- 10 -
Ở Hà Nội được nửa tháng, Mỹ Duyên lần đầu phải lo nghĩ.
Một cô bạn ở gần nhà viết thư cho Duyên, nhờ người đưa tận tay, báo tin ông phủ Đỉnh ra Đà Nẵng truy hỏi con Sen một trận hết vía, dọa đưa nó đi tù nếu nó còn giấu những vụ lăng nhăng của cô chủ. Lần này thoát nhưng khiếp đảm, muốn thôi việc. Ông phủ còn dùng thế quan quyền buộc chủ nhà sửa gấp căn nhà thuê cho Duyên, nay sắp xong. Rất có thể ông đã gửi thư vào Sài Gòn hỏi bà má và cô em ruột của Duyên xem người vợ lẽ ngổ ngáo có vào thăm họ thật không.
Đợi Hai Khánh xem thư xong, Mỹ Duyên cười khẩy.
- Vậy là anh chưa bị nghi. May cho anh đó. Em đang trù tính giúp anh làm đảo chánh!
Khánh giương mắt dò hỏi, Mỹ Duyên rót xong nước sôi vào hai cái phin cà phê, đặt thìa và đường xong mới nói rành rọt:
- Em tính đưa anh lên làm chủ một trăm mẫu ruộng vườn ở Linh Lâm. Bấy nhiêu còn ít, về sau sẽ mở thêm, đất lu bù...
Dù ngạc nhiên đến mấy, Khánh vẫn quen giữ vẻ điềm tĩnh rất Ăng-lê, đợi Duyên nói hết. Và anh sửng sốt thật sự khi Duyên vạch ra cả một kế hoạch lớn, lâu dài, đã được trù liệu đến từng chi tiết vụn vặt nhất. Tất cả đều nảy sinh trong đầu và nói ra từ miệng một cô gái nhảy chuyển sang gái bao.
- Không có đồng tiền trong tay thì thời buổi nào cũng chỉ ngang hàng con Ki-ki. Anh biết đó, ba em mới nằm xuống người đã từ hôn chị Phượng, đến nỗi chị phải nhảy sông lặn đủ ba ngày. Má em bán hàng xén thua lỗ, em đang học trường đầm phải bỏ đi học nhảy đầm, từ Sài Gòn nhảy ra thấu Tu-ran, vui ghê đi... Bây giờ tới anh. Hăm hai tuổi đầu, sống nhờ đôi chút tiền lời của tiệm buôn Lợi Thịnh, học ngốn hết luật tây đến luật ta, nay coi bộ phải dở dang... Chịu khó nghe hết nghen. Biết anh là người hùng kiểu Lê Văn Trương, nhưng anh không thể sống bằng nước lạnh và không khí. Lúc này anh đang thất bại, nhưng có thể chuyển bại thành thắng. Thiệt chớ. Cứ yên chí lớn là con Duyên nó thạo xoay tiền hơn anh, nó nắm chắc việc gia đình phủ Đỉnh hơn anh trăm lần!
Mỹ Duyên đang hăng, má ửng hồng và mắt long lanh, trông đẹp hẳn ra. Khánh dán mắt vào cặp môi lúc này không tô son mà vẫn đỏ chót, nghe chăm chú.
- Lão phủ mới bốn mươi sáu mà không có con được nữa, thứ bệnh tim la chữa vụng trộm nó vậy. Lão xài sâm nhung với yến sào nhiều quá mới cần đàn bà đó thôi. Bà Cả tới năm mươi rồi, cô Huyền Tâm như lá cải úa vẫn ế chồng, mà có lấy chồng cũng chẳng được xơ múi gì, ruộng vườn Linh Lâm đứng tên lão phủ hết. Văn tự ký vào đúng ngày cưới, anh thấy lão khôn không? Mấy năm gần đây mẹ con bà Cả thì thào với nhau những sự báo ân báo oán, lập bàn thờ Phật, còn tính chuyện cạo đầu đi tu nữa. Lão phủ khuyên họ cứ tu tại gia để trông coi trại ấp ít lâu nữa, sẽ xây riêng cái am cho hai mẹ con tu chung ở đâu tùy ý. Tới đó lão sẽ mở rộng ấp qua bên kia sông, chiếm lần lần hết đồn điền La-phạt...
Khánh bật kêu lên:
- Em về Linh Lâm bao giờ mà sành sỏi thế?
- Lão cho em xem bản đồ. Lão còn khoe bây giờ hết sạch quan chức Tây rồi, thằng chủ La-phạt chỉ mong sống sót là may, quân Nhật lo đánh nhau, quyền hành về tay Nam triều hết. Có thể lão lên Án sát Quảng Nam đó. Nếu em thiệt ngoan, chí thú giúp lão làm giàu, em sẽ là bà Án... à quên, cô Án, cai quản đồn điền quan Án Đỉnh. Bảnh chưa? Vinh hoa phú quý chưa?
Khánh cười xòa, nhấp xong ngụm cà-phê mới giở cái giọng trêu chọc hàng ngày:
- Dì Ba được lên cô Án thì dính dáng gì tới thằng con riêng của bà Lợi Thịnh?
- Dính vô vàn. Dính suốt đời. Lặng im mà nghe dì Ba giảng cho đường đi nước bước... Em nằm khuyên nhủ lão mấy đêm liền. Trại ấp của lão nằm ở chỗ cùng trời cuối đất, già gan thì giàu tấy lên, non gan thì sập tiệm chẳng mấy hồi. Đàn bà con gái như em, giỏi lắm chỉ làm được cái vai ghi sổ sách, giữ tay hòm chìa khóa cho lão, chớ bước ra khỏi nhà là thiên hạ bóp mũi luôn, chết không kịp trối vái. Cai quản cơ đồ của lão phải kiếm được người cao tay ấn kia. Đợi khi lão thiệt bí em mới nhắc tên anh. Anh giỏi luật, nói làu làu tiếng Pháp tiếng Anh, cưỡi ngựa bắn súng như tài tử xi-nê, biết nói ngọt mà cũng biết quất roi gân bò... Lão ngần ngừ lâu rồi mới nhận anh là bậc nhứt. Chỉ sợ anh đang cố giựt cái bằng cử nhân luật, không chịu về Linh Lâm. Sau đó lão phàn nàn rằng anh ít ưa lão, anh coi lão như khách lạ. Đúng vậy không anh?
- Đúng trăm lẻ một phần trăm!
- Anh dại! Anh chịu khó mềm dẻo một chút, hai đứa mình sẽ làm chủ ấp Linh Lâm, đồn điền Linh Lâm.
- Làm cai cu-li chứ chủ quái gì!
- Nơi rừng núi có thể xảy ra vô số tai nạn chết người!
Khánh cảm thấy một luồng nước đá chảy nhanh từ gáy xuống dọc xương sống. Anh nhấc ly cà-phê lên tợp một ngụm to, thấy nóng ran trong họng và ngực. Mỹ Duyên đã rót rượu rom vào cà-phê lúc nào chẳng biết, rất đậm. Đôi mắt lóng lánh đang nhìn anh như thôi miên. Anh lại uống, ngoảnh mặt đi tránh cái nhìn thách thức ấy.
- Sao, anh dám không?
Đầu Khánh xoay xoay mỗi lúc một nhanh. Những ý nghĩ lộn xộn cứ bước tới và giật lùi như sóng biển vào bờ, nhưng nước thủy triều là Mỹ Duyên tràn mãi vào anh không ngừng, anh sắp bị chìm ngập rồi, anh khó cưỡng nổi...
- Nếu lão phủ biết điều, chúng ta có thể sống tay ba được. Trong cái nội các ở Linh Lâm, anh sẽ làm thủ tướng, lão phủ làm ngoại giao, em nắm bộ tài chánh. Chúng ta sẽ giữ thể diện cho lão, chi tiền và kiếm gái thoải mái cho lão, với điều kiện lão không được mưu mô đảo chánh hai đứa mình.... Anh sẽ là ông chủ đồn điền tân tiến như trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Một ông chủ biết lái xe hơi và nhảy đầm, biết giá cả hàng hóa trên thế giới, biết điều khiển hàng trăm hàng ngàn phu phen mà cũng biết mua máy, mở xưởng, lập công ty, biết ra oai cho người sợ mà cũng khéo làm phước cho người yêu. Thằng Tây La-phạt nó nhìn xa trông rộng hơn lão phủ nhiều lắm, không bị Nhật đánh thì trước sau nó cũng nuốt sống trại ấp của lão thôi. Bây giờ cả ngàn mẫu đất đồn điền coi như vô chủ, ta không nhảy gấp vô là bỏ lỡ cơ hội làm giàu. Để ít lâu nữa, một thằng đảng phái thân Nhật nào đó ném ra mươi lạng vàng đút lót, lập một công ty ma trơi để cung cấp hàng cho quân đội Thiên hoàng, vậy là chúng mình lại y nguyên như cũ là thằng học trò kiết và cô gái nhảy! Anh học đến ho lao ho tổn, chi bàng ra sức làm giàu rồi vất một ít tiền lẻ mua cái bằng, gì chứ bằng cử nhân luật thì quá dễ! Sau đó anh đừng hám thứ tri huyện tri phủ già nua lẩm cẩm, cũng chớ có theo nghề công chức ba cọc ba đồng. Anh làm nhà kinh doanh kiêm chánh khách, dân biểu hay là hội đồng kinh tế, mặc sức mà lựa chọn...
Điện trong gian buồng nhỏ bỗng tắt phụt. Ngoài cửa sổ điện đường cũng tắt, nhưng xa hơn phía ga Hàng Cỏ vẫn sáng đèn và không có còi báo động, chắc chỉ hỏng một đoạn đường dây.
Bóng tối giúp Khánh thoát khỏi đôi mắt sắc cứ chòng chọc như một mảnh chai bén gí mãi vào tinh mũi anh. Anh bước lại đẩy rộng thêm cửa sổ, hít mấy hơi gió đêm mát dịu, lại nín ngay khi bãi rác bên kia phả vào gió một luồng hơi nóng và hôi. Gian gác gỗ mười hai mét vuông này được giảm giá cũng vì bãi rác ấy, bà chủ còn cho mượn thêm một bàn và hai ghế dựa khập khiễng mà không tính tiền. Chỗ ngủ rất dễ, một chiếc chiếu trên nền nhà, đêm trải sáng cuốn.
Trong ngày đầu tiên ở Hà Nội, Mỹ Duyên đã đi chợ trời mua ngay một quạt bàn cũ, một chiếu đôi, một ít soong chảo bát đĩa để nấu thêm thức ăn phụ vào hai suất cơm trọ do bà chủ nấu, còn màn đôi và tấm ra đắp thì cô đã cẩn thận mang theo từ Đà Nẵng. Các gia đình khác thuê chung nhà đều là công tư chức hạng nghèo, họ vui thích khi chị Khánh lột ngay bộ cánh lộng lẫy hôm mới đến, cắp rổ đi chợ cùng các bà các chị trong bộ áo quần giản dị, mua gì cũng nhờ các bà mặc cả hộ. “Đàn bà trong Nam thế đấy, ra đường cứ như bà hoàng, thật ra cũng phải chắt bóp từng xu như ta ngoài này”. Khánh nghe lời đồn ấy chỉ bấm bụng cười thầm, không cải chính. Chỉ riêng anh biết tiền mua kem Véc-giê-nôn mà Duyên xoa quanh bụng mỗi tối cho tan mỡ, giữ eo, đã cao hơn lương tháng của ông ký có bộ râu ghi-đông ca-rê dưới nhà.
Mỹ Duyên đến bên cửa sổ, đối mặt với anh. Lặng im khá lâu cô mới tiếp:
- Chị Phượng em chết vì đàn ông. Em đã giúp chị trả thù ít nhứt một tá đàn ông. Em liếc nháy cười cợt cho họ mê mẩn, buộc họ quỳ gối dâng tiền cho em xài, xui người này nện người kia. Rốt lại em sa vô tay anh, em cần xin từng chút thương yêu xu lẻ của anh, em.. em biết ơn vì trong khi em ở Hà Nội anh không lui tới với cô thợ thêu ở phố Bờ Sông nữa... anh dành cho em hai tuần trăng mật như vợ chồng... vậy là hết cỡ rồi, em đi...
Trong đôi tay ghì chặt của Khánh, Mỹ Duyên vẫn quay mặt tránh môi anh.
Hôm sau, chị Khánh tươi tỉnh đi chào tất cả các gia đình trong nhà để về quê, che mặt xấu hổ khi các bà chúc cuối năm sinh con trai, không cò kè khi trả tiền cơm trọ tăng gấp rưỡi mỗi suất ăn và cả tiền điện nước tăng thêm vì một người thành hai. Bà chủ vốn có tính ăn cho buôn so.
Mãi đến khi sắp bước lên xe lửa, Mỹ Duyên mới nói thêm một điều cuối cùng:
- Em khuyên anh vất sạch đi những thứ luân thường đạo lý cổ lỗ đời xưa. Lão phủ với anh chẳng phải cha con, em với anh đùa nhau là dì con thôi. Hồi trước thái tử lên ngôi là xài ngon mấy ngàn cung tần mỹ nữ của vua cha, kể số gì đâu. Tạm biệt, cũng có thể là vĩnh biệt!
Khánh biến thành người không hồn sau cuộc chia tay. Hà Nội rỗng không. Bom đạn va cao xạ không đủ đánh thức anh. Những cô xanh đỏ lượn lờ chỉ là bóng ma. Trường Luật lui về quá khứ. Anh miễn cưỡng đi làm thông ngôn cho mấy anh bạn Việt Minh mua súng qua người trung gian là Ta-kê-đa, nhưng chỉ cặn kẽ mà chẳng còn đầu óc nào làm quân sư nữa.
Hà Nội đã đầy nghẹt những người chạy đói ra tỉnh ăn xin, ngày càng thêm những xác đen quắt gục chết ở các bãi chợ. Gạo lên mỗi ngày một giá, mọi thứ hàng đều nhong nhóng theo gạo mà lên. Sau khi hết hy vọng kén chồng cho cô con gái thứ hai, bà chủ ngọt ngào báo tin rằng tháng tới Khánh sẽ phải trả một trăm hai mươi đồng tiền cơm và tiền trọ, ấy là tính giá chỗ thân tình.
Khánh còn gắng gượng được thêm một tuần nữa với những anh bạn ăn ít nói nhiều, càng thất nghiệp càng tỏ ra bận rộn, cho đến khi phải ra chợ trời bán xe đạp để đủ tiền mua vé tàu về Quy Nhơn giá chợ đen.
Việc mua súng vẫn tiếp tục với một cô thông ngôn mới, nói tiếng Nhật ấp úng như nhai kẹo cao-su. Ta-kê-đa dành chút quà cho Khánh: một khẩu súng ngắn 7 ly 65 với ba chục đạn thu của Pháp, kèm một bản “thân phận chứng thư” của hiến binh cấp để anh có quyền đem súng theo. Các bạn gói riêng cho anh một gói báo chí và tài liệu Việt Minh trong cái bao tải rách, lên tàu sẽ giấu vào một chỗ hơi xa người.
Ngoảnh mặt nhìn ra ngoài cửa sổ toa xe, Khánh còn phân vân chưa biết mình về quê để làm gì. Chạy đói, bám theo Mỹ Duyên, hoạt động Việt Minh, hay là giành lấy sản nghiệp của ông bố hờ? Có thể cả bốn việc cùng một lần?
Chuyến tàu ỳ ạch càng nhích vào gần Đà Nẵng, Khánh càng bị Mỹ Duyên ám ảnh ngày đêm. Một ngọn bút chì nào đó cứ tô đậm thêm mãi những đường nét của Duyên trong anh.
Một họa sĩ vẽ tranh tố nữ sẽ không bao giờ mượn Duyên làm mẫu. Mười hai bà mụ đã thi nhau nghịch ngợm khi nặn ra cô gái này: trên mặt và người cô tất cả đều mất cân đối, đều “quá một tí”. Tóc quá dài, mày quá rậm, trán quá dô, mắt quá to, mũi quá hếch, môi quá đỏ, miệng quá tròn, ngực quá nở, eo quá nhỏ, đùi quá dài, da quá trắng.. Bấy nhiêu thứ “quá” cộng lại làm nên sức cuốn hút lạ lùng của Duyên, ấy là chưa kể bộ óc thông minh đến mức tinh quái và rất nhiều kiểu ăn chơi tài hoa hết sức bất ngờ mà Duyên chỉ tung ra khi thật cao hứng. Yêu Duyên luôn luôn là khám phá, là xuôi thuyền trên con sông đầy thác ghềnh, khác vô cùng với những bà vợ hiền như con kênh phẳng lặng.
Khánh không thể hình dung ra mình là chồng Mỹ Duyên, bởi khó tưởng tượng được Duyên trong vai người vợ đảm đang chung thủy. Anh chỉ biết lúc này Mỹ Duyên đang yêu anh, sẵn sàng liều vì anh - cái liều ấy dữ dội gấp ngàn lần cô gái nhà lành dám trốn lén đi xem xi-nê với trai - và mỗi vòng bánh xe đang đưa anh về với vòng tay của nàng.
Khi tàu dừng ở ga Đà Nẵng, anh ngẩn người một lát rồi hối hả vác va li, xách bao tải tài liệu, đi vội ra ngoài ra, bỏ luôn đoạn đường vào tiếp Quy Nhơn tuy vé tàu phải mua gấp năm lần giá chính thức. Anh gọi xe kéo về thẳng nhà Duyên, chẳng cần biết có thể chạm trán lão phủ Đỉnh ở đấy hay không.
Hai mươi phút sau, Duyên đã nấc lên trên ngực Khánh:
- Em biết... anh phải về với em..
- Sao thế?
- Vì trên đời này không ai yêu anh bằng em cả.
Phát-xít Đức đầu hàng không điều kiện. Hồng quân chiếm đóng Bá-Linh. Hít-le chết! Phía chân trời Tây súng ngừng nổ.
Cả Chanh nhận được cái tin động trời ấy khi đi bộ ngược đường 56, ghé qua nhà một huyện ủy viên gần bến phà Huề Bình. Anh đọc vội tờ giấy đánh máy không dấu, một chỉ thị hỏa tốc của tỉnh ủy: các cấp phủ huyện, tổng, làng phải xây dựng rất gấp lực lượng võ trang và sẵn sàng đón lệnh khởi nghĩa toàn quốc cướp chính quyền. Ăn vội xong bữa tối, anh kéo Năm Chò và Cam đi luôn qua truông Dơi bước ngang những dấu chân cọp bằng cái bát in trên bờ khe, về lò rèn của cha theo đường tắt tránh xóm.
Trong đêm gặp lại ấy, cả nhà thi nhau hỏi và nói, chỉ trừ bà Tư quen nết không chen vào câu chuyện giữa đàn ông với nhau, chỉ nghe và thỉnh thoảng lau mắt sụt sịt. Vắng mặt Tư Quýt và Năm Bưởi đi rừng đốt than chưa về. Con Thanh Yên mới được hai năm ngủ say từ sớm.
Bởi tên là Chua, ông Tư đặt tên cho con bằng tất cả các thứ trái cây chua trên đời: Chanh, Quýt, Bưởi, Cam, Bòng, Thanh Yên là bốn trai hai gái còn sống, mất đi một trai hai gái là Bứa, Khế, Me bị yểu bệnh. Đặt tên xấu dễ nuôi, ai cũng thấy là phải, nhưng ông cố ý đặt những tên có thể giữ cả đời mà không cần sửa lại tên chữ.
Khi tính tới chuyện ăn ở trước mắt, ông Tư rất bốc:
- Không việc gì phải trốn núp. Tao dấu thằng Chanh với thằng Chò ra giữa đình làng, kêu hết lý hương lại cho họ bái phục tụi bay. Năm Chò đây, còn nhỏ xíu đã biết đánh nhào con Tây xô xuống sông, đáng mặt hảo hớn chưa? Còn Cả Chanh nhà tôi đây, người khác lo luồn cúi các quan, nó hy sanh vì đất nước ông bà, bây giờ lật đổ được Tây rồi, nước mình được Nhựt trả độc lập rồi, công trạng của nó to lắm lắm. Tao cứ vậy tao nói, tao vểnh râu cho mấy cha đó cụp mặt, hà hà hà..
Chanh bấm bụng cười thầm. Anh định căn vặn cha mấy việc: cho thằng Cam đi ở mướn tận Quy Nhơn, nhận làm hương kiểm dưới quyền Cửu Áng, thêm câu chuyện cha nói với cô Hai Thùy trách anh dại dột theo cộng sản. Nhưng thấy cha đang hồ hởi, anh chưa khui ra vội.
- Đó, bay cứ yên bụng, tao làm hương kiểm ở cái làng này, đố đứa nào dám qua mặt tao mà quấy rầy tụi bay!
- Vậy lính huyện nó lên trói luôn cả hương kiểm thì sao?
Ông Tư ngớ ra, rồi cãi lấy được:
- Trói tao, tao chống chớ! Giáo mác để chi?
- Một mình cha chống sao nổi?
- Tao la làng. Ai chớ bọn trai trẻ làng này chẳng vừa đâu. Nội bà con nghèo ở cái xóm Mới tứ chiếng đây, họ ấm ức lâu lắm rồi, lão Cửu Áng cố rước tao vô ngũ hương là để dỗ ngọt dân xóm Mới đó. Mai kia mày gặp thằng Ba Mít thử coi, nó ăn nói ngang như cua mà lên thủ lãnh thanh niên cái rốp!
Ông sa vào lý lẽ của con trai mà không biết. Người nghèo phải bênh vực nhau, muốn vậy phải bí mật gặp nhau, bàn mưu tính kế trước cho rập ràng. Khi thật mạnh rồi mới ra mặt, giáo mác ná tên chĩa ra như con nhím dựng lông, bọn người chiếu trên chẳng những cụp mặt mà còn sụp xuống lạy như rái giỗ cha mà sướng cái bụng!
Dân ngụ cư tứ chiếng đồn Linh Lâm làm ăn khi tất cả đất vỡ ruộng đã vào tay chủ Tây La-phạt, ấp phủ Đỉnh, các nhà giàu hoặc khá giả trong xóm Chợ. Họ chỉ còn một hướng để loang ra: ngược dòng sông Linh và các khe suối chảy vào sông Linh, bám nguồn nước để phát rẫy lấn mãi lên vùng núi Ngọc Linh hiểm trở. Người đến sau dựa vào đất người đến trước cho đỡ lạnh lưng nơi hẻo lánh, người đến trước rủ rê giúp đỡ người đến sau lập trại mới làm bình phong và có nơi nhờ cậy nhau khi tối lửa tắt đèn. Ông Tư nói đúng: đâu chứ ở xóm Mới này, dù ích kỷ đến mấy cũng phải châm đuốc cầm mác chạy tới khi nghe la làng, không thế thì về sau anh bị cọp vồ ngay trước mắt người ta cũng chẳng thèm động ngón tay cứu anh.
Trước kia ông Tư trồng trọt ngay chung quanh lò rèn cho dễ trông nom. Sau đất xấu dần, ông phải vỡ xa hơn, nhưng vẫn bám dòng suối gọi là khe Hội vì từ dương Hội chảy ra. Ở đây các đồi núi gần làng xóm đều gọi là dương, và cái tên dương Hội ghi lại cái tích ngày xưa dân làng cùng với nghĩa binh ông Hường Hiệu mở hội vây cọp ở đây, đâm chết một con hùm xám nghiện thịt người, nó chẳng nể quỷ thần đã nhường dải đất mạn Đông sông Linh cho người khai khẩn.
Năm ngoái ông Tư phát rẫy xa nhà chừng nửa cây số, năm nay trước lễ tế Xuân đã phát dọn lại rẫy cũ ấy. Cả Chanh quyết định sống trên rẫy, không ở nhà. Năm Chò chẳng cần giấu mặt, sẽ ra mắt đám lý hương và xin phép ở với ông Tư học nghề rèn. Trong làng không ai biết chuyện thằng Sáu Cam đi hoang vì lão phủ Đỉnh giấu biệt, chắc cũng sợ mang tiếng là đem trẻ con bỏ chợ, coi như êm.
Tờ mờ sáng, cả nhà ông Tư kéo nhau lên rẫy, gánh theo ba gánh tranh cắt phơi sẵn định lợp lại chuồng trâu. Chỉ trong một ngày, Cả Chanh đã có một chòi rẫy mới dựng sát bìa thay cho cái chòi cũ quá gần con đường mòn. Từ chỗ anh ở anh có thể trông thấy những ai băng qua rẫy đi tới chòi. Ông Tư rất khoái khi thấy anh tự buộc một bộ bàn ghế để ngồi viết bằng tre, mây và những cọc chôn xuống đất.
- Ờ, ờ, người có chữ ở nơi thảo lư cũng cứ ra người có chữ. Ai tới gặp họ phải nể mình, trượng mình.
Thấy Chanh băn khoăn tìm chỗ cất giấu tài liệu sao cho khỏi ướt và mối xông, ông nghĩ một lát, tức tốc chạy về nhà. Chẳng nói chẳng rằng, ông trút bừa cái thạp đựng đậu phụng ra giường, xách luôn cái nồi rang bằng đất và một chiếc quang bằng dây thép đang dùng để treo trã cá dưới mái nhà, đi vội ra rẫy.
- Đây, bay coi tao giấu các thứ giấy tờ hay nhứt thiên hạ. Hồi năm Ngọ, con Bưởi mới đi men, cộng sản dậy dữ lắm, quan lính đi soát nhà hốt hết cả gia phả, phủ chí, khế ruộng, còn xăm nát nhà tìm súng với cờ cộng sản. Người ta giấu vầy đây mới thoát.
Ông đi vào rừng mươi bước, chọn một cây rậm lá, úp cái nồi rang trên miệng thạp sành, đặt cả vào quang, leo lên treo vào cành cây, leo xuống nói oang oang:
- Lính nào leo cây soát xét hết rừng này, tao đi đầu xuống đất!
Ông chẳng cần biết con ông làm cộng sản, làm Việt Minh hay không, theo vua Bảo Đại hay theo ông lớn nào. Nó về với ông đây rồi, gầy yếu đi nhưng không đui què mẻ sứt, sửa được tới cái xe lửa to bằng đình mà lại học lắm chữ nghĩa đến nỗi dạy cả mớ học trò trong tù, như lời Năm Chò kể trong khi làm chòi. Nó về làng để cứu giúp dân lành khỏi bị những sự ép bức, ái chà chà! Được lại một đứa con như vậy, lính tráng nào chĩa súng vô nó thì ông phanh ngực ra đỡ đạn cho nó lập tức!
*
* *
Lắm kẻ chưa bao giờ thấy ma nhưng rất sợ ma. Cửu Áng chưa hề thấy một thứ gì của Việt Minh cộng sản nhưng đang trải qua những cơn sợ rợn gáy.
Dường như trong làng đang có nhiều thay đổi bí hiểm.
Quán mì Quảng bánh xèo của bà Hai sẵn rượu lậu ngon cứ ngày một vắng. Sòng xóc đĩa của trùm Bân xưa nay chia tiền hồ cho ông Cửu rất đều, nay đến báo đã dẹp hẳn vì ế ẩm, thu hồ không đủ dầu đèn, trà nước. Anh hương sư bỏ dạy đi buôn từ lâu bỗng tình nguyện mở lớp dạy đêm theo kiểu Hội Truyền bá quốc ngữ. Lại có những nhóm trai trẻ xúm chùm bàn thì thào, thấy ông cửu đến chợt ồn ào rủ nhau đi đánh cá sông. Ghé vào nhà nào đấy, thỉnh thoảng trẻ con trả lời rằng cha hay anh đi đâu chẳng biết. Một tốp tuần đinh kéo qua thưa rằng đi tuần, nhưng ông Cửu hút hết ba điếu thuốc nguyên lá to tướng vẫn không nghe chó sủa ở đâu cả, tuy trong làng nuôi rất nhiều chó.
Tình thế này, nếu có thứ gì phải giấu, ấy chỉ có thể là hội kín. Việt Minh chưa từng treo cờ rải giấy gì nhưng ông cảm thấy họ lẩn khuất đâu đây như bóng ma sau lưng ông. Ở nơi thâm sơn cùng cốc này, khi họ kéo dân nổi dậy thì lạy van nộp triện là thượng sách, đành chịu mất toi mấy sào ruộng đã bán để giật cái triện ấy về mình.
Ông đã bạo tay chơi liên tiếp hai con bài Ba Mít và Tư Chua. Đám dân ngụ cư tứ chiếng coi bộ bớt hằn học với ông sau khi có người của họ lọt vào hàng hương chức. Bây giờ phải chơi tiếp.
Tư Chua mỗi khi gặp ông thường hỏi Nhà nước đã bắt được Cả Chanh chưa, để biết nó còn không. Hỏi thật hay giả khó hiểu được, nhưng mỗi lần gặp Tư Chua ông lại xởi lởi mở chuyện trước.
Sáng nay cũng vậy, ông kéo Tư Chua vào nhà mình:
- Nghĩ mà phục hết cỡ đó ông Hương. Là tôi nói anh Cả nhà ông chớ ai. Giữa hồi quốc phá gia vong mà ảnh liều thân đi lo việc nước, làng mình chẳng có ai nuôi chí lớn tới vậy.
Ông mời chén trà điếu thuốc, xoa tay thì thào:
- Chưa có tin gì đâu, ông Hương. Coi như ảnh đang tung hoành ngoài vòng cương tỏa. Mai sau không biết chừng ảnh cầm quân về làng như ông Từ Hải, mặc sức tụi này lo bề rước xách! Tới đó ông nhớ tôi nghen, chỗ bạn già với nhau!
Cũng trong buổi sáng nay, Hai Khánh thả lỏng tay cương cho con ngựa đi bước một qua xóm Chợ. Anh chịu khó chào tất cả những người gặp dọc đường, riêng đối với các cụ già còn kèm một lần cúi rạp trên lưng ngựa.
Anh biết cả làng Linh Lâm này không ai ghét anh. Ghen anh tốt phước thì có, ghét hẳn thì không.
Từ khi ông Phủ Đỉnh thôi giấu vụ lấy vợ lẽ, anh thường về ấp nghỉ hè. Bà Tuyết Trinh với cô Huyền Tâm ốm yếu vừa gờm vừa lôi kéo anh, bởi anh có thể lên làm chủ ấp mà cũng - nếu Trời Phật xui khiến - có thể làm chồng cô Tâm bạc phận. Anh dửng dưng mọi sự, chỉ mải mê vác súng hơi đi bắn chim, bơi sông, phi ngựa, có hôm sang đồn điền La-phạt cùng đi săn thú lớn với cha con thằng Tây. Nhiều lần bà Cả nhờ anh đi coi gặt chia đôi vụ tháng Năm, anh dễ dãi để cho tá điền gánh tăng phần lúa tô rẽ về nhà họ mà không nhận lễ tạ riêng cho mình. Lang thang đi bắn, anh gặp những người lén đến những khu rừng đã khoanh vào ấp để đốn cây chặt củi, chỉ cười cười xua tay: “Của rừng núi mà, các ông bà cứ lấy”.
Nông dân ở đây thấy ông phủ hách dịch, bà phủ riết róng, riêng cậu Hai Khánh là biết thương dân nghèo. Khánh cứ của người phúc ta, chẳng vạ gì mà làm con ma xó cho một gia đình mà anh miễn cưỡng gọi bằng ba với mẹ dù không hề mang giọt máu nào chung với họ.
Chiều ý Mỹ Duyên, anh đã về Thăng Bình và gây cảm tình với phủ Đỉnh.
Quan phủ đang lúc hết sức bối rối. Một nhóm trí thức thân Nhật nhảy vào nội các Trần Trọng Kim đang cố lắp người của họ vào những chỗ then chốt của bộ máy Nam triều. Ở tỉnh Quảng Nam, số trí thức nửa mùa lựa gió phất cờ cũng cố ngoi lên, đòi thay tất cả các quan lại đã từng làm tay sai cho Pháp. Ngay trong phủ này đám nhãi nhép như hương sư, thầy lang, cai đội về hưu cũng rục rịch bàn nhau “đi khiêng ông phủ” trả cho tỉnh. Các chánh phó tổng, lý trưởng phó lý lên trình quan mà mặt mày thất sắc, báo toàn những sự Việt Minh treo cờ rải giấy, xui dân làm loạn, có nơi đánh trống họp làng để tuyên truyền “đánh Tây đuổi Nhựt”. Họ lạy van xin trả chức, ít nhất cũng xin trùm mền nằm im ít lâu. Quan phủ vừa dỗ vừa dọa mới giữ được họ nắm triện chờ thời. Toàn phủ lúc này chỉ có ba chục lính lệ với mười hai cây súng mút-cơ-tông và bốn chục đạn, đem bắn thử thì hai viên nổ một, còn kẻ cầm súng thì chỉ quen quạt hầu châm đóm, nghe đạn mình nổ cũng són đái trong quần. Lấy gì mà chống Việt Mình?
Phủ Đỉnh ngờ ngợ một buổi mới nhận ra Hai Khánh có vẻ trọng nể mình hơn trước, bớt lầm lì dè giữ. Sau đôi lượt hàn huyên, ông càng tin mình đoán đúng. Gã con trai này chịu xuống nước vì tắc mất hoạn lộ, mẹ nó không nuôi báo cô được mãi, nó đang cần dựa vào ông, mà ông cũng rất cần dùng nó làm cánh tay phải để mở con đường lui.
Đêm đến, ông đuổi lính hầu ra, gài chặt cửa, pha ấm trà sen, bày khay rượu Mai quế lộ dầm sâm và chùm nem chua, bàn việc nhà với Khánh:
- Ba thấy con về quê là phải, Hai à. Đang hồi sóng gió này, thầy trò ai lo phần nấy, bụng dạ nào mà dạy với học. Con nghỉ vài năm, tới khi thái bình thịnh trị con lại học tiếp, học luật mới, có thể là hiến pháp mới. Hễ ba chưa về hưu chắc cũng phải học lại hết, luật La-mã với Quy-giát[1], luật Hồng Đức với Gia Long của ba xưa quá rồi... Con về Qui Nhơn thăm mẹ với các em ít ngày cho vui. Nhưng mà ở hẳn Qui Nhơn thì không nên đâu con. Mẹ con buôn bán, có các em giúp là đủ, con chen chúc với đám thương nhơn đa trá chắc là chịu không nổi, uổng phí mất tài năng đi. Ba trù tính vầy, con nghe thử coi: con về trên ấp Linh Lâm giúp mẹ trông coi ruộng vườn một thời gian. Ba nhắm giữa hồi hỗn quan hỗn quân này, ta lấn qua đồn điền thằng La-phác-sơ được đó. Lâu nay ba mới thăm dò mà chưa nói gì với cụ Thượng, tại ba dính chân ở cái phủ chó ăn đá gà ăn muối này, không lên thu xếp tại chỗ được. Hễ con chịu ra tay thì ba chạy đủ giấy tờ, cũng lẹ làng thôi Hai à...
Khánh hơi rùng mình khi cảm thấy sức mạnh ghê gớm của Mỹ Duyên. Nàng đã nói trước tất cả những điều hôm nay ông phủ nói, dặn trước những câu mà Khánh phải đáp lại. Khánh sẽ làm ra vẻ do dự, sẽ cảm thấy khó xử trước mẹ con bà Cả, sẽ xin khất mấy hôm để suy nghĩ... “Bấy nhiêu cái đã, rồi anh ra đây bàn tiếp với em, lấy cớ đi vô Tam Kỳ thăm bạn. À, anh nên khuyên lão phủ đưa em về ở với lão nghe chưa. Lý do: dì Ba còn trẻ, ở một mình e rằng có kẻ dòm nom. Lời khuyên đến tai em, em sẽ lồng như ngựa chứng, nói rằng thằng Hai Khánh nó ỷ học cao, con này dù thân gái nhảy cũng vô bậc bà dì mà nó dám coi khinh, vân vân. Nhớ hết chưa đó?”
Sinh ra sớm vài thế kỷ, tiến vào cung vua, Mỹ Duyên rất có thể lên tới ngôi thái hậu buông rèm trị nước!
Mọi việc diễu ra gầu đúng y mưu mẹo của Duyên, chỉ khác một chút là đôi trai gái rời nhau không nổi. Khánh ở lỳ trong một phòng trọ kín đáo tại Đà Nẵng đến mươi ngày mới trở lại phủ đường của ông cha hờ, nhận việc.
Phủ Đỉnh hớn hở ra mặt. Ông bỏ hẳn một ngày đêm để cùng với Khánh nghiên cứu địa thế Linh Lâm trên tấm bản đồ lớn 1/20.000 của sở đạc điền Pháp, tự tay sửa những tên đất bị in sai, lập danh sách những ai cần mua chuộc, cần cô lập, cần trừng trị. Trong số đáng trừng trị có ông Tư Chua. Cả Chanh chính trị phạm thì gặp đâu bắt đó, thằng cộng sản gộc ấy nguy hiểm nhất. Nó là dân Trung kỳ, án tù của nó là do Nam triều phán quyết chứ không phải của chính quyền Bảo hộ cho nên còn giá trị, vì vượt ngục nó không được hưởng nghị định ân xá của nội các Trần Trọng Kim, tờ trát tróc nã nó vẫn dùng được.
Khánh nghĩ thầm: “Và nó cũng là người đầu tiên mà tôi phải bắt liên lạc tại huyện Tây Quảng”. Anh suýt bật cười, lại nín kịp, tự khen mình đóng kịch khá.
Sáng hôm san, phủ Đỉnh cho xe hơi của mình đưa cậu cử lên thẳng Linh Lâm. Lính vệ vác va-li anh xếp vào thùng xe, trong va-li có một gói to tài liệu Việt Minh và khẩu súng lục 7 ly 65 của Ta-kê-đa.
Khánh đã tự mình đưa súng ra cho ông phủ thấy. Ông hơi tái mặt, lại hồng hào nhanh sau khi xem tờ chứng thư của hiến binh Nhật viết tay đóng dấu: không đọc được chữ thảo hi-ra-ga-na của Nhật, nhưng phần chữ Hán chen vào đủ rõ nghĩa. Ông còn cố nheo mắt đọc chữ trên con dấu đỏ: Đại Nhật Bản, Nam phương quân, Hiến binh đội, Hà Nội. Vẻ kính phục của ông hiện rõ đến nỗi Khánh nhìn đi chỗ khác cho ông khỏi ngượng. Người giúp việc của ông quả là cao tay ấn, ngoặc ngay được với nhà cầm quyền mới!
Trong khi tài xế đổ cồn vào xe, ông giúi vào tay Khánh một phong bì to:
- Ba mới kiếm thêm được một ngàn nữa, con cầm mà tiêu... Ồ chào, khách khí gì vậy Hai! Thì coi như ba cho vay, về sau chắc con trả ba gấp mười. Hậu sanh khả úy mà!
Khánh nhét tiền vào túi mà áy náy thực sự. Đối với con người mập lùn và khá to bụng đứng trước mặt đang ngửa cổ nói chuyện với anh, Khánh bắt đầu thấy có chút gì đó như thương hại. Dù sao ông ta cũng tin mình, muốn được lòng mình. Với lại đã cắm sừng lên trán ông ta mà còn nhận liên tiếp hai ngần bạc, anh thấy mình... đểu đểu thế nào.
Mãi đến khi xe đã đi khỏi phủ đường khá xa, Khánh mới giật mình nhớ lại những câu chuyện của Duyên. Lại Duyên! Nàng dặn:
- Lão sẽ nói tình cảm với như để ruột ngoài da, sẽ trả giá đắt để mua anh. Sau đó lão cử tay chân rình mò anh từng chút, nếu anh phản thì kêu mật thám xích tay anh liền. Chưa hết đâu. Anh vào tù, lão sẽ vào xà-lim khóc sụt sịt thương anh, bước ra lão bấm khẽ tụi mật thám biểu tra điện anh thêm mươi lần nữa, sức anh còn chịu nổi!.
... Khánh đã cưỡi con Hường đi hết một vòng xóm Chợ, bến sông, đã chào đến trăm người là ít. Anh lưỡng lự một phút rồi rẽ cương sang xóm Mới.
Anh cán bộ Việt Minh ở Đà Nẵng dặn anh đừng tới nhà Cả Chanh trong vài ngày đầu, đừng để lộ ra là cố ý đi tìm. Anh viết lá thư giới thiệu bằng một thứ hóa chất không màu, trên tờ nhãn thuốc bọc quanh ve dầu Nhị thiên mà lúc này Khánh đang bỏ trong túi áo blu-dông.
Lò rèn ông Tư Chua vắng tanh. Con chó lao vào sủa dữ. Một bà chừng ngoài bốn mươi đang cuốc đất ngoài vườn hối hả bước vào, giật mình đứng sững khi thấy người cưỡi ngựa. Con chó không nghe chủ cất tiếng mắng, chồm đứng lên ngay, nhào tới chực cắn vào chân ngựa. Khánh vừa đạp chân nâng bước xuống vừa cười:
- Chắc đúng nòi chó săn... Bác không nhìn ra cháu à?
- Ai như cậu Hai Khánh hả? Tôi bây giờ mắt mũi lèm nhèm... Mời cậu vô chơi.
Giọng bà lạnh ngắt; mời mà như xua. Hỏi một câu bà trả lời đúng một câu, không hơn. Ông Tư đi việc làng. Mấy đứa đi chặt củi đốn than, cảm ơn cậu, nhà cũng thường thường.
Khánh biết không nên hỏi thêm, chào vội, nhảy lên ngựa trở về ấp. Có thể chính Cả Chanh sẽ được lệnh bắt liên lạc với anh, chứ anh cố tìm cũng vô ích.
Chú thích;
[1] Jacques Cujas, nhà luật học nổi tiếng của Pháp, thế kỷ 16