- 9 -
Vào khoảng giữa miền Trung, ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Kon Tum gặp nhau ở một vùng rừng núi mênh mông và hiểm trở vào bậc nhất trong nước ta, với đỉnh Ngọc Linh vút lên cao hơn ba ngàn mét. Vùng núi ấy đẻ ra vô vàn khe suối chảy đi các hướng. Một trong những dải nước tí xíu chưa được đặt tên kia sẽ lớn lên thành con sông dài, đẹp, giàu sức sống nhất của Quảng Nam. Đó là dòng Thu Bồn.
Từ bé, sông Thu Bồn đã khôn và bướng.
Nó nhất định đi ngoằn ngoèo theo hướng Nam lên Bắc, không chịu đổ tuôn ngay xuống biển Đông đang dang rộng tay sẵn sàng đón. Nó không muốn giành, gấp lấy một cửa nào đó và tự xóa tên luôn trên bản đồ. Bao nhiêu lần vùng đất đồi trung du mở những thung lũng mời ra biển, nó cứ vừa đi vừa lắc đầu, không bước xuống thấp hơn. Nguồn Thu Bồn đón nhận nhiều sông suối khác dọc đường, lớn lên thành con thủy lộ vạm vỡ mà không đổi hướng cũ, dường như muốn thi sức chảy kéo dài với hai dòng bạn đồng hành song song hai bên.
Trên thế đất hình mái nhà của Quảng Nam, con sông Giằng trẻ và dữ vừa tiến lên Bắc vừa nhảy điệu múa đâm trâu của mình gần sát trên đỉnh nóc, trong khi dải nước mặn Trường Giang lười biếng duỗi mình dọc bờ biển như cái máng dài hứng nước chỗ rìa mái, Thu Bồn ta một mình uốn lượn nhởn nhơ ở quãng giữa, không vội. Nó bồi đắp những mảnh đất nà màu mỡ hình bánh quai vạc ven bờ để làm chuỗi hạt cườm trang điểm, xoi đường qua Hòn Kẽm Đá Dừng hùng tráng đến lạnh xương sống người chèo thuyền qua, lúc vui thì mở vực và nấn ná lâu, lát sau chán lại hóa thác vọt đi ầm ào. Nghe lời rủ rê của suối khe, nó rẽ đến thăm tất cả những nơi có thể luồn lách vào được. Nó dạo chơi rông như đứa trẻ 15 dại trốn học nhưng không tìm ra bạn, ngại về lớp và về nhà, nghêu ngao cho hết buổi.
Áng chừng bước vào quãng đất trũng từ Phú Gia tới Trung Phước, nó mới nghĩ rằng sau khi đã thu vào bấy nhiêu nước thì phải trả lại ít nhiều cho đất và người chứ. Những chiếc xe nước đầu tiên rì rào quay trên sông, càng về xuôi càng phình to và xếp lớp dày đặc, ngày đêm múc nước sông rót vào đồng ruộng. Thu Bồn đã lớn và chín chắn hơn, đi đứng xem chừng chỉnh tề hơn, biết chăm lo cho họ hàng bạn bè hơn, bắt đầu gọi người đến bên mình để mở bến, lập chợ, xây làng to.
Thế nhưng, đến khi đổ tới đồng bằng Đại Lộc nó mới quyết định hẳn đời mình. Nó rẽ ngoặt sang tay phải, đi tìm biển. Nó hồ hởi nhập vào các nhánh sông trên núi - lúc này đã bằng lòng xoay chiều để họp chung thành dòng Vu Gia - cùng nhau tỏa rộng trên vùng đất phẳng Bắc Quảng Nam, cùng kéo xuống gặp ông bạn nước mặn Trường Giang không được phép leo ngược lên núi. Cuộc thi chảy dai sức của ba con sông Quảng Nam chấm dứt ở nơi hòa hợp Cửa Đại, tạo nên thị xã Hội An xưa kia lừng lẫy chỉ kém đế đô, nhưng vẫn để dành một nhánh lớn đi tiếp lên hướng Bắc, mở thêm một cửa khác ở Đà Nẵng, cửa sông Hàn.
Kiểu đi ôm bọc mé trên đổng bằng của Thu Bồn, trong khi tưới nhiều cho nửa tỉnh phía Bắc, tạo đường thủy từ Đà Nẵng và Hội An ngược rất xa lên vùng núi, đã bỏ lại nửa tỉnh phía Nam thiếu sông ngòi. Ở đấy đi về phía Tây chỉ có những khúc đường tình và huyện tách ra từ quốc lộ Một.
Con đường tỉnh số 56 chạy xuyên qua huyện Tây Quảng, ngoi mãi lên cao. Nó gặp sông Linh, một nhánh nhỏ nối vào thượng nguồn Thu Bồn. Ở chỗ gặp nhau ấy mọc lên làng Linh Lâm. Nhích thêm một đoạn ngắn nữa, đường 56 kiệt sức đừng lại, không leo nổi tới quốc lộ 14 đang từ thị xã Kon Tum chật vật rướn mãi về Đà Nẵng mà chưa giáp mối.
Linh Lâm nằm trên một khoảng đất lòng chảo lọt giữa núi. Đó là làng người Kinh cuối cùng trên đường 56, cũng là làng người Kinh cuối cùng khi ngược dòng sông Linh bằng thuyền. Dù bị các quan trị nhậm huyện Tây Quảng gọi khinh bỉ là cái làng “nằm dưới đít mọi”, Linh Lâm vẫn cứ đóng vai một cửa khẩu giao lưu giữa Kinh và Thượng, nối liền vùng rừng núi trùng điệp với đồng bằng Nam Quảng Nam bằng đường bộ, với các hải cảng Bắc Quảng Nam bằng đường nước.
Những điểm đầu mối như thế thường phình to. Khách lạ đi lên núi, qua những xóm làng ngày càng heo hút, qua những truông đèo khỉ ho cò gáy và có khi điểm thêm tiếng voi rống cọp gầm, những tưởng càng ngược xa càng đi vào nơi ma thiêng nước độc, sẽ sửng sốt và vui thích khi từ trên thuyền hoặc xe ô-tô bước xuống vạn[1] Linh Lâm, chợ Linh Lâm. Thuyền bè cắm sào đậu san sát trên sông Linh, nhà ngói, nhà tranh chen chỗ đứng trên bờ cao, người tấp nập trong chợ phiên đang mua bán các thứ hàng nội ngoại từ Sài Gòn hay Hà Nội chở về, cánh lái buôn hốt bạc đang cười sằng sặc trong tiệm ăn Tàu bên chợ. Và tất nhiêu ở nơi đầu mối này phải có đám lính đồn bắng nhắng đi kiếm chuyện để kiếm ăn, có quan Tây ở đồn binh hay đồn kiểm lâm chống ba toong dạo qua khệnh khạng, có các ông chánh tổng, phó tổng, đề lại cưỡi ngựa hay nằm cáng buông rèm kín về xem xét dân tình, vét bổng ngoại.
Linh Lâm sống nhờ ruộng rẫy, làm giàu nhờ nguồn lợi Thượng du. Vùng Thượng mênh mông trút của xuống đây. Thượng thấp có trầu, chè, thuốc lá. Thượng cao có quế, rất nhiều quế, thứ vàng mười hiện hình dưới dạng vỏ cây khô. Biết bao nhiêu người chịu bỏ quê hương tìm lên ở đất này chỉ vì mùi thơm nóng của quế. Trúng vài mùa quế là đủ xây nhà gạch, mua chức ông trùm ông xã. Lỗ vài mùa quế thì bạch đinh lại hoàn bạch đinh, mất gì mà sợ. Những người dân cày cực nhục nhất của huyện Tây Quảng gánh gồng bồng bế kéo nhau lên đây kiếm sống, vỡ ruộng phát rẫy cho có một thứ gì đấy giúp vợ con thoát đói, sau đó bắt đầu “đi rừng, đi mọi”.
Đi rừng dễ nhất. Bước ra khỏi làng một quãng là gặp rừng, chỉ cần hỏi các cụ già xem rừng nào của quan Tây đồn điền, rừng nào thuộc ấp quan phủ để tránh cho xa. Lấy gỗ, mây, tre vất vả hơn mà về xuôi bán được giá, củi, nứa dễ kiếm nhưng rẻ tiền. Ai sẵn nghề thì đốt than luôn chở đủ một chuyến bè thả xuôi sông Linh vào nguồn Thu Bồn, xuống phố Hội bán xong sẽ trở về bằng xe khách.
Góp nhặt được ít vốn và học lỏm được ít mánh lới của thương lái rồi, người trai tráng bắt đầu “đi mọi”. Đầu tiên họ đi các làng thượng ở cách một buổi hay một ngày đường, cõng theo muối, vải, rựa đổi các thứ thuốc nguyên lá, trầu, chè tươi. Dần dà, sau nhiều lần thử sức, họ mới đi “mọi cao”. Đó là các làng Thượng ở cách xa bốn năm ngày đường, có tiếng nói khác, phong tục lạ, có rừng quế mênh mông và những con heo nanh dài một gang, hằng năm có mùa kéo nhan đi đâm chém làng khác. Từng đoàn người Kinh mang hàng hóa lên đổi lấy quế nguyên cây, ở lại bóc vỏ làm quế khô luôn, cõng về làng những bó quế lớn chồng lên nhau vượt xa đầu người.
Ấy thế nhưng chính những người trồng quế trên núi và cõng quế về xuôi lại cứ nghèo mãi, cứ kiệt sức dần đi. Dân Thượng bị lừa phỉnh và ép giá, đổi quế quý lấy những thứ hàng tồi tệ được gọi chung là “hàng đổi mọi”, người Kinh không ai dùng. Trai làng Linh Lâm đi mỗi chuyến quế cực nhọc hàng tháng trên núi, đem quế về cân cho các nhà buôn, quả có nắm trong tay một mớ tiền mà con nhà ruộng rẫy không thể kiếm nổi. Các chủ nợ đã chực sẵn: nợ mua hàng đổi, nợ đong gạo để lại cho vợ con ăn, nợ mua thuốc chữa bệnh sốt rét, nợ ông thầy cúng xả ngải[2] và với những anh chàng liều mạng thì còn hàng đống nợ nơi hàng quà, quán rượu, sòng bạc, tiệm hút nữa, cân quế xong phải trốn biệt. Rốt cuộc, miếng ăn hằng ngày của cả nhà cũng chỉ trông vào vài thửa ruộng núi và mảnh đất gò trồng sắn, khoai.
Tất cả tiền và quyền ở Linh Lâm nằm trong tay bốn gia đình. Địa vị và vốn liếng của họ khác nhau, đôi lúc họ cạnh tranh xô xát nhau, nhưng động đến những việc sinh tử thì họ bó kết với nhau rất chắc.
Đồ sộ nhất là đồn điền của gia đình Lê-ông La-phác-sơ. Hắn vốn là tên đội lê dương giải ngũ, được cử làm trưởng đồn kiểm lâm ở nơi đầu nguồn này, chuyên chặn đánh thuế các thuyền bè xuôi sông Linh và xe hàng lên xuống đường 56. Thấy đồi núi Linh Lâm trồng cà-phê và nhiều loại cây công nghiệp lên tốt hắn cậy cục xin trưng khẩn một vùng rất lớn từ sông Linh đổ lên phía Tây. Sở đạc điền cử người về vẽ bản đồ, quan huyện lên tận nơi gọi hương lý ra đình cho xem tờ giấy tô màu xanh đỏ ghi đặc chữ Tây, thế là giang sơn riêng của “ông Tây La-phạt” thành hình vào khoảng năm 1933-34. Đồn kiểm lâm giao lại người khác, vẫn đóng ở chỗ ngã tư đường ô-tô gặp sông trấn giữ một góc đồn điền La-phạt. Vài năm sau, nhân có mấy vụ “động mọi” do người thượng nổi dậy chống đi phu đắp đường trên núi, hắn lại chạy chọt kéo được bốn chục lính khố đỏ và một viên quản lên đây lập đồn binh, lo canh gác mặt Tây của đồn điền.
Hắn kinh hoàng sau vụ thằng Pi-e con hắn bị thằng bé Năm Chò trong làng giết hụt, từ ấy đi đâu cũng kéo cả nhóm có súng. Dân Linh Lâm thường gặp một bộ ba cưỡi ngựa kéo qua làng: La-phạt cao lênh nghênh và gầy đét đeo súng săn, thằng con trai vạm vỡ hơn đeo cây súng Đức bắn voi, lão Huần quản lý cũng giắt lưng con dao găm và cầm ngang yên một cây rựa bén, cả ba đều gườm gườm như vào đất thù địch. La-phạt cố ý chừa một bộ râu xồm rậm rì như cố đạo để lấy oai, chịu khó học tiếng Việt để ra lệnh và nghe thưa bẩm mà không phải dựa vào lão Huần. Hắn không hề chờ đợi một ai thương yêu hay thật bụng với hắn trong vùng này, trong cả nước này. Một phút người ta ngừng khiếp sợ là cha con hắn mất đầu ngay.
Sau khi Nhật vào Đông Dương, ông chúa đất Linh Lâm mau chóng xuống dốc. Hắn ngừng trồng cây, mỗi năm chỉ thuê phát dọn sơ sài khu vườn cũ, những dãy nhà dành cho “cu ly” thường rỗng. Hắn nghiện thuốc phiện ngày càng nặng, mỗi bữa kéo tới năm chục điếu mới dậy được, bỏ luôn cái thú săn bắn mà chỉ cho thuê cây súng săn hai nòng lấy một nửa con thịt rừng kiếm được. Đồn binh bỏ trống, nhân viên kiểm lâm chỉ còn hai người Việt không có súng, lão Huần làm quản lý đồn điền ăn cắp nhiều hơn trước. Vài năm trước khi Nhật đảo chính, Lê-ông rất ít về Linh Lâm, cứ nằm lỳ ở Đà Nẵng, chỉ phái thằng Pi-e lâu lâu lên xem đồn điền và thu hoa lợi, nạt nộ lão Huần khi thấy gian lận quá quắt. Nghe đâu hắn dạm bán đồn điền rất rẻ mà không ai mua: tất cả các thứ hàng xuất khẩu đều dồn ứ lại, ở Linh Lâm quế chất đống như củi, nói chi đến cà-phê!
So với vùng đất trưng khẩn hơn năm trăm mẫu tây của Lê-ông La-phạt - nếu tính cả những đồi núi xung quanh không khoanh vào bản đồ nhưng hắn cứ nhận bừa là của hắn thì có thể tới ngót một ngàn mẫu - cơ ngơi nhà ông chủ Ung Viết Đỉnh xem chừng khiêm tốn hơn nhiều, sổ bộ chỉ ghi phần ông có xấp xỉ sáu chục mẫu ta ruộng và ba chục mẫu ta vườn chè, ở đây tính xấp xỉ một mẫu ta bằng nửa mẫu tây. Tất cả đều nằm ở mạn phía Đông con sông Linh, gần như đối xứng với khu đồn điền qua dòng sông nhỏ chảy theo hướng Nam - Bắc.
Lý hương quen gọi khu này là ấp quan phủ, nhưng dân làng cứ nhất định gọi là ruộng ông Hường. Các cụ già kể rằng xưa kia khu đất ấy lắm voi cọp, không ai dám đến vỡ ruộng, chỉ ở xúm chùm chung quanh vạn và xóm chợ. Khi ông Hường Hiệu về huyện Quế Sơn lập Tân tỉnh chống Pháp[3], tính kế đánh lâu dài, bèn cho một đoàn nghĩa binh ngược sông Thu Bồn tìm chỗ đất tốt trồng trọt nuôi quân. Vị tướng cầm đầu nghĩa binh chống thuyền ngược lên đến đây, nhìn lên bờ thấy một bầy voi rừng đang lần lượt quỳ xuống như xin quy phục. Lên một quãng nữa lại gặp một bày cọp xếp hàng bên sông, gục đầu như xin tha tội, rồi len lét bỏ đi. Ông cho là điềm lành, bèn dừng quân nơi thung lũng này, lập trại khai hoang. Voi cọp dạt hẳn sang bên bờ Tây sông Linh. Mới một mùa đầu trại đã gửi được hàng chục thuyền lúa bắp xuống Tân tỉnh theo nguồn Thu Bồn. Ông Hường nghe trình chuyện lạ, bèn đặt tên chữ cho làng này là Linh Lâm thôn, ấy là để tạ lại rừng núi đã quý trọng người nghĩa sĩ, mà cũng dựa vào tên hai làng Thượng ở gần đấy là Bà-linh và Bà-lam.
Sau ba năm gần như làm chủ tỉnh Quảng Nam, nghĩa hội ông Hường Hiệu bị đánh tan. Quân Tây và Nam Triều bận đối phó lắm nơi, không kéo tới Linh Lâm. Số nghĩa binh ở đây nhập vào dân làng, nhiều người về quê đón vợ con lên ở hẳn. Bẵng đi khá lâu, bỗng quan huyện cho đề lại và lính lệ kéo lên truy tội cũ. Chúng bắt đánh nhiều người, ăn hối lộ đầy túi, sau đó khoanh hết vùng ruộng ông Hường làm trại ấp tư của một cụ Thượng ở triều đình Huế.
Có người còn nhớ việc này xảy ra vào năm Khải Định nguyên niên.
Chưa ai trông thấy cụ Thượng đầy cai quyền ấy đến nhận trại ấp nào cả. Chỉ thấy những viên quan trẻ tự xưng là ông Huyện, ông Hậu, ông Thừa, con cháu họ hàng của cụ Thượng đến Linh Lâm để tạo lập dinh cơ cho cụ. Họ đặt mua gỗ gạch ngói, rước thợ từ Hội An lên, xây cho cụ một dinh cơ không lớn lắm nhưng đầy đủ vẻ bệ vệ của nhà quan. Dinh cụ Thượng ở nơi thượng nguồn này vẫn có tấm bình phong đắp nổi hình cọp đằng trước, một vọng lâu cho lính gác trên cổng, bốn bức tường cao vây quanh gắn đầy mảnh chai, và những nhà bên trong xếp hình chữ môn tề chỉnh. Tòa chính đường xây mái cong và đắp lưỡng long tranh châu, phải cái bên trong chẳng có gì đáng giá cho mấy, dường như tới đấy thì cụ Thượng hết tiền.
Dinh xây xong, người đến ở lại là một người con gái gầy như con cá khô, bụng chửa vượt mặt, suốt ngày ru rú trong buồng. Chỉ có ông chồng trẻ măng chịu khó đi thăm xóm làng cho người ta trông thấy, được gọi là ông Hậu vì đang học trường Hậu bổ ở Huế. Chẳng bao lâu dân làng đã dò ra tung tích của cặp nọ: cô Tôn Nữ Tuyết Trinh, con đầu lòng cụ Thượng chửa hoang với một anh lính lệ, đã được ông Hậu Đỉnh cưới làm vợ với ấp Linh Lâm làm của hồi môn. Có lẽ vì cố phá thai nhiều lần nên bà Tuyết Trinh đẻ ra cô Tôn Nữ Ung Huyền Tâm quanh năm ốm đau quặt quẹo, nói một câu lại điểm một tiếng thở dài.
Tuy vậy, ruộng ông Hường ăn nước đập vẫn tốt đều, vườn chè hằng năm vẫn đưa về xuôi hàng trăm sọt chè khô, dân tá điền ở dồn trong xóm ấp vẫn nộp tô và phục dịch cho dinh quan huyện rồi dinh quan phủ. Cụ Thượng về hưu vẫn chăm lo đường hoạn lộ cho con rể, dù ông này đã lén lấy vợ hai và vợ ba. So với đồn điền La-phạt bên kia sông, giang sơn ông phủ Đỉnh rất ít lên voi xuống chó.
Tiếp tới nhóm thứ ba, dường như nắm tiền nhiều hơn quyền, thật ra hai mặt đều vững ngang nhau. Ấy là nhóm các chú, những nhà buôn người Tàu trong đó đứng đầu là ông Xâm Tô, trong sổ đinh ghi là Thái Tam Đa. Ông này đã ngoài sáu mươi, ngày đêm nằm bên bàn đèn thuốc phiện, mỗi tháng chỉ vài lần ra khỏi nhà để đi lễ chùa. Ở nơi hốc núi này, chỉ với một cái bàn tính gỗ lên nước bóng và một cuốn sổ con, ông nắm được và điều khiển được giá quế từ các làng Thượng trên cao tít cho đến các cảng biển Đà Nẵng, Hội An. Ông có họ hàng ở tận Hải Phòng, Sài Gòn, Hương Cảng, Tân-gia-ba. Trừ những món lãi lặt vặt, không ai dám qua mặt ông Xâm Tô khi thương lượng những mối buôn lớn nếu không muốn ông chơi lại một đòn quỷ quái cho sạt nghiệp. Các lái buôn người Tàu thần phục ông đã đành, lái người Việt rủa ông nhưng đều chịu thua ông. Ngay chủ đồn điền La-phạt hay quan phủ Đỉnh cần mua bán gì cũng đến tận nhà nhờ ông làm môi giới mới khỏi bị hớ hênh.
Hạng thứ tư trong làng là gia đình ông Cửu Áng hay Xã Áng. Đó là một người mập lùn trạc ngoại tứ tuần, hai gò má chảy xệ, chừa râu mép quặp, có thể gọi là người vui tính nhất làng. Với bất cứ ai ông ta cũng có câu chà pha đùa bỡn và tự mình cười hi hi trước. Đầu làng cuối xóm chỗ nào ông cũng đi tới, can một đám chồng đánh vợ, dắt ông lão say về nhà, xua con trâu thả rông ăn lúa. Mỗi tháng ông chỉ ăn cơm nhà chừng mươi hôm, luôn luôn có nhà nào đó mời ông đến “uống nước” theo lối nói nhũn nhặn ở đây. Nếu không phải quan hôn tang tế thì cũng là cuộc nhậu mừng “đi mọi” về bình yên hay xẻ thịt con heo rừng mới mắc bẫy kẹp. Ông càng uống càng pha trò đậm đà cho vui bữa tiệc, ra về còn nhớ chắp tay vái trước bàn thờ nhà chủ. Người ta mời ông lý trưởng và mời được luôn ông khách dễ dãi và tươi tỉnh. Ông chỉ cầm roi mây hay tay thước khi có quan trên về làng thúc thuế, bắt sưu, miệng hò hét mà con mắt nheo nheo bảo rằng mình chỉ đóng tuồng vậy thôi.
Ông nội Cửu Áng bị nghĩa binh cụ Hường Hiệu đâm chết khi đang làm chánh tổng, theo Nguyễn Thân chống quân Cần vương. Cha Cửu Áng thua bạc, tiêu lạm của công, bị dân kiện đi tù và mất triện đồng lý trưởng. Ông Cửu suy ngẫm sự đời, thấy ở nơi sơn cùng thủy tận này không thể thi thố quyền uy như dưới xuôi, phải biết nhu nhiều hơn cương, giáo nhiều hơn trị. Ông biết đóng đủ các vai: ông chúa làng bản xứ khi gặp chủ đồn điền La-phạt, viên lý trưởng khúm núm khi sang ấp quan phủ, một tay thương lái lõi đời khi thăm ông Xâm Tô bên bàn đèn, và ông xã vô cùng bình dâu hồ hởi khi dạo quanh làng.
Một việc bất ngờ đối với các cụ trong làng xảy ra sau đảo chính Nhật: đích thân ông Cửu Áng đứng lên mời anh Ba Mít nổi tiếng ngang bướng làm xã thủ lãnh thanh niên, một chức mới đặt ra khi vua Bảo Đại tuyên bố “dân vi quý”. Tiếp tới hôm làng họp bàn việc tế Xuân, ông Cửu lại lễ phép thưa làng rằng ông hương kiểm nghiện nặng khó lo bề trị an, xin mời ông Chanh, chính danh là ông Tư Chua, ra gánh vác việc làng giúp cho bà con ta an cư lạc nghiệp. Cả hội đồng ngũ hương cùng các cụ lão làng trố mắt nhìn ông Cửu. Ai cũng biết Tư Chua thợ rèn là kẻ chửi bới hương lý quanh năm, lại có con đầu là Cả Chanh, chánh trị phạm bị tù rất lâu không biết sống hay chết. Không ai dám mở miệng cãi ông Cửu. Người ta sợ ông thì ít mà sợ mắc vạ miệng với cha con Tư Chua là phần nhiều.
Làng Linh Lâm hôm nay vào đám tế Xuân.
Cứ như những năm phồn thịnh xưa kia thì các cụ bày vẽ ra tới ba đám. Tế đình là tế ông thành hoàng tược sắc phong làm thần. Tế miếu là quải cụ tiền hiền có công quy dân lập ấp. Còn một lần nữa tế âm hồn cô hồn ở miếu âm cô ở ngay gần đấy nhằm tránh mọi sự quấy nhiễu. Riêng số người Tàu còn lập riêng một cái chùa con con của họ, gọi là chùa Tiều, cúng vái vào mùa Xuân cũng chẳng ít.
Năm nay gặp thời hoạn lạc, dân làng cùng cánh thanh niên ồn ào đòi cải lương hương tục, các cụ đành chịu làm chung ba cuộc lễ vào một ngày. Các bài văn tế được chép lại bằng chữ quốc ngữ, ông chủ xướng bỏ bớt đi nhiều đoạn hưng, bái, bình thân, phục vị các cụ chánh tế bồi tế đỡ mỏi gối đều bằng lòng. Tế đình xong sang ngay miếu tiền hiền, sau đó đồng dân hội ẩm tận xế chiều, khi cúng âm cô thì số đông đã nói líu lưỡi và đi xiêu vẹo, rượu lậu xứ núi Linh Lâm vốn quật voi cũng ngã.
Ông thợ rèn Tư Chua đến chiều đã ngà ngà nhưng vẫn tề chỉnh.
Nhậm chức hương kiểm, cai quản mấy chục tuần đinh, ông sửng sốt mất một buổi rồi thấy đắc ý. Bọn người chiếu trên đã chịu nể mặt ông. Lão Cửu Áng chuyên cười cợt kia phải đến nói khó trước với ông để ông khỏi từ chối. Ngày xưa chạy tiền mua chức nhiêu quèn cũng bay đi vài ba sào ruộng, nay ông nhảy vào hội đồng ngũ hương có thực quyền trong tay mà chẳng khao làng xu nào, Cửu Áng còn túm tay ông ông kéo lên chiếu nhì trong cuộc hương ẩm.
Ông mặc áo dài đen, đội cái khăn đóng mượn trong xóm chợ, thắt ngang lưng dải khăn điều, mặc quần trắng cháo lòng - lệ thường mượn áo chứ không ai mượn quần - đi đôi guốc mộc hằng ngày chỉ dùng để rửa chân trước khi ngủ. Ông định cầm lưỡi mác cho oai, sau thấy không hợp với ngày tế lễ lại gửi vào nhà quen cạnh đình, đổi cầm sợi roi cày mà ông chặt cụt bớt đi cho giống con roi ngựa.
Miếu âm cô lập ngay ở góc vườn đình, đỡ phải đi xa. Dân làng đánh chén no say đã về nhà gần hết; ông Tư chẳng cần hò hét giữ trật tự như buổi sáng. Ông vung vẩy cây roi đi qua lại sân đình cho mọi người tha hồ ngắm và nhớ từ nay phải thưa gửi với ông Hương Chanh chứ không được gọi xách mé là lão Tư rèn như trước.
Miếu xây chật, phần lớn các cụ đứng ngoài vái vào. Anh tư chúc viên đậu bằng sơ học yếu lược, dốt chữ nho, vẫn đọc được bài văn tế viết chữ quốc ngữ bằng giọng thống thiết và lè nhè của thầy cúng:
... “Sĩ nông đẳng lưu, công thương các nghệ
Du đãng chi đồ, huê nương chi kỹ,
Năng u năng minh, viết thần viết quỷ,
Hoặc đọa sơn lâm, hoặc trầm lưu thủy
Hoặc ngộ xà thương, hoặc phùng hổ tỷ...
Ông Tư gật gù. Tay trai trẻ này đọc khá hơn các ông lão biết chữ nho nhưng đã lòa mắt run giọng. Chỉ ngại là các âm hồn cô hồn chết từ xưa không được học chữ quốc ngữ, sau khi đốt văn tế e rằng đọc không ra..
... Hoặc trầm thuyền thất phách thăng, hoặc tử lộ tam hồn phản vị,
Hoặc phùng lôi đả vị đào, hoặc bị hỏa thiêu nan tị,
Hoặc sản nạn nhi chung thân, hoặc ôn hoàng nhi yểu thế...
(Lược dịch:...Làm các nghề học trò, cày ruộng, thợ thuyền, buôn bán; là trộm cướp, gái điếm; ở chỗ tối hoặc nơi sáng, kẻ gọi là thần người bảo là quỷ: bị đày rừng núi hoặc chết đuối giữa dòng; bị rắn hoặc cọp vồ; chìm thuyền mất bảy vía hoặc chết đường mất ba hồn; gặp sét đánh không trốn được hoặc bị lửa cháy khó tránh; chết khi đẻ khó hoặc bị bệnh dịch chết non.)
Thấy chung quanh yên ắng, ông Tư dừng lại bên gốc cây đa to, trầm ngâm nghe tiếp bài văn mà ông hiểu lõm bõm. Ông chưa già mấy, mới 45 tuổi thôi, mà đã thực mục sở thị biết bao nhiêu cuộc đời chết oan chết ức. Bấy nhiêu mâm xôi thịt cúng sao cho đủ, phải làm như người ngoài Bắc Kỳ đổ cháo trên lá đa thì mỗi âm cô mới được một miếng thơm thảo...
Hóa xong văn tế là lễ tất. Anh tư chúc tươi tỉnh bước ra, khom lưng xoa tay trước mặt ông Tư:
- Dạ, để xin mời bác Hương..
Ông giật mình, trịnh trọng trong đầu:
- Phải.
Ông đĩnh đạc đi thẳng lên chiếu nhì, không đợi Cửu Áng kéo tay như hồi trưa. Ông đã nhập vai hương kiểm ở cái làng ven núi lắm vụ xô xát và voi cọp này. Như lời Cửu Áng đến nhà nói riêng với ông, trong thời buổi nhiễu nhương loạn lạc, phi tay ông thì chẳng còn ai đủ sức vỗ yên dân chúng, nghe cứ mát rượi lỗ tai.
Tan cuộc rượu chiều thì mặt trời đã lặn. Dãy núi ông Tượng bên kia sông đổ bóng sang làm mặt đất sẫm đen, trong khi nền trời và những mảng mây trắng trên cao vẫn còn sáng rực, soi đường cho bày chim muộn bay hối hả về núi. Ngang tầm ngọn cây trỏ xuống, chim đớp muỗi kéo đến mỗi lúc một đông, chao qua lách lại, đuổi theo làn mây muỗi đang bị ánh đuốc hút tới chỗ sân đình. Từ truông Dơi đã bay ra những con dơi kếch xù nhào lộn trên cao hơn, trông hệt những lá bàng khô cuốn trong gió xoáy. Tiếng voi thi rống vẳng đến từ rừng chuối dại trải rộng trên đường lên làng Blam của người Thượng, báo hiệu có thể động rừng sớm hơn mọi năm.
Lửa đuốc từ các ngả kéo tới sân đình mỗi lúc một nhiều. Người nhà quen lệ đi đón các ông chức dịch sau mỗi dịp tế tự, nhất là ở nơi xứ núi càng phải tránh đi đêm mà thiếu giáo mác đèn đuốc. Lứa con trai choai choai hay tranh làm việc này: chưa đến tuổi ra ngồi mâm nơi đình miếu, chúng đi dìu cha hay ông say rượu khật khưỡng về, nhặt những thứ khăn và guốc thường bị bỏ quên, nhất là nhận gói xôi thịt bánh trái chia phần mà chúng ngóng chờ từ trưa.
Ông Tư bước ra sân, nhìn quanh mãi không thấy thằng Bòng nhà ông cầm đuốc tới đón. Ngại mình say hoa mắt, ông gọi to:
- Thằng Bòng đâu? Ớ Bòng! Đứa nào thấy thằng Bòng nhà tao không?
Không đứa nào thấy cả. Từng cặp hay từng cụm người rời sân đình theo bó đuốc sặt cháy phừng phừng dẫn đầu, hắt xuống mặt đường những bóng đen nghiêng ngả. Vài anh tráng đinh không ai đón hú gọi kẻ đi trước chờ mình, tất tưởi đuổi theo với cái áo đen vắt vai và đôi guốc cầm tay, thả rơi lại một tiếng chào ông Hương gọi là có.
Dù hơi men bốc ngùn ngụt lên mặt, ông Tư vẫn nhớ rằng ông là người duy nhất trong số dân xóm Mới được dự phần chấp sự và ăn cỗ chiều, bây giờ ắt sẽ về một mình. Đường từ đình làng về xóm Mới lại hay gặp rắn hổ mun, tinh mắt đến mấy cũng khó thấy chúng nó trong đêm mồng một này. Ông lầm bầm chửi thằng con một câu, rẽ sang căn nhà rách gần đình, nơi ông gửi cây mác sáng nay. Tuy uống khá nhiều nhưng ông không quên một thứ gì mang theo.
Anh chủ nhà là tá điền của của nhà giàu trong chợ, cũng là chân tuần đinh, lại thường đến đặt ông rèn lưỡi rìu và rựa đi “đổi mọi”. Anh ta sốt rét không ra đình, lúc này đã cất cơn, ngồi gọt cây cán rựa bằng khúc cau rừng bên đĩa đèn dầu lai. Thấy ông đưa trả cây roi cày chặt cụt, anh ta xẵng giọng:
- Sao không để roi dài mà quất cho sướng, ông hương kiểm?
Lòi lẽ có vẻ ngọt, nhưng cái giọng xách mé ấy không lẫn được, ông Tư cười xuê xoa:
- Mai kia tao đền vài chục cây. Cho xin khúc đuốc về đường đây, Chín!
- Tôi nằm run miết, lấy ai đi chặt sặt bó đuốc!
Ông Tư chưng hửng. Thằng này mọi hôm vẫn chú cháu với ông, nay bỗng trở chứng lạ không. Ông gắt anh chàng bằng giọng người lớn trong nhà, bởi chưa quen nạt nộ như đám hương chức:
- Làm trò gì vậy Chín? Mày tiếc khúc đuốc với chú Tư à?
Anh kia bật cười, buông đoạn cán rựa gọt dở xuống, đi ra hiên sau. Ở đây mọi nhà đều trữ hàng ôm những cây đuốc dài khô nỏ, treo dọc dưới mái đằng sau, cũng cần thiết như cái đồng la và cây giáo sắc trong những đêm chộn rộn. Anh đưa cây đuốc, vẫn cười:
- Thổi bễ cho chú rèn, nghe chú rủa miết mấy cha lý dịch trong làng, cháu học thói bướng của chú chớ của ai! Nghe nói chú nhảy lên chiếu trên, tụi này hẹn với nhau: hễ còn chú Tư lò rèn thì còn lui tới, hễ phách lối thì rào đường rấp ngõ luôn. Chú tính sao đó mặc lòng!
- Cha chả, tao đã hóa hùm đâu mà bay chĩa mác! Để lần khác tao nói bay hiểu, khuya rồi, về đã.
Ông hạ thấp cây đuốc bước ra khỏi nhà, cơn đắc ý cũng như cơn say đều tan mất một nửa.
Lát sau ông về đến ngõ. Con chó Đồ nhận ra ông từ xa đã đón sẵn ngoài đường, rít khẽ trong họng và nhảy dựng lên vài cái, chào chủ theo kiểu chó săn nòi không bao giờ liếm chân và sủa nhảm. Ông giụi đuốc bên ngõ cho tàn lửa khỏi bay vào lá khô rơm nỏ trong vườn, đi thuộc đường qua hết vườn, vào sân.
Trong nhà đèn đĩa thắp sáng, bếp đỏ lửa. Nhiều người đứng ngồi lố nhố. Một người ngồi trên giường đang kể câu chuyện gì đấy bằng giọng tỉnh khác, chung quanh bật cười rộ.
Ông bước lên thềm, dựng cây mác và hỏi đột ngột:
- Rèn thứ gì gấp hay sao mà...
Tiếng nói tắc trong cổ. Người kể chuyện vừa đứng vọt dậy, gọi lắp bắp:
- Cha!
Ông hớp một hơi, ho mạnh một tiếng mới kêu được:
- Ôi, thằng Chanh... Mày về đó hả con?
Đôi guốc và cái khăn đóng xỏ vào bắp tay rơi xuống đất. Ông run rẩy chụp lấy hai vai Cả Chanh, lắc mạnh, lại nắn bóp hai bắp tay Chanh, nói hổn hển:
- Lạy trời, nó còn đây... Cha cứ sợ mày tiêu rồi, tù đày sao mà không đánh về được một chữ vậy con... ừ mà nó còn nguyên, không sứt mẻ gì....
Rồi chợt nhận thấy mình mủi lòng quá, ông bật một tiếng “è hèm” thật to, khoát tay:
- Ngồi, mời bà con ngồi xuống, ôi chao, thằng Cam nữa à? Sao cứ chỗ tối núp miết vậy con? Nhà mình về đủ hết rồi đó bà. Ông khách nào đây? Cơm nước chưa? À mà có gói xôi đem về cho sắp nhỏ...
Các con ông nói nhiều, cười nhiều. Ông chỉ nghe loáng thoáng trong khi mải ngắm Cả Chanh. Nó giống ông nhất nhà với cái trán cao, đôi mày nét mác, cặp mắt hơi xếch, cái cằm nẻ đôi, đến vóc người cũng từa tựa như ông. Nó là đứa con đầu lòng nết na, thông minh mà ông đã chắt bóp cho ăn học hơn ba năm chữ nghĩa trước khi học nghề sửa máy. Ông gửi gắm tất cả hy vọng vào nó, chẳng ngờ nó phụ lòng ông, theo chúng bạn làm hội kín đến nỗi chịu tù đày. Gì thì gì, nó vẫn là đứa ông thương nhất.
Chú thích:
[1] Bến sông có xóm làng.
[2] Do mê tín, người đi rừng núi mắc bệnh sốt vàng da kéo dài thường cho là mình bị dân Thượng bỏ ngải (như bùa, ếm) phải thuê thầy cúug xả ngải (giải bùa, ếm)
[3] Ông Nguyễn Duy Hiệu cùng các ông Phan Bá Phiến, Nguyễn Thành đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Cần vương tại Quảng Nam năm 1885, lập nghĩa hội, xây dựng nghĩa binh, đặt Tân tỉnh ở tổng Trung Lộc huyện Quế Sơn, chiến đấu rất oanh liệt, đến 1888 mới tan rã.