo cái đồng hồ đeo tay đặt trước mặt Thạch Sơn:

- Tại chúng mình đến sớm. Trông cậu cứ như anh chàng dại gái ấy, đứng đi trên lửa nằm ngồi trong sương, giục ông mối quầy quầy... Ái chà, sắp bị ám rồi đây!

Một người trẻ tuổi mặc sơ-mi ngắn tay, quần soóc, đeo cái xắc-cốt da hình chữ nhật đứng theo kiểu đang thịnh ở Hà Nội, đi xồng xộc tới bàn của họ ở góc trong cùng.

- Chào Khánh, chào ông bạn chưa quen. Nóng bức thế này mà uống đen nóng cơ à? Tớ làm cà-phê đá thôi. Muốn hỏi Khánh tí việc... nhưng thôi, nói ở đây không tiện.

Khánh ngoảnh về phía quầy, búng hai ngón tay đánh tách, gọi một tiếng gọn: “Đá!”. Bà chủ quán gật đầu. Cô hầu bưng ly cà-phê đá đến nhanh, lui nhanh mặt lạnh như Ăng-lê. Chắc hẳn cô không ưa Khánh vì thấy anh hay cặp kè với viên sĩ quan Nhật. Nhìn quanh thấy quán đang vắng, Khánh nói với anh chàng không mời mà đến:

- Anh bạn đây là chỗ nối khố, cậu cứ tự nhiên. Định rủ mình vào Đại Việt quốc xã đảng hay là đảng nào mới ra lò?

- Không đâu, lần này chuyện làm ăn. Cậu biết ai muốn mua súng không?

- Ca-nông xoa-xăng-keng, hay là moóc-chê?

- Đùa gì thế? Tớ đang có vài cây chó lửa xinh lắm. Cho cậu luôn khẩu ru-lô đây, Chỗ anh em, tớ để rẻ năm trăm, hòa vốn thôi đấy.

Gã đặt cái xắc-côt lên trên bàn, bật nắp, rút ra một tờ báo đưa cho anh bạn của Khánh:

- Anh vờ xem báo đi, che hộ tôi... súng xanh-tê-chiên mới bóc tem nhé.

Gã rút cây súng lục ổ quay ra nửa chừng, lật qua lật lại xem hai mặt, lại đút vào xắc-cốt và gài kín nắp. Khánh trông thấy ánh thèm muốn lóe lên trong đôi mắt anh bạn đang tìm mua súng, khẽ lắc đầu, nói ỡm ờ:

- Lại súng không đạn, chuyên dùng để tống tiền, bắt cóc!

- Cậu đúng là Tào Tháo tái thế! Mang súng lắp sẵn đạn để bọn Nhật nó rạch bụng ra! Súng không đạn còn chối quanh được là mới nhặt đằng kia, đang đi trình hiến binh... Hay là tớ bớt cho cậu dăm chục, lấy cái tình là Quí.

Khánh vẫn lắc đầu:

- Mình rước của nợ ấy làm gì. Tưởng rẻ thì mình mua đi bán lại kiếm mấy chục bạc lãi uống cà-phê chơi. Cậu biết đấy, thứ chó lửa Chiêu Hòa của Nhật, rất sẵn đạn, ô-tô-ma-tíc cực kỳ ngon, chúng nó chỉ chào hàng tới ba trăm, hôm qua có đứa chịu giá hai trăm một súng với năm chục đạn. Thấy chưa?... Này, lên cơn sao mà ngáp ghê thế? Còn hút ở Tiên Cánh nữa không?

Gã kia bị đè bẹp dưới cái giọng lõi đời kẻ cả của Khánh, lại bị cơn nghiện đục khoét trong xương, đành chịu lép vế hoàn toàn. Cây súng với ba chục đạn được ngã giá đúng một trăm đồng, đưa trước năm chục, khi nhận đạn mới trả đủ. Gã vồ lấy năm tờ giấy bạc trên tay Khánh, nhỏm dậy định đi ra. Khánh lại cười:

- Đợi mình tí. Mình mượn xà-cột, đem cái của nợ đi giấu luôn, kẻo rồi hiến binh ập đến khám...

Anh bấm nhẹ vào vai Thạch Sơn ra hiệu cứ ngồi yên, lấy xe đạp phóng đi rất nhanh. Mươi phút sau anh quay lại. Gã bán súng bị cơn nghiện hành hạ đã chuồn gấp, nhắn Khánh gửi cái túi da cho bà chủ quán.

Anh bạn Việt Minh luồn tay bóp mạnh vào đùi Khánh:

- Chịu cậu... chúa thật đấy. Những như mình thì toi với nó bốn trăm chứ bỡn. Mà sao cậu đi vội thế?

- Sợ nó phản thùng, đi báo hiến binh hay là bọn Đại Việt quốc xã bắt quả tang. Ta-kê-đa vẫn chưa đến à?

- Có thể lộ. Quá hẹn bốn mươi phút rồi, nên đợi nữa không?

- Đợi chứ. Muốn được cá to phải chịu khó câu dầm. Bà chủ đây quen với loại khách uống một ly ngồi một buổi, cậu đừng ngại. Mình đóng vai dân chạy áp-phe được đấy chứ?

- Tuyệt diệu! Cậu buôn súng bao giờ mà thạo ghê thế?

- Ha ha, mình phịa tất! Hà Nội đang có cái mốt khoe súng, khoe hội kín, đứa nào cũng ra vẻ ta đây biết vô số bí mật quốc gia, thật ra đứa nào cũng mù tịt cả. Mình lòe những là súng Chiêu Hòa, giá hai trăm, chứ có xem kỹ cây súng Nhật nó ra sao đâu! Cứ lấy tên Thiên Hoàng đặt bừa cho súng, anh cu lác mắt!

- Thế mà khi học với nhau, mình cứ tưởng anh em Nam Kỳ rất là mộc mạc, da rám nắng, luôn luôn xài lớn, nóng mũi là nện luôn. Trông cậu chả có vẻ gì là Nam Kỳ cả, đặc Hà Nội...

- Ấy là vì mình không phải dân Nam Kỳ! Mời cậu ôn lại cuốn địa dư lớp Nhất: Quảng Nam và Bình Định thuộc xứ nào?

Tiếng giày đinh lộp cộp bên ngoài khiến họ im bặt, quay đầu ra. Viên trung úy Nhật bước qua cửa, đảo mắt nhìn quanh, một vòng, nặng nề đi tới bàn của Khánh trong góc. Gã không ngồi xuống ngay mà hất hàm về phía anh bạn ra ý hỏi. Khánh nói luôn bằng tiếng Anh:

- Đây là người mà các anh muốn gặp... Anh dùng cà-phê pha rom như cũ nhé?

- Anh gọi cho tôi một chai cô-nhắc Pháp. Nguyên cả chai.

- Ồ, Ta-kê-đa!

- Này Khánh, đừng dạy phép vệ sinh cho thầy thuốc nhé. Anh biết vì sao tôi uống đấy. Nên nhớ tôi có quyền phân phát rượu mạnh trong quân đội, hàng trăm thùng một lần, nhưng tôi thích cô-nhắc Pháp hơn xa-kê Nhật. Hãy để cho kẻ chiến bại là Pháp phản kích bằng rượu ngon đến khi quân Nhật ngã gục!

Trận bom lửa khủng khiếp dội xuống Tô-ki-ô đêm mồng chín tháng ba đã giết mẹ và hai em nhỏ của Ta-kê-đa. Đã thế, cô người yêu lại đi lấy chồng, một ông chồng già nhưng giàu sụ. Mới hơn một tháng mà viên trung úy trẻ tuổi già sọm đi, mắt hõm và đục lờ, càng uống nhiều càng lầm lì không nói.

Đợi cô hầu bàn đi khỏi, Ta-kê-đa tợp một hơi cạn nửa cốc, đưa tay quệt mấy giọt rượu đọng trên mép, nói luôn:

- Ông đại tá muốn hỏi ông đại diện Việt Minh một câu thôi: các ông định mua súng để đánh ai? Nếu để đánh Pháp giành độc lập thì chúng tôi bán. Nếu để đánh Nhật, như các ông đang làm trên vùng rừng núi kia, thì chúng tôi không bán. Rõ chứ?

Khánh nghĩ thầm: một câu hỏi hóc búa đây. Anh bạn Việt Minh nghĩ trầm ngâm mấy phút trước khi đáp:

- Chắc chắn sắp tới chúng tôi phải đương đầu với Pháp quay lại chiếm Đông Dương. Chúng tôi mong quân đội Nhật sẽ giữ thái độ trung lập, không cản trở hoạt động của Việt Minh.

- Thế tại sao Việt Minh lại đánh chúng tôi? Oa-rui, tai-hen oa-rui-đex![1]

- Anh xem lại tin tức: Tất cả các trận đều xảy ra khi quân Nhật đánh vào các vùng giải phóng. Anh đoán nước Nhật sẽ thua trận, sẽ rút khỏi Đông Dương, Việt Minh là lực lượng mạnh nhất và chính nghĩa nhất. Như thế đáng lẽ các anh cố giúp đỡ Việt Minh nắm chính quyền mới phải, đằng này lại hành binh đi đánh Việt Minh tít trên núi cao. Bộ tư lệnh Nhật đã xử sự sai lầm!

Khánh chăm chỉ dịch đúng từng chữ, tuy cảm thấy bạn nói hơi căng. Ta-kê-đa tự rót đầy cốc thứ hai, uống nhấm nháp, hai gò má bắt đầu ưng ửng.

- Xa, đô ka oa ka-ri-ma-xen[2]... Có thể ông nói đúng. Toàn bộ cuộc chiến tranh này là một sai lầm khổng lồ. Thái độ đối với Việt Minh cũng sai lầm nốt... Trước mắt, ông đại tá có thể bán vài chục súng mút-cơ-tông và anh-đô-si-noa thu được của Pháp, mỗi súng kèm dăm chục đạn, thanh toán bằng vàng thật chứ không dùng giấy bạc. Có thể chúng tôi sẽ chở bằng thuyền trên sông, các ông phục kích cướp thuyền nhưng để cho lính chạy thoát...

Khánh bật cười:

- Anh vừa trách Việt Minh bắn vào Nhật đấy!

Ta-kê-đa cười hô hố, lại im ngay. Một tên lính Nhật dựng xe đạp cạnh cửa, hối hả bước vào, đứng nghiêm chào, nói gì một tràng dài, Viên trung úy sầm mặt, nói rít răng:

- Ti-ki-sô! Đa-ma-rê![3]

Tên lính gượng nói thêm vài câu nữa, chào, quay lui, để chiếc xe đạp lại đấy. Ta-kê-đa cười buồn, nhét chai rượu đã vơi một nửa vào xắc-cốt, đứng dậy:

- Người ta gọi tôi về gấp để lập biên bản cho chôn hai cái xác. Hai sĩ quan nổ súng vào đầu, một chết ngay, một còn hấp hối. Chết kiểu ấy sạch gọn hơn tục ha-ra-ki-ri[4], đổ ruột ra bẩn lắm, lại phải nhờ người khác chặt hộ cái đầu để chóng chết... Các anh về tính giá cả đi, chiều mai lại gặp nhau.

Một chiếc xe tải rì rì chạy đến. Thấy viên sĩ quan dắt xe đạp tới mép vỉa hè, nó dừng hẳn lại. Hai bên thành xe treo hai tấm băng vải viết chữ Việt và Nhật trong quán nhìn ra có thể đọc một tấm “Đại Đông Á vạn tuế!”. Trên xe có chừng mươi gã mặc quần áo giống lính Nhật, không đội mũ để phơi đầu cạo trọc, hai gã đeo trống cà-rùng trước bụng, còn lại đều cầm loa sắt tây. Một gã hét khàn khàn:

- Ban-dai Đai Níp-pông![5]

- Bandai! Ban-dai!

Ta-kê-đa khoát ngang một tay, có thể hiểu là vẫy chào hay xua đuổi đều được. Trên xe nổi một hồi trống như quảng cáo vở tuồng mới, xe lại chạy tiếp, các miệng loa chõ vào hai bên phố hát như gào bài ca Đại Đông Á:

- Ta là người sanh trong cõi đất Á-tế-á

Sống ngày ngày dưới ách quân Âu, ta bao xiết thương đau. Mau mau ta ra đi, mau ta ra tỉnh cơn say...

... Nào cùng đứng lên cùng hô: tàn sàn quân trời Âu!

Đợi phố vắng hẳn, hai người mới đến quầy trả tiền, và méo mặt nhìn nhau: chai cô-nhắc mọi hôm đắt nhất cũng chỉ vài ba chục nay được tính cắn cưa năm chục, bà chủ còn kể ân huệ:

- Lùng khắp Hà Nội mới kiếm được một chai Mác-ten cũ đến tám tuổi, định để dành bán chén cho khách quen, tôi nể ông quan Nhật với hai cậu quá phải đưa ra... Đại sự bất câu tiểu phí, các cậu ạ. Tôi kiếm lãi cò con một năm không bằng các cậu trúng áp-phe một giờ... Liệu chắc ăn thì cho chị đây góp vốn với nhá!

Khánh nháy nháy một bên mắt ra vẻ ăn ý. Bà chủ càng tin mình nói mò mà trúng tim đen hai chàng buôn lậu, cầm xấp giấy bạc lại rút đưa trả Khánh mười đồng:

- Chị biếu các cậu lấy may, lấy khước. Cứ dẫn nhan đến đây nhé, chưa sẵn tiền thì uống ghi sổ, về khoản bí mật thì chị cứ là nhất thế giới. Gớm, cậu đẹp giai này học tiếng Nhật bao giờ mà nói như cháo chẩy, giá đi làm cho Nhật chắc lên quan to rồi đấy. Muốn sống ngoài vòng cho dễ ăn chơi chứ gì, tướng này là thượng hạng đào hoa đây!

Khánh bật cười khà khà, kéo tay anh bạn đi ra, vẫy bàn tay kia sau gáy ra hiệu tạm biệt lối dân chơi.

Trời đã nhá nhem tối. Đèn phủ chao đen chỉ đủ đánh dấu lòng đường. Họ đi sát bên nhau trêu vỉa hè vắng về phía đường Cô-lông gần ga Hàng Cỏ, Khánh dắt xe chứ không đạp vì muốn nghe bạn nói dứt khoát việc mua súng. Thế nhưng anh này chỉ hứa “xin chỉ thị của thượng cấp”, lo lắng vì phải trả bằng vàng.

Khánh đột ngột dặn Thạch Sơn:

- Cậu cứ đi tiếp tới ga Hàng Cỏ, đợi mình trước thềm. Mình rẽ vào nhà quen lấy cây súng ru-lô ban nãy giao luôn cho cậu, đạn kiếm sau.

Anh phóng xe theo đường Cô-lông về căn gác ở trọ. Cây súng được giấu ngay trên trần buồng anh, nhưng Khánh rất ít khi đưa bạn hoặc nhân tình về nhà. Tự do trên hết, anh không muốn ai chen vào đời tư của mình.

Khánh gói súng cẩn thận trong ba bốn tờ báo Đông Phát - tờ Đông Pháp mới đổi tên chớp nhoáng sau đảo chính - đạp xe ra ga trao cho bạn, hẹn chiều mai lại đến quán cà-phê quen.

Trở về nhà, Khánh sửng sốt khi thấy đèn sáng trong buồng mình. Anh nhớ rõ đã tắt đèn, khóa cửa kia mà. Hay là mật thám phá cửa vào soát nhà? Anh lách xe sang bên kia đường, nép vào bóng tối sau trụ đèn, lắng tai dò động tĩnh. Không có tiếng động nào đáng ngờ. Chị thợ khâu đang thuê buồng gần cửa ra vào vẫn cặm cụi may bên cửa sổ, miệng hát ru con và kéo sợi thừng đưa nôi bằng hai ngón chân. Có tiếng cười trong phòng khách của chủ nhà. Có vẻ yên ổn cả.

Anh mở cửa chính, dắt xe thẳng vào sâu sau, khóa cẩn thận trước khi quay trở ra và bước vào phòng khách. Năm sáu bộ mặt tươi nở đón anh cùng với mùi mực khô nướng xốc thơm vào mũi.

- Chú rể về kia!

- Vợ đẹp như tiên non bồng mà kín tiếng thế!

- Khao nhé, anh Khánh! Chưa khao thì cấm lên gác!

Trên mặt bàn lát đá hoa bày một bó mực khô khá to, một đĩa mực nướng xé vụn. Cô em út trong nhà đang nướng mực trên bếp điện, cả nhà đang nhai mực tóp tép. Chị con gái đầu lòng ẵm đứa con thứ ba, xua tay và nói thay cho cả nhà:

- Mãi đến nay mới biết vợ anh Khánh là cô Nết...

- Cô Xi-mo-nét, tên đầm đấy!

- Ờ, ờ, thời buổi bom đạn này mà lặn lội từ Sè-goòng ra thăm chồng, còn mang theo vô khối là của ngon vật lạ, mới biếu nhà một bó mực Bắc Hải đây này...

Cô Ba đang học đệ tứ liền bẻ chị ngay:

- Không phải Sài Gòn mà Tu-ran, ở phía Nam đất Thần Kinh. Không phải mực Bắc Hải bên Tầu mà mực Quảng Nam, chị cứ lẩm cẩm!

Khánh gượng cười tươi, đối đáp qua quýt và tránh đôi mắt hằn học của cô Hai muộn chồng, xin phép rút lui êm lên gác. Mỹ Duyên quả là chúa liều, đuổi theo anh đến tận Hà Nội. Anh chưa trao địa chỉ này cho Duyên bao giờ, sao cô ấy tìm ra nhỉ...

Mỹ Duyên mặc quần áo ngủ trong veo, đang ngồi đọc sách trên chiếc ghế xích đu đặt cạnh đèn bàn, trên mặt vẫn giữ nguyên son phấn. Cô đặt cuốn sách, thong thả gập một tờ đánh dấu chỗ đang đọc, ngước nhìn Khánh bằng cặp mắt xoi mói:

- Anh bị một keo đứng tim hả? Phân trần với chủ nhà có khó lắm không? Xin lỗi nghen, em phải xưng là vợ anh mới lọt vào hang ổ của luật gia được.

Khánh nuốt khan nước bọt vài lần mới hỏi khản giọng:

- Em ra... có việc gì gấp thế?

- Cứ yên chí lớn, ông phủ cùng bà Cả bà Hai đều thường như thường. Chỉ riêng bà Ba hơi rắc rối, trẻ người non dạ quá mà... Nhà em ở bãi biển Thanh Bình bị bom sập rồi, anh biết không? Lão phủ ra coi, kêu không đủ tiền sửa, kéo em vô ở phủ Thăng Bình, giao em làm quản gia kiêm đầu bếp, mỗi ngày lãnh mươi đồng tiền chợ với hai bài học sáng và tối về sự tu thân và tiết kiệm. Em đá tung hê, bỏ đi chẳng cần ô-voa... Sau đó, em ở đây tự lo cơm ăn áo mặc, chịu nửa tiền nhà, anh chứa được bao lâu?

- Duyên!

- Duyên nợ cái gì... Tính em xưa nay ưa sòng phẳng, cả tiền lẫn tình. Hễ anh thấy phiền, em sẽ thuê nhà riêng, trở lại nghề ca-va, dù sao cũng ít bị kiểm soát hơn nghề gái bao. Nghe nói nhà cửa Hà Nội dễ thuê lắm, người ta sợ bom bỏ về nhà quê lu bù. Tụi Nhật nhảy tồi mà lại ưa học đòi chơi kiểu Tây, trả khác lắm. Em thử vài lần mặc ki-mô-nô đóng vai trà nữ, được khen nức nở, ấy là mới lõm bõm mấy chục câu tiếng Nhật thôi đấy. A-na-ta oa nip-pông ngô ô ka-na-si-max ka?[6]

Khánh ngồi lặng trước mặt cô gái thua anh ba tuổi mà tính quái đến dễ sợ. Tiếng nói lanh lảnh lùi ra xa lắm, nhưng vẫn xóc vào tai anh đến đau cả màng nhĩ:

- Nằm trên tàu em đọc mãi cuốn này, kịch Lôi Vũ của Tào Ngu. Bà vợ kế là Phồn Y yêu con trai riêng của chồng, hóa điên. Bà ta khờ một cây. Em thì chẳng điên khùng gì hết, em cứ sống cuộc đời của em cho lút ga thả xăng, bao giờ quá ngán thì a-lê, nhờ bánh xe lửa hay tàu điện đưa vào hư vô...

Chẳng hiểu bằng cách nào, Khánh đã lao tới ôm ghì Duyên trong tay. Họ không nghe tiếng còi báo động réo to dần phía Nhà hát lớn, tiếng còi hơi nước the thé của xe lửa rít dồn dập phía ga. Mãi đến khi những quả bom đầu tiên nổ ầm ầm phía Gia Lâm, Mỹ Duyên mới lười biếng vươn cánh tay trần ra tắt ngọn đèn bàn bên đầu giường.

Mãi về sau, Khánh mới biết là Mỹ Duyên nói quá lên cho câu chuyện thêm lâm ly.

Một đoàn tàu biển của Nhật đâu từ Tân-gia-ba - đổi tên là Chiêu Nam - ngược lên hướng Bắc, đã ghé vào đậu nép trốn máy bay Mỹ ban ngày dưới chân bán đảo Sơn Trà, phía Đông thành Đà Nẵng. Có lẽ vì địa thế khó đánh, bọn Mỹ đợi đến tám giờ tối, đoàn tàu mở máy ra khơi mới cho mấy chục máy bay thả đèn dù sáng trưng mặt biển, giội bom xuống túi bụi. Vài chiếc tàu đằng đuôi cuống cuồng quay lại cửa sông Hàn, bị đuổi đánh tiếp. Một quả bom rơi lạc xuống gần căn nhà hai tầng Mỹ Duyên thuê, làm xô mái ngói và nứt trần. Chủ nhà thấy của nổi không bằng của chìm, không chịu bỏ tiền ra sửa. Ông phủ Đỉnh rối ruột vì Việt Minh đang dậy và bị dân kiện tứ tung, đưa xe ra đón Mỹ Duyên về ở trong phủ. Không đèn điện, không nước máy, đêm nóng phải quạt tay phành phạch, Duyên chịu được một tuần đã ngấy đến cổ, bắt chồng chạy tiền cho vào Sài Gòn thăm nhà, để vọt ra Hà Nội ở với Khánh ít lâu.

Sáng hôm sam, các gia đình thuê chung nhà với Khánh đều biết cô Nết là vợ anh Khánh, hằng ngày đi chợ và nấu nướng cho chồng tẩm bổ, người đâu trong Nam xa lắc mà khéo ăn ở được lòng mọi người.

Chú thích:

[1] Tiếng Nhật: xấu, rất là xấu!

[2] Tiếng Nhật: Chà, tôi chẳng hiểu gì

[3] Tiếng Nhật: Đồ xúc vật! Câm họng!

[4] Tiếng Nhật: mổ bụng (tự sát)

[5] Tiếng Nhật: Đại Nhật bản vạn tuế!

[6] Tiếng Nhật: Anh có nói tiếng Nhật không?