← Quay lại trang sách

- 11 -

Sau mươi ngày bận đốt rẫy, trỉa lúa, hầm than, ông Tư Chua lại nổi lửa rèn tiếp.

Không cần đến xem, dân xóm Mới cũng nhận ra đủ ba thứ tiếng búa. Búa đập choang choác lộn xộn là của người làng đến tự tay sửa một đồ dùng gì đấy bị hỏng nhẹ. Búa gõ đều và giòn là đám con cháu ông Tư làm nguội các loại hàng rèn xong. Tiếng búa quan trọng nhất của lò rèn nổi lên từng đợt gấp rút, nghe nặng và mềm như chày nện đất, ấy là khi thợ cả kẹp tấm sắt nung đỏ đặt trên đe lớn và hai thợ phụ lực lưỡng đánh búa to thật nhanh trước khi sắt nguội, phải vùi trong lò, thổi bễ phì phò năm bảy phút nữa cho dẻo lại.

Chín năm trước, ông Tư đưa vợ con lên Linh Lâm kiếm sống, bộ đồ rèn chở nặng một chuyến đò. Quê gốc ông ở vùng cát huyện Hòa Vang, người đánh cá và trồng khoai ít cần đồ sắt, khó làm ăn. Năm đầu ông lo phát rẫy, làm nhà, chỉ rèn qua loa những thứ rìu rựa cho lái buôn “đổi mọi”, chẳng kể xấu tốt. Đột ngột ông nổi tiếng khi tung ra bán những chiếc bẫy kẹp heo nai loại dưới mười ki-lô, chỉ hai chục đồng một chiếc. Vài nhà mua về dùng đầu tiên được lãi rất to, mỗi tháng ăn vài con thịt là thường, trong khi cha con ông Tư chỉ gài hai bẫy quanh nhà cũng được năm sáu con thú đến phá rẫy. Người ta ùn ùn đến mua kẹp heo, ở tận dưới Trà Linh, Dùi Chiêng cũng lặn ngòi ngoi nước lên đặt rèn và đợi lấy mang về.

Đến khi tất cả những giống nai, mang, heo rừng chồn cáo trong vùng đã biết và khiếp đôi hàm răng sắt của bẫy, ông Tư lại vang danh lần nữa khi bắt được con cọp đầu tiên bằng cái bẫy kẹp loại năm chục ký, chưa ai dám mua với giá bảy chục đồng tức là xấp xỉ hai mươi tạ gạo. Dân làng kéo đến xem con cọp, xem bẫy đều lè lưỡi: khiêng bẫy đi đặt phải hai người khỏe, ép được đôi cánh bật của nó xuống phải dùng hai cái ê-tô mua tiệm Tây tận ở Tu-ran. Thấy thiên hạ trầm trồ mãi mà chưa bỏ tiền ra. Ông Tư bốc máu chơi ngông. Được con cọp thứ hai, ông không nối giáo đâm chết ngay. Ông gọi đám trai trẻ đến, chặt nhiều cây tre dài đè chịt nó xuống, thả dây trói nó lại như bó giò, chừa cái miệng cho nó gầm gào thả sức, khiêng về để trước sân nhà mình suốt hai ngày đêm. Cả làng xách rượu và đồ nhậu đến, ôm theo cả trống, mở hội ngay ở lò rèn với rất nhiều già trẻ say rượu hát bội mần tuồng, trong khi bà Tư phải ẵm con đi ngủ nhờ xóm Chợ và tất cả chó trong xóm Mới trốn sạch chẳng còn con nào. Chơi chán ông mới giết và đem biếu mỗi nhà một chùm nem thịt cọp, khá ngon vì trúng con cọp cái tơ.

Rèn bán tới chiếc bẫy cọp thứ tư - trong làng chỉ bán được một chiếc cho phủ Đỉnh - thì gặp chiến tranh. Thép tốt lên giá gấp mấy chục lần, mà ông giữ tiếng không muốn làm hàng tồi, bèn thôi rèn bẫy. Tuy thế những người mua bẫy của ông vẫn thỉnh thoảng cho con xách tới biếu ông một tảng thịt kèm chai rượu lậu mỗi khi được thú rừng.

Ông thợ rèn tài hoa ấy lại là người dễ dãi. Khách từ xa đến còn phải ngã giá trước, chứ trong làng xóm cứ liều liệu chín bỏ làm mười, khất nợ đến mùa quế hay mùa lúa trả ông cũng xong. Sửa chữa vặt thì khỏi tốn tiền, về sau đi rừng đem về biếu bà Tư ít mật ong hay cho con ông mấy quả ổi, lấy cái tình là đủ. Ai cò kè bủn xỉn quá thì lần sau ông không giúp, vậy thôi.

Dần dà lò rèn ông Tư biến thành nơi họp xóm. Đình chùa có thể vắng, chứ lò rèn đã dậy tiếng búa thì tất cả đàn ông không quá bận đều thu góp những thứ sút cay gẫy cán trong nhà, giắt lưng túm chè ngon, chiết một chai con rượu nếu có sẵn, lần lượt kéo đến. Trên lò than luôn luôn treo sẵn cái ấm đồng to hưởng hơi lửa thừa, tiện ai người ấy pha chè cùng uống. Hôm nào không có thức nhắm mang đến, bà Tư sẽ moi trong cái bồ treo trên giàn bếp lấy ra mớ thịt sấy khô, ngon thì nai mang, xoàng cũng là thịt voi thái mỏng giần mềm. Ông Tư vừa rèn vừa góp chuyện. Đến khi nghỉ tay uống nước, ông ghé ngồi xổm bên cái nai đặt trên đất, cùng nhấm nháp với bà con vài chén. Không biết bao nhiêu câu chuyện trên trời dưới đất đã được kể giữa hai đợt đánh búa, trong tiếng bễ và lửa phùn phụt vui tai. Nếu ông bận rèn vật khác thì khách cứ xếp các thứ hư hỏng vào góc lò, xong việc chính ông sẽ sửa hộ và ném lại đấy, về sau đến chọn mà lấy.

Hôm nay ông không ngồi lò, mà giao cho anh Tư Quýt rèn. Ông gật đầu chào bà con kéo đến, lại chăm chú nhìn từng cử động của Quýt, thỉnh thoảng nhắc một câu cụt ngủn. Quýt đang dựng đứng một lưỡi rựa mới rèn thô xong, nung đỏ lại, dùng một cây đục thép kẹp vào cán ngang như cái rìu chẻ dọc rựa ra để lắp một tấm thép mỏng và hẹp bản, sau sẽ đập lại cho sắt ép ăn liền vào nhau. Rựa được rèn kiểu ấy rất khó gãy vì có hai má bằng sắt dẻo, khi mài lại bén như dao cạo nhờ tấm thép cứng nằm giữa lưỡi cắt.

Người đánh búa trong kiểu rèn phức tạp này lại là Năm Bưởi, em gái Tư Quýt.

Con gái ở lò rèn chỉ chuyên thổi bễ, gánh nước, tiếp than, cùng lắm thì giũa hay mài những lưỡi rèn xong. Bưởi lâu nay vẫn làm như thế, cho đến một hôm bị Tư Quýt chê nặng: “Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu, ngồi trên ghế bễ mà cứ trô trố con mắt ngó trai, thúc kéo bễ cả chục lần không nghe. Thà tao thuê con nít còn hơn!”. Bưởi vốn tính ngang tàng, lập tức nhờ một chị đến sửa cuốc thổi bễ hộ, giành đánh búa cho cha rèn. Sau mấy buổi trầy trật, mệt đứt hơi, đau khắp thân như bị đòn hội chợ, Bưởi đã đánh búa khá thạo, còn báo trước sẽ ngồi lò như thợ cả! Ông Tư can nó nhưng vẫn thấy khoái cái tính dám liều rất giống ông, thường gọi nó đánh búa khi rèn những thứ cần người thợ phụ khéo tay hơn là mạnh sức, biết xem vật rèn đã tới đâu để hạ nhát búa nặng hay nhẹ, đứng hay chếch, nhặt hay khoan.

Ông Tư Chua lơ đãng cầm lấy điếu thuốc Thượng quấn nguyên lá vàng hườm, rất to, lại lơ đãng châm vào hòn than bồng mà ai đó kẹp đưa trước mặt. Vẫn nhắc con bằng những tiếng cộc lốc, ông miên man nghĩ đến tất cả chúng nó, bốn trai hai gái còn lại của nhà ông…

Đã rõ ràng là con Năm Bưởi sắc sảo hơn thằng Tư Quýt. Con Bưởi không đến nỗi xấu xí, nhưng cái mặt hơi nhọn và nhất là hai gò má nhô cao thường bị chê là tướng sát phu... Tư Quýt đã hai mươi tuổi, nếu gặp đứa ưng ý chắc nó cũng bằng lòng lấy vợ. Thằng Cả Chanh hai mươi sáu tuổi ta, vào làm thợ máy tính lại tuổi tây là hăm lăm, nói sự vợ con là nó gạt phắt, muốn có cháu nội, chỉ trông vào thằng Tư thôi... Giữa hai đứa ông bỏ mất thằng Hai Bứa chết khi chưa đầy tuổi tôi, con Ba Khế chết bệnh bảy năm trước, có người ác khẩu nói nó buồn chết héo vì bị ép duyên, ông nghe mà tức ói máu. Tới năm Mùi, tức hai năm trước, con Tám Me lại cướp công cha mẹ, ra đi khi mới lên bảy:

- Chẻ dài thêm đầu mũi!

- Cho phía cay sâu nữa, Quýt!

- Nhẹ nhẹ, Bưởi. Gõ xéo cho đục vô eo!

- Đổi búa!

Thằng Tư ngồi lò đã gọn gàng. Cũng như những đứa con khác, nó biết làm ăn cùi đày. Nghề rừng, nghề mộc, nghề ruộng rẫy, gì nó cũng trải qua đôi chút, ở đất này phải vậy. Nhưng nó thiếu cái nết ham học và bộ óc linh lợi của thằng Cả. Dạy thằng Cả thì suốt ngày phải trả lời hàng trăm câu hỏi, lắm lúc ông phát gắt. Còn thằng Tư ngược lại cứ lặng thinh, biểu gì làm nấy và chỉ làm vừa phải, cầm chừng. Thằng Cả rời tay búa là vớ cuốn sách học chữ, thằng Tư chỉ đi chơi rông và ngủ. Gặp việc gì khó, thằng Cả nhào vô thử sức ào ào, thằng Tư lẩn tránh hoặc khoanh tay ngồi chờ người giúp. Bởi vậy, tuy không nên chia ra con thương con ghét, ông vẫn yêu và nhớ đứa con đầu lòng hơn. Trong bấy nhiêu năm nó làm thợ và ở tù, ông đưa nó ra làm mẫu hoài hoài khiến cho thằng Tư nổi cáu: “Phải, ảnh thì cái gì cũng giỏi cũng tốt! Ảnh lo bay nhảy một mình, còn dở như tôi lại bị sai vặt cả ngày, la lên rầy xuống!”

Ai đó nữa bưng mời ông một bát to nước chè rất đặc. Ông gật đầu nói hú họa: “Phải á”, mắt vẫn không rời lưỡi rựa đã nung trắng lại và đang nện búa dồn dập cho liền sắt thép. Con Năm đánh búa to, thằng Tư cũng đập búa tay. Rựa được lật qua lại liên tiếp cho sát miết xuống thật đều hai má. Nó ngả sang đỏ tươi, đỏ bầm, đỏ nâu, đen dần đi.

Năm Bưởi hạ búa, đưa ống tay áo quệt mồ hôi đọng thành giọt to trên trán và chót mũi. Tư Quýt nhấc lưỡi rựa định ném sang chỗ làm nguội, đã nghe cha gọi:

- Thêm lần nữa, Quýt!

Anh khẽ nhếch mép cười, xóc rựa vào lò than hồng. Anh vơ cây chổi cán đài bó bằng những sợi vỏ cây tước nhỏ, dũi vào hố nước bùn, đưa lên quét tấp lò than cho phủ kín rựa, nghĩ:

- Con rựa này, chắc ông già tự tay làm nguội và trui lại cho coi. Rèn cho anh cả mà!

Không ngờ ông Tư đặt bát nước, uể oải bước tới chỗ ngồi lò, nói có vẻ thờ ơ:

- Xê chỗ, tao coi lại thử...

Quýt và Bưởi cùng cười thành tiếng, bỏ sang chỗ uống nước. Rèn cho anh Cả có khác, ông già sẽ tự đập búa tay kỹ lưỡng như gò tôn, đến khi mặt sắt trơn láng bằng đồ thép đúc của Tây mới thôi. Anh khách hàng ngồi trên ghế bễ kéo và đẩy đều hai tay, chép miệng thèm thuồng:

- Mình được một lưỡi như cái này thì xài đến đời cháu!

- À, rèn dùng mà.. Dao dựa trong nhà tụi nó làm sứt mẻ hết, thợ rèn ăn dao lụt hoài, tao ngán... Vừa đó.

Một giờ sau, mọi người trong lò xúm lại trầm trồ xem cây rựa đã gọt má, giũa lưỡi cắt, tôi lại, cắm cán dài một thước tây với năm cái khâu siết cứng, mài bén lần cuối cùng. Một ông khách kêu lên:

- Bác Tư phải đặt đúc con dấu thép, đóng vô đồ bác rèn cho thiên hạ khỏi lầm thứ giả. Biết chắc đồ của bác, họ dám mua giả gấp ba gấp bốn, liều một khi.

Ông Tư Nhấp một hớp rượu, nhai miếng thịt nai khô tẩm mật ong và gia vị trước khi phơi sấy, nướng lên rất mềm và thơm:

- Rèn dùng thôi... sắt thép mấy năm nay khó mua quá, ai đem thứ sắt gì tới tôi dập thứ nấy, đâu dám đóng dấu vô cho người ta chê cả đời.

- Cũng phải. Thấy mụ Chín bữa trước đưa khoe con dao bác rèn bằng lưỡi cuốc cùn!

- Đó, đó. Hồi nào yên giặc, tôi xuôi xuống Hàn, xuống Phố[1], lựa mua sắt thép năm bảy mác về chất đống sẵn, đặt món nào tôi lựa đúng mác đó rèn cho anh... Bây giờ nói tình thiệt nghen, ai sửa thứ gì thì biểu thằng Tư sửa nội nhựt hôm nay cho xong, sáng mai trở đi tôi mắc rèn hàng đổi cho mấy cha nhà buôn ở Trà Linh mới đem sắt lên đặt làm gấp. Chà, chà, cọp beo về nhiều hay sau mà dân mọi cao đổ quế với thuốc ngon ra đổi giáo mác... Uống hết đi chớ, để dành rượu cúng ai?

Cạn thêm một ly nữa, ông đứng dậy vươn vai, cầm cây rựa mới, nói bâng quơ:

- Thử coi chẻ chặt đẽo gọt có ra gì không, mắc tật thì sửa luôn..

Ông đi thong thả xuống khe Hội, giả vờ không nghe một người đang hỏi về tay thương lái nào ở Trà Linh mới lên mà kín tiếng quá đỗi, không dám đậu ghe ở bên vạn, giữ mối lợi ăn một mình hay sao.

Con đường mòn ra rẫy đã bị ổng chặt những cành gai bớm rào bít lại, còn cẩn thận làm thêm dấu hiệu “có đặt bẫy” bằng một cây cọc cao đến ngực buộc chùm lá trên đầu, Ông lội dọc lòng khe chừng trăm thước, tới chỗ vũng sâu mới gặp đầu mối con đường vừa mở, chân bước trên đá và thân người lách qua một vạt cây rù rì mọc chen chúc, ai đi ngược khe tát cá bắt ốc cũng không trông thấy dấu vết của mối đường. Cả Chanh dặn ông giữ bí mật, ông trổ tài bí mật cho nó thấy.

Có lẽ ba người trong chòi rẫy đã nhậu ra ông từ khi ông băng qua rẫy đi lên. Họ chỉ chào sơ qua bàn tiếp. Ba Mít đang bực dọc chuyện gì, khuôn mặt rỗ đỏ ửng, nói gằn giọng:

- Thượng cấp biểu bắt liên lạc với thằng Khánh là lầm quá đi. Đưa con nhà quan vô Việt Minh, nó giả bộ hăng hái cho mình tin, về sau nó dẫn lính về bắt trụm hết cho coi. Hôm kia nó cưỡi ngựa đi dòm ngó khắp làng như mật thám, còn tới hỏi dò nhà bác Tư đây nữa. Không tin, anh Cả cứ hỏi hết bà con xóm Mới đủ biết nhà phủ Đỉnh có ai theo Cách mạng không...

Cả Chanh ngồi trầm ngâm trên sạp tre. Người thứ ba là một chú tuần đinh có cái bụng báng hơi to, thấp giọng nói gì đó. Ông Tư hơi cụt hứng. Những tưởng ai cũng sẽ xúm vào xem cái rựa mới rèn xong, gại gại ngón tay vào lưỡi và thử cạo lông trên bắp tay để trầm trồ khen nó sắc hơn dao cạo... Ông đặt cây rựa xuống sạp, buông gọn:

- Rèn cho mày đó, Cả. Lát rồi coi ưng ý không.

- Dạ, cha để cho con.

Ông Tư bước ra ngoài, tiện tay giật các đầu dây đuổi chim một hồi. Rẫy mới trỉa, chim xuống từng bầy bươi đất ăn hạt giống, ông đã dựng rất nhiều cây tre chẻ làm mõ và treo những mo cau vẽ mặt người trừng trợn. Người coi rẫy ngồi trong chòi chốc chốc thò tay lên giật dây là khắp rẫy sẽ dậy lên tiếng đánh mõ và lao xao những bộ mặt hung dữ từ trên trời ập xuống. Ngay sau lần kéo dây đầu tiên, ông đã thấy hàng trăm con vẹt từ mặt đất bay vù lên, kêu “kéc kéc” inh ỏi. Ông lẩm bẩm mắng thằng Cam. Anh cả nó bận dạy việc quốc sự cho người ta. Năm Chò mắc lo chạy giấy tờ, còn nó biến đi đâu mà bỏ rẫy cho chim bới?

Ông Tư thong thả quay về lò rèn.

Trong khi ấy, Năm Chò với Cam đang ăn nhậu bên bờ khe Hội, cách rẫy một tiếng hú.

Mấy hôm trước, Năm Chò mặc bộ quần áo lính khố đỏ, đi giày đinh và gắn cả lon cai hình chữ V trên tay áo, theo ông Tư Chua đến gặp Cửu Áng xin ở học nghề. Lão cửu pha nước mời đàng hoàng, tự tay điền vào cái biên lai thuế thân, đóng triện vào thật rõ:

- Ai chứ bác Hương đây nói một tiếng thì mười con triện tôi cũng áp. Anh Năm không biết chớ, hồi anh hạ sát thằng Tây con, tôi sướng quá thể đi, tối về đánh nhào luôn một chai lậu hai phần lít. Hồi anh Cả Chanh thoát ngục cũng vậy, tôi hét vợ làm gà ăn mừng.

Về vụ Năm Chò có thể lão nói đúng, hồi ấy lão chưa giành được chân lý trưởng. Còn khi Cả Chanh vượt ngục thì chính lão dẫn lính huyện tới lò rèn ông Chua tra xét, soát nhà, viết biên bản rằng “tên Phan Chua, phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc con trai mình là Phan Chanh, tục danh Cả Chanh, đã đào tẩu ngoài vòng lao lý trước khi mãn án”. Đến nay lão đoán rằng ông Chua vốn tính phổi bò chắc đã quên chuyện cũ, hoặc có nhớ thì lão sẽ cãi bay luôn: “Bác ở vô hoàn cảnh như tôi, bác cũng phải làm y vậy thôi!”. Lời nói chẳng mất tiền mua, lão cứ nói phứa phựa đi.

Có giấy tờ rồi, Năm Chò được giao nhiệm vụ “dét-tê xa”, tức là đi giao thông các nơi xa, trong khi Sáu Cam là “det-tê gần”, chuyên đi liên lạc trong làng và mấy làng lân cận. Sáng nay Năm Chò mặc bà ba cháo lòng mượn của Tư Quýt, vác cái đòn càn có buộc cuộn dây và cặp rọ như lái buôn heo, đi xuống bến phà Huề Bình để liên lạc chuyến đầu tiên với đồng chí huyện ủy viên ở đấy. Anh mang về một lá thư mật cùng mấy tờ báo in đá giắt kín bên hông, cứ băn khoăn tại sao anh Cả tính đánh du kích mà lại lo giấy mực mãi vậy.

Xong việc, Năm Chò đi xuống nối. Cam đã đợi sẵn, kéo anh lội ngược dòng.

Nó nhận giữ kho rượu của anh, lại vừa đánh bẫy được con sóc to và bắt được một mớ ốc đá, mấy con cua. Nó lén xách dao, nồi đất, bùi nhùi rơm và muối ớt đi tìm chỗ vắng, luộc cua và ốc đã chặt đít, còn con sóc thì nó thui và xát muối nướng trên lửa than. Đây là bữa đầu tiên nó đãi anh Năm từ ngày gặp nhau ở Quy Nhơn.

- Chà, thằng nhỏ về đây như thả cọp về rừng, chơi sành điệu quá ta!

Cam nhấc hòn đá bịt miệng cái hốc nhỏ trong có một bi-đông và hai chai rượu lậu mà nó mua giúp anh Năm trong xóm chợ, đúng thứ rượu nhứt của bà Còng có hai người con chuyên nấu rượu trong hang núi. Nó chỉ hút ốc cầm chừng, rất khoát khi anh Năm xé nhai hết cả con sóc và bắt đầu nhai cua rau ráu, sau vài miếng lại tu một hơi rượu, khà một tiếng “Ngon, ngon hết cỡ!’’, rồi anh bỗng đặt bi-đông rượu xuống, lắc đầu thật mạnh:

- Nghe đây Cam. Anh hư thì mặc kệ anh nghe chưa. Mày con nít mới lớn, lo học theo anh Cả Chanh cho nên người, chớ có bắt chước thằng khố đỏ đầu không chằng đít không rễ!

Anh cởi hết khuy áo, phơi bộ ngực phủ lông xoăn và xăm đầy bùa chàm, cà rà hỏi chuyện thằng em nuôi khi có còn ở làng. Và Cam cũng kể cà rà như ông lão bên mâm nhận, cốt sao anh Năm thong thả ăn hết nồi cua với ốc của nó mời.

Nếu tóm gọn mười ba tuổi đời của Sáu Cam, có thể tô đậm một tiếng Sợ. Nhưng nó không tóm được như thế, nó chỉ kể từng mẩu cóc nhảy chợt hiện ra trong đầu.

Nó không phải trưởng nam để được cha nể, không phải gái út cho mẹ thương riêng. Trước nó đã có hai ông anh ra đời giúp cha, một bà chị giúp mẹ. Tất cả những người lớn trong nhà đều nhiều hay ít mắng nó là hỗn, hư, lười biếng, tham ăn, gì gì nữa nó không nhớ hết. Anh Cả Chanh sớm đi vắng không để lại kỷ niệm gì rõ rệt, còn lại anh Tư Quýt hay phát vào đít khi nó nhỏ, bạt tai khi nó hơi lớn lên. Chị Năm Bưởi thường mách mẹ. Cha chỉ thỉnh thoảng hỏi đến nó để nạt nộ, không hề nói với nó một lời thương yêu, còn dặn mẹ phải cho nhiều roi vọt. Mẹ thương nhưng giấu giếm, lén lút, khi có người thứ ba thì đổi ngay ra giọng sừng sộ với nó. Nó rất thèm thuồng khi thấy cha và anh nói cười với nhau trong bữa cơm, nhưng hễ nó chen vào một tiếng sẽ lập tức trừng mắt: “Con nít không được nói leo!”. Chị Bưởi với mẹ chải tóc cho nhau, nó sán lại gần thì bị đuổi ngay: “Đừng quấy rầy người ta!” Nó luôn luôn cảm thấy mình là thừa.

Đôi lúc nó cảm thấy con chó Dồ sướng hơn mình. Người lớn vỗ đầu, bắt rận, đùa với con Dồ mà không ngại chó hư. Còn nó là đứa trẻ, dường như nói ngọt một câu, khen một tiếng là nó sẽ hư ngay, nó dại hơn con chó hay sao ấy. Người lớn dặn nhau: “Thương con thì thương sau lưng”, trong khi họ dám thương chó trước mặt. Nó không hiểu nổi vì sao.

Bảy tuổi nó bắt đầu chăn trâu nhà, con Bỉnh trâu cái rất hiền. Trẻ chăn trâu lớn hơn ban đầu ăn hiếp nó, sau cho nó nhập bọn, bày nhiều trò chơi rất vui. Nó ham chăn trâu chỉ vì được ra khỏi nhà, sống với bạn, nhưng vài ngày lại bị đòn một lần vì mải chơi để trâu ăn lúa. Đến khi con Bỉnh đẻ ra nghé thì nó khốn đốn thật sự. Nghé nhảy loăng quăng khắp nơi phá chẳng sót thứ gì, nó vừa đuổi theo vừa khóc hu hu. Roi quất và tiếng chửi tăng vọt. Người hiền lành nhất cũng chỉ dỗ nó một câu: “Bằng tuổi mày tao còn cực gấp mấy!”. Đố biết họ nới thật hay giỡn chơi với con nít. Cho dù hồi nhỏ bị đánh mắng nhiều, ai ép họ phải đánh mắng lại những đứa trẻ sinh sau?

Lên chín nó được đi học với ông hương sư trong xóm Chợ, ngày một buổi. Ông dạy mười sáu đứa trẻ chia hai lớp. Ông sai vặt và đánh đòn học trò nhiều hơn dạy, nhưng sau nửa năm nó cũng nhớ được mặt chữ, thuộc vần xuôi, bắt đầu đánh vần ngược. Ông giáo chán vì làng không trả lương, cha mẹ học trò khất nợ học phí, bỏ đi buôn hẳn. Nó quay về chăn trâu.

Thằng Bảy Bòng chỉ thua nó một tuổi, hổi mới sinh quặt quẹo khó nuôi nên được cưng hơn. Khi thằng Bòng lên mười, giữ được trâu mẹ nghé con - nghé đã xỏ sẹo mũi, dễ giữ - thì Cam lại thừa. Phụ rèn hay làm ruộng rẫy đều chưa đủ sức, học xa thì thiếu tiền cả nhà bàn đưa nó đi ở giữ ngựa cho phủ Đỉnh, tập làm ăn.

Ấp quan phủ có hai ngựa, giao cho một anh trai tráng giữ. Khi quan đổi về Thăng Bình, ngay trong tỉnh một chú lính lệ lên ấp nhận con Tía trẻ và cao lớn như ngựa Tây, đem xuống phủ cho quan dùng. Còn lại con Hương nhỏ xác hơn và đã về già. Bà phủ chuyển ngay anh trai kia sang giữ trâu bầy, thuê thằng Cam thay.

Người lớn ở đâu cũng vậy, nói rập một giọng là nó phải chịu cực cho quen, tập làm ăn cho quen, học lễ phép nết na cho quen. Tất cả những cái nó phải quen ấy được nhân lên gấp đôi gấp ba khi nó về ấp. Các anh chị ở mướn trong nhà đùn nó ngủ cạnh chuồng heo, hôi thối và lắm mạt gà đốt sinh ghẻ. Cơm thường ghế nhiều khoai sắn,các anh chị cầm rá cơm sàng mấy cái và xúc phần cơm cho nhau, bỏ sắn khoai lại cho đứa giữ ngựa, ở nhà cha mẹ, khách đến rèn đôi khi giúi cho nó chút quà, ở đây tịnh không. Mãi đến nay nó còn rùng mình khi nhớ cái giọng đay nghiến rít răng của bà phủ luôn luôn nhắc rằng nuôi nó làm phước chứ nó ăn như hùm mà làm như mèo.

Lâu lâu có một ông chánh phó tổng, thầy đề thầy thông nào đó về làng cho người đến mượn ngựa quan phủ. Thật ra là thuê, vì khi trả ngựa bao giờ cũng kèm một món quà hoặc tiền.Những hôm ấy thằng Cam phải “chạy ngựa”, làm phần việc của những anh mã phu lực lưỡng. Nó đeo trên mình mo cơm nắm, ống nước, cái liềm, bộ dàm buộc thừng dài, chạy sau đuôi ngựa. Mỗi khi khách xuống ngựa vào nhà, nó lại hối hả tháo cương lắp dàm và dắt con Hường đi ăn, còn cắt gấp thêm cỏ cho ngựa no trước khi đi tiếp. Một lần nó chạy ngựa theo một quan tham đạc điền đi khắp các làng từ Linh Lâm đến phà Huề Bình trong ba ngày. Ông này nhắc hương lý cho đứa chạy ngựa ăn ngủ tử tế, cho ngựa ăn thóc đỡ phải cắt cỏ, sau khi trả ngựa còn cho riêng Cam năm cắc và xoa đầu khen nó rất chịu khó. Ổng đi rồi, bà phủ gọi nó lên bắt nộp lại đủ năm cắc: “Không có cái lệ ăn cơm nhà tao mà đi làm thuê lấy tiền cho thiên hạ!”. Về sau, mỗi khi nhận xong quà hoặc tiền thuê ngựa, bà lại nhắc khéo:

- Bác muốn cho thằng nhỏ chạy ngựa chút gì thì để tôi giữ giùm nó. Con nít mà, tiền chưa nóng túi đã rớt mất hay là người ta dỗ lấy mất. Đứa biết giữ thì lại tiêu hoang nó hư thân đi.

Bà giàu đến thế mà vẫn nhớ thu từng cắc của thằng nhỏ. Cũng có thể nhờ vô sô cắc bạc ấy mà bà giàu.

Sau một trận đòn vì ngựa bứt dàm vào phá đỗ, nó lẻn về lò rèn khi nhà vắng cả. Nó khóc kể một hồi,vạch lưng cho mẹ xem những vết roi ngang dọc. Mẹ nó nổi khóc theo:

- Nhà đã túng đói gì lắm mà để họ hành hạ con mình quá sức vậy, trời ơi là trời!

Mẹ giữ nó lại, xoa bóp và nấu xôi cho ăn. Cha về nghe cả mẹ lẫn con than vãn một hồi, mặt hầm hầm không nói. Rồi ông bước ra mái hiên, rút con roi cày dài đặt lên bàn, gằn giọng:

- Thằng Cam nghe đây. Cái sự họ tàn tệ với mày để đó tao liệu. Tao vẫy vùng ngang dọc đã từng cọp voi quỷ thần chẳng hề sợ, tao sợ chó gì con mẹ chửa hoang với con con chết héo bên ấp phủ Đỉnh. Tới phần mày, lại khác. Tao cho mày đi ăn cơm góp của họ không phải tại thiếu gạo nuôi mày mà để mày học khôn, học chống chọi với đời...

Bà Tư bật kêu to:

- Chưa khôn mà đã ốm nhom, xanh lét. Chưa chống chọi mà đã nát mình mẩy ra...

- Câm họng!

Như mọi ngày thì bà đã nín thít. Lúc này bà gào lên:

- Con tôi mang nặng đẻ đau, tôi không câm! Ông đem con cho thuê lấy tiền thì cho đứa lớn, để nó ở nhà tôi nuôi. Hay ông muốn đi làm thuê cho nhà quan mặc kệ ông, cứ đi đi..

- Thằng Cam, về ấp ngay tức thì!

- Mày cứ ở đây! Ổng ăn tiền của họ để ổng đi làm trả nợ, chẳng dính tới mày!

Ông Tư quất mạnh roi cày vào lưng vợ. Bà chồm ra sân, nổi la làng. Ông càng đánh bà càng la dữ:

- Ối làng xóm ơi, thằng Chua nó giết tôi, nó giết mẹ con tôi! Thằng Chua nó trở mặt, giết vợ bán con đây bớ làng.

Vừa lúc các con về nhà ăn trưa. Năm Bưởi nhào tới giật cây roi, bẻ ngay làm đôi làm tư. Tư Quýt đứng sau ôm ghì cha. Mấy nhà gần chạy tới can, kéo luôn ông Tư đi cho khuất. Thà rằng ai khác đánh vợ ba ngày hai trận, chồng quen tay và vợ quen miệng rồi, chứ vợ chồng ông Tư ăn ở theo nề nếp phu xướng phụ tùy từ xưa, bà Tư vâng lời chồng như cái bóng... Cả xóm Mới được một mẻ ngạc nhiên. Thằng Cam trốn biệt bên ấp, cả tháng sau mới dám lẻn về nhà khi biết cha mẹ đã làm lành.

Dù sao, vụ nổi loạn của bà Tư cũng làm ông Tư choáng váng. Các con lạnh nhiều với ông. Những phút trò chuyện cởi mở biến hẳn một dạo, nhà như có tang, ông thành khách lạ ngay trong nhà mình.

Không chịu nổi cái không khí ám khói khó thở, ông theo thuyền xuôi xuống phố Hội, vừa mua sắt thép vừa tìm chỗ gửi thằng Cam học chữ. Cả Chanh đi tù rồi, Tư Quýt mắc phụ rèn, ông lo gây dựng cho thằng Cam là phải. Ông biết mình có lỗi với vợ con, nhưng lùa dao cạy răng ông cũng không nói một tiếng nhận lỗi, ông chỉ làm việc gì đó để sửa lỗi.

Đem con về, dù sao cũng phải nói qua với chủ thuê một lời phải quấy. Ông đáp xe ngựa vào Thăng Bình vào gặp phủ Đỉnh. Quan phủ là người khéo ăn ở với đồng hương, cho đội lệ ra mời ông vào trà nước đàng hoàng, giữ ông lại ăn trưa chung mâm. Rượu vào ngà ngà, ông mới kể chuyện thằng Cam giữ ngựa, chẳng giấu chút bất bình nào, sẵn sàng sửng cồ ném đũa nếu quan phủ lên giọng kẻ cả. Thế nhưng quan cười xòa, vẫy lính rót rượu đều tay cho ông:

- Chào ồi, anh Tư còn lại gì tánh nết đàn bà. Tôi la rầy miết mà mụ cả không chịu bỏ cái tật vắt cổ chày ra nước... Tôi tính giùm vầy đây anh Tư. Gởi con học ở Phe-phô, anh tốn nhiều đó, hồi này thóc cao gạo kém quá mà. Gởi gạo nhà xuống cho con thì mười phần còn sáu bảy, tôi lạ gì đò dọc Linh Lâm... Tôi có mụ Hai ở Quy Nhơn buôn vải, cả mớ con nhỏ đang đi học, anh cứ thả thằng gì...à thằng Cam.. chung vô đó, học hành với nhau cho có bạn, gà con chung bầy chẳng tốn kém gì đâu anh. Hồi đưa thằng Chanh vô Quy Nhơn học nghề anh không hỏi tôi, chớ biết thì tôi xếp việc cho nó tử tế, dẫn tới gặp bang tá dặn dò từng chút, có đâu về sau phải rầy rà tới anh. Mụ Lợi Thịnh nhà tôi được cái nết nhỏ nhẹ, biết dạy con, anh coi thằng Hai Khánh mỗi lần về ấp có dám hỗn hào với ai đâu.. Lệ!

- Dạ.

- Chiều nay mày đưa bác Tư đây ra bến xe, nói là người nhà quan phủ, phải xếp chỗ thiệt tốt cho bác về Linh Lâm... Ngu như heo, qua huyện Tây Quảng, qua phà Huề Bình chớ đâu xa. Lớ ngớ không xong việc thì liệu hồn!

Ông Tư xin kiếu, bỏi cần về Hội An thu xếp các thứ chở theo người. Khi đứng dậy quan phủ còn lắc mãi tay ông, hẹn mươi ngày nữa sẽ cho lính lên đón thằng Cam.

Chuyến ấy ông Tư mua quà cho tất cả mọi người trong nhà. Cam cũng có phần. Ông kể tỉ mỉ câu chuyện của phủ Đỉnh, gật gù khen lão ấy khôn nứt não ra. Hà hiếp vơ vét chín phương, lão vẫn để dành một phương để về hưu. Gây oán khắp nơi nhưng giữ cái ân nơi bản quán cho yên tuổi già, quan lại xưa nay đều vậy. Cả nhà đều tin thằng Cam vào Quy Nhơn sẽ được ăn học đến nơi đến chốn, nào ngờ...

Sau nhiều ngày nể “đại ca” phải nhịn thèm, hôm nay Năm Chò dốc cạn hết bi-đông rượu nhứt. Anh bẻ một chùm lá lau miệng và tay, lim dim mắt nghe Cam kể những mẩu cóc nhảy, điểm vào những tiếng ồ, à, mẹ tổ nó, chó thiệt, phải vậy chớ. Dựa lưng vào tảng đá, anh bắt đầu ngáy.

Cam ngừng kể, nhưng cả bầy kỷ niệm nhỏ bé lộn xộn của nó cứ nhảy lao xao mãi trong đầu như nhái gặp mưa dông. Nó ngồi thừ ra, hai cánh tay khẳng khiu ôm gối, mắt đờ đẫn nhìn mà không thấy gì trước mặt ngoài những hình ảnh dễ sợ nằm đằng sau mắt.

Nó chợt thấy mặt mình lạnh. Nó đưa tay vuốt mặt, thấy tay ướt rượt. May quá, anh Năm không thấy nó chảy nước mắt.

Chú thích:

[1] Tên gọi của địa phươg. Hàn: Đà Nẵng; Phố: Hội An.