- 12 -
Anh Xáng trong Thường vụ tỉnh ủy gửi thư giục đồng chí Thanh Trà “Hãy khẩn bách thành lập đội du kích quân, cho luyện tập ngay, khí giới có gì dùng nấy”.
Cả Chanh gọi Ba Mít tới chòi rẫy bàn thêm. Cậu ta không coi chỉ thị thượng cấp ra gì cả:
- Mấy ông trên biết cóc khô gì đâu. Đổ bể thì các ổng trốn mất tiêu, mình ở tù. Anh nếm mùi năm năm rồi đó!
Cậu này hăm bốn tuổi, khi mới đậu sơ học yếu lược đã làm thư ký cho hội đồng ngũ hương đâu nửa năm, sau bất mãn bỏ đi buôn đò dọc, buôn bè tre gỗ. Cậu ta chừa một vệt râu mép trên khuôn mặt rỗ chằng chịt, để tóc gọng kính ngoặc tai như đám thương lái đã trải mấy chục năm trong nghề. Trong một chuyến buôn xuống Hội An, cậu được ông chú nói cho vài tiếng đồng hồ về Việt Minh, giao việc tuyên truyền “đánh Tây đuổi Nhựt” tại Linh Lâm.
Chưa làm được gì thì gặp đảo chính. Cửu Áng vời cậu ra nhậm chức xã thủ lãnh thanh niên, liên tiếp đi họp với huyện thủ lãnh, có lần bắt tay cả tỉnh thủ lãnh. Khi đọc lá thư của ông chú bảo anh Cả Chanh sẽ lãnh đạo vùng núi huyện Tây Quảng, Ba Mít tự hẹn: cứ gặp coi thử anh chính trị phạm này ra sao, đáng phục thì phục, không đáng thì lờ luôn.
Qua mấy lần bàn việc, Ba Mít thấy anh này vừa hút vừa đẩy, vừa gần vừa xa. Sức hút của anh ở chỗ anh đi nhiều biết rộng, có nguồn giao thông nào đó mà anh giữ kín, rất có thể là nguồn riêng của Đảng Cộng sản nằm trong lòng Việt Minh, cậu ta chỉ nghe loáng thoáng chứ không biết rõ. Anh đẩy ra xa vì cứ nhất định coi Ba Mít này là hạ cấp, coi đám thanh niên dưới trướng Ba Mít là thuộc quyền anh lãnh đạo. Một lần, Ba Mít nói trắng:
- Hồi xưa tể tướng bái huyện, quan là thường đó anh. Tể tướng lo chung cả nước, không biết rõ từng chút như quan nhỏ ở tại chỗ!
Cả Chanh cười dài. Ba Mít thấy cần nói sát sạt hơn:
- Ví như anh với tôi đây nè. Anh lăn lộn lo việc nước lâu năm, nhưng mà về làng thì tôi hiểu hơn anh. Cứ để tôi lựa chừng ba bốn người chắc chắn nhứt, anh giảng tài liệu Việt Minh cho họ, cắt máu ăn thề với nhau, vậy là làng mình có tổ Việt Minh rồi. Anh làm tràn lan nhứt định đổ bể hết cho coi.
Ba Mít cứ bị ám ảnh đổ bể, lại bám riết vai trò xã thủ lãnh mới được Cửu Áng phong cho. Cậu ta trước bất mãn vì địa vị, nay dùng cái địa vị cỏn con của mình để đòi ngồi chiếu trên bên trong Việt Minh. Vẫn theo cách mạng đấy, nhưng theo có điều kiện, có mặc cả tính giá hẳn hoi, đúng kiểu con buôn!
Cả Chanh quyết định phải làm mạnh, làm thẳng những gì Ủy ban khởi nghĩa đã căn dặn trong những đêm nằm đò ở Hội An.
Trong số hơn hai mươi người đã gặp Chanh ở chòi rẫy có mười bốn thanh niên, năm trung niên. Anh cho Sáu Cam đi gọi từng người, báo cho họ giả đi rừng để dự lớp chính trị. Nơi học là một bãi cỏ dưới gốc cây si to, mé sau chòi rẫy chừng vài trăm thước, khi mưa có thể chạy cả vào chòi. Một ngày học Chương trình mười điểm của Việt Minh, ngày thứ hai chỉ thảo luận một câu hỏi: “Vì sao phải thành lập du kích, sửa soạn khởi nghĩa?”.
Gọi mười chín người, bớt hai đi vắng và một đang sốt rét, nhưng số người dự lại đến hai mươi mốt. Nhiều người rủ thêm anh em hay bạn thân “Đi nghe Việt Minh hiểu dụ”. Một ông già ngót sáu mươi cũng theo con đến, túm tay Cả Chanh nói liên chi hồ điệp, anh phải gỡ ra để bắt đầu lên lớp.
Tuy tất cả đều biết anh là quốc sự phạm đang bị truy nã, nhưng Cả Chanh vẫn soạn một chỉ thị có đủ đầu đuôi dựa vào thư anh Xáng, dưới ký chung chung là Tỉnh bộ Việt Minh, trong đó đồng chí Phan Chanh được chỉ định làm chỉ huy du kích quân kiêm trưởng ban xây dựng căn cứ địa Tổng An Sơn, thuộc huyện Tây Quảng. Anh rút giấy ra đọc rồi đút vào túi cho khỏi lộ nét chữ của chính mình.
Ba Mít mới khăng khăng chống việc lập du kích đấy, bỗng đến bên anh và đợi sẵn. Anh vừa đọc hết bản chỉ thị, cậu ta vung tay nói lớn:
- Tiếp lời đồng chí thượng cấp, tôi rất là hô hào các bạn thanh niên hãy xứng đáng là rường cột nước nhà.. e hèm... hãy vô Việt Minh hết thảy... ờ,... ờ, hãy cùng nhau nâng cao trình độ dân chúng. Tôi cũng xin đại diện cho thanh niên Linh Lâm tuyên thệ với cấp chỉ huy... chúng tôi rất là con chán Lạc Hồng, rất là tỏ chí nam nhi...
Cậu ấy xoay xở nhanh đấy. Thôi cũng được, còn hơn phá ngang, Cả Chanh bắt đần giảng giải từng điểm trong chương trình Việt Minh.
Ngày thứ nhất, không khí cứ trầm trầm như họ nghe quan về hiểu dụ thật. Ngày thứ hai họ nói năng rầm rộ hẳn lên. Ông cụ kêu đau lưng mà vẫn đến nghe tiếp, đưa ra hàng loạt sáng kiến: lập Tân tỉnh ở Linh Lâm, xây đồn đắp lũy chặn đường bộ ở truông Dơi và đường sông chỗ Ba Thác, tìm cho ra thằng Tây La-phạt về chém đầu tế cờ... Đám trai trẻ cười lăn ra.
Cuối ngày thứ hai, đội du kích được thành lập, gồm hai tiểu đội. Tiểu đội Một chọn toàn người khỏe và gan góc, sẽ trực tiếp đánh giặc. Tiểu đội Hai yếu sức hơn sẽ lo vót chông, rào đường cùng với việc cơm nước được đặt tên là vận lương cho dễ nghe. Tất cả các đội viên sẽ tự sắm một thứ khí giới gì đấy mình quen dùng nhất, tự lo gạo ăn để học tiếp ba ngày quân sự do đồng chí Nguyễn Văn Chò huấn luyện.
Để cách quãng năm ngày cho anh em kiếm võ khí và chạy gạo, cũng để đợi luôn đêm có trăng. Năm Chò bắt đầu mở lớp.
Tiếng tăm của Năm Chò ở Linh Lâm cũng vang dội chẳng kém Cả Chanh, riêng đối với thanh niên còn hấp dẫn hơn. Ghét Tây hả? Oánh! Oánh thí xác! Nói nhựt trình dài dòng nghe mệt óc lắm, vác đá đập đầu Tây như Năm Chò là sướng nhứt!
Năm Chò học chung hai ngày chính trị với anh em, đã làm cho mọi người thỏa mãn tò mò và quí mến mình. Bởi thế đến ngày mở đầu đợt quân sự, số người dự lên đến ba mươi lăm, có cả ba cô gái làng và cô Năm Bưởi nữa. Cả Chanh lúng túng. Đưa con gái vào du kích chưa tiện, đi đêm về hôm sẽ bị cha mẹ tra vấn bắt khai thật, lộ hết. Các ông bà cao tuổi dù không nghi ngờ hẳn cũng ít ưa cái cảnh trai gái chung đụng, cười cợt... Rồi anh phải để tất cả cùng dự. Dân làng này, nhất là bà con xóm Mới chiếm hai phần ba lớp học, đã quen rủ nhau đi săn thú, đánh cá, đốn gỗ củi, leo núi cõng quế, nay rủ nhau đi học quân sự với Việt Minh cũng là thường tình. Anh chỉ nhắc rất nghiêm kỷ luật bí mật để cho đội du kích khỏi bị pha quá loãng.
Mới mở đầu, lớp học đã ồn lên khi Năm Chò bước ra trong bộ áo quần khố đỏ gắn lon cai chữ V, giày đinh và ca-lô chỉnh tề, nay thêm cái thắt lưng to bằng da trâu sống và dây thép mà anh mới tự làm. Anh dập gót một tiếng cốp, đưa tay chào kiểu nhà binh Pháp. Anh nói thật to bằng cái giọng Quảng pha Sài Gòn, lên xuống bổng trầm như kép hùng trên sân khấu:
- Tôi xin có mấy lời trình với đại ca, với quí đồng chí. Tôi là thằng Năm Chò lưu lạc bấy nhiêu năm, có thêm cái tên là Năm Phi Đao. Nay được về bổn quán cùng làm việc nghĩa với bà con mình, thiệt là vui hết sức, vui vô số kể. Bị cái tôi dốt chánh trị lắm, ăn một cục nói một hòn, một chữ bẻ đôi chẳng hiểu, đại ca đây dạy dỗ nhiều mà chưa khá. Thôi thì tôi biết gì bày nấy, anh em cứ ngó theo đó mà làm... Trước hết, xin mời bà con coi trò ném phi đao!
Cả Chanh suýt cười to. Chỉ thiếu “tả lớ” và một hồi chiêng trống tùng phèng nữa là thành gánh xiếc rong.
Năm Chò đến lật một tấm ván dựng sấp mặt vào gốc cây. Mặt sau vẽ một hình người bằng than, giữa ngực có vòng tròn và điểm đen. Anh đã luyện tay dao cho dẻo lại, lần này diễn vẫn có bái tổ nhưng bỏ bớt mấy câu thần chú mà chính anh cũng chẳng tin, chỉ quen đọc cho đủ lệ.
Lớp học reo ầm ầm khi năm lưỡi phi đao từ xa hai chục thước bay vút đến, cắm phập vào đúng chỗ đã được hét báo trước, Cả Chanh sửng sốt, anh chỉ nghe đồn mà chưa biết rõ cái tài ấy của Năm Chò. Ba Mít đang hậm hực vì không chen vào được một lời hiệu triệu nào, cũng vỗ tay thật to và phục thật tình. Huống chi Năm Chò nhổ xong năm lưỡi dao lại chập chúng lại, cắn vào miệng, chổng chân lên trời, đi bằng hai tay trở về chỗ cũ!
Tuổi trẻ Linh Lâm bị chinh phục hoàn toàn. Quả anh Năm Phi Đao là tay giang hồ nghĩa hiệp, đáng mặt ông thầy võ ở xứ núi quanh năm cầm giáo mác này.
Tới phần tiếp theo thì Năm Chò lúng túng. Anh chỉ quen hô khẩu lệnh bằng tiếng Tây. Ta là du kích Việt Minh, ai lại hô “gác-đa-vu... phích” hay “rờ-pô!”, nghe nó chướng quá đi. Cả lớp bàn góp xôn xao, sau chọn khẩu lệnh như Thanh niên Phan Anh: “Nghiêm... phắt!” và “nghỉ!”. Thỉnh thoảng đồng chí huấn luyện có hét lầm tiếng Tây vào cũng chẳng sao, thời buổi Tây Nhật lẫn lộn này phải quen nghe đủ thứ tiếng lạ.
Mỗi người tự đẽo một súng gỗ theo mẫu của Năm Chò để tập. Chưa biết Giải phóng quân Việt Minh ngoài Bắc kỳ chào súng kiểu nào họ tạm tập chào như lính Pháp với tay phải bồug súng đứng và bắp tay trái khuỳnh ngang trước ngực, trông cũng được mắt. Cả lớp đều ước ao có một cây súng thật để tập, dù là súng hư, ít nhất cũng phải biết đóng mỏ quy-lát ngắm qua đầu ruồi thế nào chứ. Vài cậu trai làng đã từng theo cha con La-phạt đi săn thú lớn bằng cây súng Đức Mô-de chế theo kiểu súng trận, tả nó cho các bạn nghe, chỉ gợi thèm khát tăng thêm. Nếu có nguồn mua súng, đắt mấy cũng được, mọi người sẵn sàng bán lắm thứ trong nhà góp tiền mua ngay một cây. Học đứng bắn, quỳ bắn, nằm bắn, lấy đường ngắm, đâm lê, lại càng sốt ruột.
Cả Chanh và Năm Chò đều thấy bí. Học như nhà binh Pháp khi trong tay anh em chỉ có giáo mác, coi bộ không thiết thực mấy. Rất may, cuối ngày học thứ hai ông cụ lắm lời đều xem tập, mách cho Chanh con trai ông biết đánh đại đao, mã tấu, đưa bè xuống phố Hội vừa trở về Linh Lâm. Mỗi người trong lớp đem đến một cây mác, không tin mượn thứ gươm người Thượng vùng này có hình dạng như cây mã tấu cán dài đốc nhọn cũng được, con ông sẽ đến bày cho.
Anh con trai tên là Tám Doãn, hai mươi hai tuổi, đã theo một ông thầy võ học suốt một năm quyền, côn, kiếm, đại đao. Chuyên nghề chống bè chống đò trên sông dữ, người anh sắt lại và dẻo như một bó gân, tay chân nhanh nhẹn hơn người cày ruộng rất nhiều. Anh nhờ cha đến xin cho học quân sự, được phong ngay làm thầy.
Chiều thứ ba, đội đu kích được tổ chức lại thành ba tiểu đội. Cả Chanh đã được mấy lời thề tóm tắt để làm lễ tuyên thệ trước cờ: Trung thành với Tổ quốc, phục tùng mệnh lệnh của Việt Minh, chiến đấu dũng cảm kiên cường, không bao giờ đầu hàng khai báo, tuyệt đối giữ bí mật. Năm Bưởi được giao may lá cờ Việt Minh, nhớ lầm sao đó đã cắt một ngôi sao vàng sáu cánh nhỏ tí gắn giữa nền đỏ, Cả Chanh không sửa kịp.
Cờ được treo đứng trên thân cây. Đội du kích hai mươi tám người, với Năm Chò làm đội trưởng và Tám Doãn làm đội phó, đã xếp ba hàng ngang ngay ngắn, súng gỗ chống xuống đất. Ông Tư Chua nghỉ rèn đến dự lễ, đã mang theo cái lư đồng và đốt cả nắm trầm thơm nức.
Sắp bước ra làm lễ tuyên thệ, Cả Chanh chợt thấy tim mình đập quá mạnh. Anh đứng im, khép mắt nín thở một chút cho đỡ hồi hộp. Lứa quả đầu tiên. Vụ gặt đầu tiên. Lớp người võ trang đầu tiên ở làng anh. Sẽ có cuộc chạm trán đầu tiên...
Anh quen lắm rồi với những lời thì thào nơi vắng, những thư mật viết bằng hóa chất, những tờ báo in đá và truyền đơn in mực tím trên thạch trắng, những lớp học Mác-Lê ngồi bó gối tay ba tay tư trong nhà giam, những ước mơ cháy ruột gan của người con trai xả thân vì nước nhưng chỉ có thể thi gan chịu đòn tra tấn trước khi ngất lịm... Nay là lúc ta quật lại nó. Nay nó bắn ta, ta lao vào đâm lại. Nay không chỉ cố giữ khí tiết cộng sản nữa, mà ta xông lên giết giặc cứu nước, nó đánh ta thì ta bắt nó xối máu đền tội. Với nhúm người vụng về lóng ngóng này, Đảng Cộng sản từ bóng tối quẫy mình vươn lên như chàng trai Phù Đổng, quật đòn gậy sắt giữa trán quân thù. Một đòn chưa gục thì đánh nữa, đánh nữa, đánh mãi…
Cả Chanh lắc đầu, đặng hắng trong mũi, ngửng mặt, bước tới đứng cạnh lư hương trầm đang bốc khói ngào ngạt, xòe tờ giấy trên tay, bắt đầu đọc. Sau mấy tiếng đầu hơi run, tiếng anh cứng lại và vang to:
- Trước lá cờ đỏ sao vàng thấm máu các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, chúng tôi là đội du kích Linh Lâm xin trịnh trọng tuyên thệ...
Chiều ấy không mưa giông. Mặt trời trước khi khuất núi tỏa lên một vầng đỏ rực khắp nửa bầu trời, phía núi ông Tượng cũng vắng hẳn tiếng voi rừng thi rống trước khi ngủ. Rừng núi Linh Lâm như ngừng thở, nhận vào lòng lời thề trang nghiêm nhất của những người khởi nghĩa.
*
* *
Dù lời thề thứ năm là giữ bí mật, tin đồn về đội du kích vẫn chạy khắp Linh Lâm. Không ai nghĩ mình đang vi phạm lời thề nếu kể lại với cha mẹ hoặc vợ rằng mình đã vô du kích Việt Minh, ít nhất cũng đỡ bị cằn nhằn vì bảo đi rừng kiếm ăn mà hôm nào cũng về tay không.
Cả Chanh cùng với Năm Chò và Tám Doãn sục sạo vùng rừng rậm mé trên Linh Lâm, tìm chỗ lập trại bí mật cho đội du kích. Họ chọn được hai chỗ tốt. Nơi gọi là căn cứ A nằm trên bờ phía đông sông Linh, cách chòi rẫy ông Tư Chua chừng một cây số xuyên rừng, sẽ là chỗ họp đội, luyện tập. Còn căn cứ B sẽ đặt bên kia sông, tít trên sườn núi ông Tượng dọc đường lên làng Blam của người Thượng cách căn cứ A đến gần ba cây số, là nơi cất dấu võ khí, lương thực, săn sóc người ốm hay bị thương. Chòi rẫy ông Tư Chua chỉ còn là trạm liên lạc.
Đội du kích chia nhau đi dựng trại ở hai căn cứ chỉ một ngày rưỡi là xong cả. Hàng ngày có ba bốn người đến phụ rèn với ông Tư.
Khắp Linh Lâm chẳng ai còn tin ông Tư đang làm hàng đổi cho lái buôn. Ông rèn hàng loạt những con dao theo kiểu lạ, hơi giống thanh gươm ngắn có mũi nhọn, sống dày, lưỡi bén. Cắm cán ngắn và thêm miếng che tay thì nó là gươm hay dao. Lắp vào cán dài, nó là cây giáo có thể đâm và chém chặt được. Ông có sẵn một cây giáo như thế từ trước, đi rừng cầm theo giữ thân và có thể phát chỗ đường rậm rạp, anh em du kích rất thích mẫu vũ khí này. Còn được mớ thép tốt dự trữ, ông đem rèn hết, được lưỡi nào ông cho đem ra rừng mà mài, đóng cán, đừng để dồn trong lò rèn cho người lạ trông thấy. Ai thích dùng mã tấu thì ông sẽ rèn sau, nhưng khuyên họ nên dùng thứ gươm Thượng của người Cà-dong lợi hại hơn nhiều.
Đội du kích mở một đợt tập bắn ná Thượng. Phần lớn các nhà ở Linh Lâm đều có ná, người hay đi săn thường tự làm hoặc mua sắm tới hai ba cái, to nhỏ khác nhau, có thể bắn từ cu đất tới heo nai. Tên độc thì phải mua của người Thượng, họ biết các thứ mủ cây và giấu rất kỹ, chỉ bán tên độc làm sẵn cho những người Kinh mà họ biết là tốt bụng.
Ông Tư Chua tài hoa luôn luôn nghĩ ra cái mới. Kiểu ná ở đây không làm ông thỏa mãn. Mé sau cái lẫy ná chỉ có một khúc chuôi đẽo hình đuôi cá dài chừng một gang. Lẫy lại chế theo hình chữ công, hai nét ngang, một nét đứng. Người bắn giơ ná lên trước mắt, hai bàn tay nắm đối xứng nhau, kéo lẫy bằng hai ngón trỏ cùng lôi nét dưới của chữ công. Ông khuyên anh em nên làm lại thân ná có báng tì vào vai như cây súng, làm lẫy chữ đinh - nét ngang ở trên, nét dọc chạy xuống dưới thành cái cò súng - dễ bắn trúng vì ná khó rung. Lần lượt từng người tự đẽo gọt lại thân ná và khen kiểu ná mới bắn ngon hơn nhiều. Có người mới tập vài buổi đã găm vào ngực cái bia hình người đặt cách ba chục thước tây luôn ba mũi tên.
Cao hứng, ông Tư còn tính chuyện tự rèn súng. Ông đã từng nghe nói cách rèn súng của người Thổ hay Mèo của vùng núi Bắc kỳ, nghe đâu họ có quyền mang theo súng hỏa mai hay súng kíp trong khi người dân Trung Kỳ bị cấm ngặt không được để trong nhà bất kể thứ súng gì. Cân nhắc tới lui rồi ông chưa làm vội:
- Khó nhứt là cái nòng. Đứa nào đi Phố đi Hàn đặt xưởng người ta khoan được cái nòng tốt, về đây tao làm súng cho mà bắn thả cửa!
Đội du kích thèm súng đành tạm bằng lòng với cây giáo cầm tay và ná tên đeo sau lưng, với cơm nhà áo vợ và nỗi háo hức được nổi dậy làm chủ đất Linh Lâm.
Tình hình mới tới đấy, bỗng một cậu tá điền trẻ tuổi từ xóm Ấp - xóm nhỏ vài chục nóc nhà cạnh dinh cơ phủ Đỉnh - tất tưởi chạy đến lò rèn báo tin dữ: “Lão Phủ đưa một xe lính về làng”. Ông Tư cùng nhóm thợ phụ hối hả mang những thứ đang rèn đi giấu. Cậu ta chạy tiếp ra chòi rẫy gặp Cả Chanh, lần này nói cả một xe đầy nghẹt lính có súng. “Chao ôi, dữ dằn lắm, tôi không về ấp được đâu!”.
Năm Chò đang nấu cơm chiều, định bỏ đấy đi báo động cho du kích rút cả vào căn cứ. Cả Chanh ngăn lại, căn vặn người đưa tin một lúc. Cậu ta càng bị hỏi càng bớt vẻ quan trọng. Rốt lại, đó là chiếc xe du lịch sơn đen chở được nhiều nhất năm người, lần này về có phủ Đỉnh, cô vợ ba lâu nay chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy mặt, với hai người lính lệ mang theo một súng trường. Bấy nhiêu thôi!
*
* *
Con đường mòn của người hái củi cắt lá ngoằn ngoèo rướn lên đỉnh dương Nai, nằm sau lưng vườn chè của ấp. Ấp là vùng “đất mơ hồ”, ông phủ không trưng khẩn nhưng cứ nhập nhèm ghép vào ấp của mình, cũng như các vùng đất mơ hồ khác mà thằng La-phạt quen vơ vào đồn điền của hắn, không phải nộp thuế.
Hai Khánh giật cương thúc gót mãi, con Hường cứ bước chậm dần, thở hồng hộc. Anh đành xuống ngựa, dắt nó đi mấy chục thước cuối cùng lên đỉnh.
Khánh chẳng có việc gì phải leo dốc cả. Anh đi chỉ để khỏi ở nhà, khỏi nghe giọng rít răng của bà Cả nói với đầy tớ và những tiếng thở dài của chị Huyền Tâm ế chồng. Qua bấy nhiêu đảo lộn trên thế giới, hai con người ấy hầu như không thay đổi, kiểu làm chủ ấp của họ cũng y nguyên như cũ. Họ bám cứng lấy dòng dõi tôn thất, vai vế nhà quan, sửng cồ khi thiếu một tiếng thưa bẩm. Họ bỏ ba mươi mẫu chè mọc cao thành rừng với tay không đến lá, để mục từng lẫm thóc tốt, lại lo đi giành giật từng bó lúa chia tô rẽ đôi, đặt làm hai cái ang[1] hơn kém tí chút để thu tô và bán thóc, mắng chị bếp khi sắn ghế trong cơm người làm có vẻ hơi ít hơn mọi bữa.
Đối với Khánh, họ gờm nhưng không dám chống. Đọc thư ông phủ gửi về dặn hai mẹ con phải làm những việc cậu cử sẽ đưa ra, họ thất sắc, riêng chị Huyền Tâm tí nữa ngất. Dần dà họ bớt lo vì chẳng thấy cậu cử làm gì cả, dong ngựa đi chơi chán lại về lôi sách ra đọc. Trong ngôi nhà tối được gọi tôn lên là chính đường họ là hai ngọn đèn hiu hắt vẫn cháy, người đàn ông cao lớn và đẹp trai chẳng làm gì cả để gây gió mạnh, chỉ bỏ đi tìm không khí trong lành ở bên ngoài.
Cơm của Khánh được dọn riêng mâm, vì gần đây hai mẹ con đều ăn chay trường. Khánh nghĩ: tu cái khẩu cho cái tâm được nhàn, nhưng xem ra tâm chẳng yên mà khẩu vẫn cay nghiệt như thường.
Từ trên đỉnh dương Nai nhìn xuống, sông Linh như người đứng dạng hai chân, đầu hướng về Bắc, và con đường 56 chạy về Tây in hình hai cánh tay giơ ngang. Bên kia sông, khu nhà bỏ hoang của đồn điền La-phạt đã ngả màu sẫm đen, mặt sân đất đỏ đã phủ cỏ xanh gần kín. Phủ Đỉnh giao cho anh sửa soạn lấn sang đấy. Cứ tưởng bỏ!
Dân Linh Lâm chưa ào tới chiếm đồn điền vì còn bỡ ngỡ, nhưng không ít người đã dạo qua nhắm chỗ đất tốt và gần nguồn nước. Nhà gạch trong đồn điền thì họ ít cần, xứ này chẳng thiếu gỗ tranh làm nhà. Khánh đã thử thăm dò thầy Huần, tay quản lý cáo già đang vét nốt những gì vét được để cuốn gói về quê: Huần giục anh làm nhanh lên và chớ quên công lão. Đến Cửu Áng thì dè dặt hơn, gãi đầu hồi lâu mới nói mình không dám dính vào, dân ở đây hung dữ, quan phủ làm sao được êm thấm thì làm. Gặp lão Xâm Tô bên khay đèn thuốc phiện, lão khoe mới lấy được lá tử vi tốt lắm, thời thế này sẽ phát tài phát lộc. Trong khi ấy những tin đồn về du kích Việt Minh cứ ồn ồn lên mãi...
Anh Phan Chanh đang ở đâu? Tại sao không chịu chắp mối? Đợi vài hôm nữa nếu cứ vắng tin thì Khánh sẽ về Đà Nắng hỏi lại người giới thiệu, ghé thăm Mỹ Duyên luôn.
Khánh lên ngựa, giật cương cho xuống núi bằng đường khác, đến bến đò của ấp. Từ vạn Linh Lâm xuôi dòng, thuyền đi qua bến đồn điền có xây nhiều bậc đá khối và xi-măng, xuống một quãng nữa đến bến kiểm lâm, có đồn kiểm lâm trên bờ cao nhìn được cả vùng rộng. Bến đò ấp đối diện với bến kiểm lâm, nằm ngay trên khe cửa Sặt chảy sát sau lưng khu dinh cơ phủ Đỉnh. Khánh thường đến đấy bơi buổi chiều, ngược khúc sông khá sâu và chảy chậm lên đến tận vạn Linh Lâm, bơi trở về mỏi tay thì đã có dòng nước xuôi đưa trôi thong thả, nằm ngửa làm tấm ván cũng về đến bến ấp.
Vừa đến bến, Khánh gặp luôn một con đò từ bến kiểm lâm chống sang. Bảy Huần mặc sơ-mi bỏ ngoài quần bà ba đen, rướn cái cổ ngẳng hú một tiếng ngắn, chống sào mạnh hơn. Mũi thuyền trượt lên lưỡi cát bên cửa khe Sặt.
- Cứ sợ cậu Hai phóng ngựa đi thẳng, biết đâu mà tìm. Có chút việc muốn hỏi cậu gấp..
Khánh lặng lẽ xuống ngựa, đợi lão cắm sào và lên bờ. Anh không ưa lối suồng sã của Huần. Lão bợ đít Tây mãi, tự coi như một thứ quan không đeo bài ngà, trong khi nói tiếng Pháp chẳng hơn bồi bếp là bao và chỉ thạo nghề bớt xén.
- Chuyện bí mật đây nghen, cậu giữ kín tôi mới nói.
Khánh buông sõng:
- Ông chưa tin, tìm tôi làm gì?
- Ơ hơ, thì cũng dặn cho chắc... cậu có muốn mua súng không?
- Súng gì?
- Hai cây súng của đồn điền chứ súng nào!
Khánh ngạc nhiên quá, không chú ý giữ khoảng cách với lão nữa, hỏi vội:
- Thằng La-phác-sơ mang đi hết rồi mà... ông nói cả làng đều nghe....
- Ơ hơ, thì cũng phải nói vậy, lỡ tụi Nhựt lên soát xét phiền lắm. Một cây ca-líp du hai nòng đúng mác Xanh-tê-chiên, cậu mượn bắn mấy lần rồi đó. Một cây Mô-de bắn voi xuya số một.
- Còn cây súng lục ru-lô?
- Nó ném xuống Tu-ran, chắc tụi Nhựt lấy rồi, cũng tiếc. Mà thứ đó đeo chơi chớ săn bắn gì... Cậu lấy tôi để rẻ cho cả hai.
- Đạn khá không?
- Ơ hơ, chỗ đó thằng Tây khôn. Mới rục rịch chiến tranh mà nó mua đạn để dành thiệt nhiều, bắn hà tiện, bắn đâu giữ vỏ lại đó, tính chuyện nhồi lại mà xài. Không kể vỏ, cây ca-líp còn bảy chục đạn, cây Mô-de năm chục hơn, đựng trong hộp sắt tây hàn kín. Cận cứ thử mặc sức, viên nào nổ thì lấy, ơ hơ hơ!
Kiểu cười cầu tài của lão vô duyên thật, nhưng hai cây súng lão giấu được quả đáng thèm. Hồi ở Hà Nội, dù đã trả bằng vàng diệp, mang được súng ra khỏi trại Nhật còn phải dùng bao nhiêu mưu mẹo che mắt. Hai cây súng ở đây chỉ có việc xách về nhà mình!
- Ông cứ nói giá, liệu đủ tiền thì tôi mua. Không đủ để ông đem về quê.
Hai người nhìn nhau một cái nhìn dài, và hiểu rằng chẳng ai đần hơn ai. Khánh biết Bảy Huần không thể đem súng theo, nhưng trả giá quá rẻ thì lão sẽ trét đầy đầu mỡ đem chôn, được giá mới bán. Huần biết Khánh không muốn mua đắt nhưng ham súng và có thể xoay được giấy phép dùng súng.
Bảy Huần đắn đo, lại bật tiếng cười quen miệng:
- Ơ hơ, cậu liệu mà trả... Để rẻ cậu hai ngàn đó.
Khánh đưa tay ngoặc dây cương lêu cổ ngựa, vịn yên như sắp leo lên:
- Tiền bạc mà ông nói như lá rụng!
- Cậu cứ trả sao cho phải giá...
- Bán cả cái thân tôi cũng chưa được hai ngàn, lấy gì mà trả! Ông vô xóm Chợ bán cho lão Xâm Tô đi!
Khánh đạp chân nâng, vọt lên yên luôn. Bảy Huần không cười nữa, túm giây cương nói hối hả:
- Thôi thì một ngàn, rẻ như cho rồi cậu à. Không mua tôi chở đi thiệt đó.
- Về quê ông bắn chim sẻ bằng Mô-de à?
- Ồi chào, xuống mấy làng dọc nguồn Thu Bồn đây thiếu gì người rước!
- Họ bắn súng không ai nghe tiếng à? Giấy tờ đâu?
- Cùng lắm, tôi bán cho Việt Minh! Họ đang mua súng ào ào. Tiền trao cháo múc, một phút là xong hết.
- Phải, họ trả ông một cái giấy nợ, đợi khi đánh Tây đuổi Nhật xong hết họ sẽ trả tiền.
Mồ hôi đổ lấm tấm trên trán Bảy Huần. Té ra cậu cử non choẹt nói giọng Hà Nội này cũng trí trá chẳng vừa. Lão phác qua mấy cách xử sự, đều thấy không ổn cả. Bọn Liên đoàn[2] hay khám ghe thuyền tịch thu ngũ cốc, có thể tìm ra súng. Chôn giấu lại nơi xứ núi này, biết bao giờ mới quay trở lên, và đào lên thì bán cho ai ngoài cha con quan phủ? Bán cho Việt Minh thì biết họ ở đâu, đưa tiền không hay lấy luôn?
Thấy lão vẫn nắm cương nhưng thần mặt ra, Khánh chơi luôn lá bài quyết định:
- Nói vậy chớ tôi mua súng cũng phải giấu kỹ như ông, đố dám hở cho ai thấy...
- Sao vậy?
- Ông không nghe Việt Minh đem quân về xung quanh núi Linh Lâm à. Giữ súng của Tây, họ tịch thu còn đỡ, sợ họ ghép cho cái tội tay sai thực dân thì mất cái chỗ đội mũ!
Bảy Huần lắp bắp:
- Thôi cậu đưa năm trăm, lấy đi!
- Hai trăm.
- Công tôi cất giấu bao nhiêu lâu... Bốn trăm là cho không rồi...
- Tôi còn lưng vốn hai trăm rưởi, đưa hết cho ông. Coi như đánh bạc với trời!
Khánh kéo cương cho ngựa quay đầu, thúc hai gót, vừa nghe gọi với sau lưng:
- Lát nữa cậu qua lấy hay tôi đưa tới ấp?
Khánh ngoái cổ lại:
- Ông tới ấp lấy tiền luôn chứ!
Tám giờ tối, Bảy Huần khệ nệ vác sang ấp quan phủ một bó nặng, trên lưng thêm một cái gùi nhỏ. Khánh đóng cửa buồng xem súng thật kỹ, đếm đạn, trao tiền, mời lão về ngay để khỏi nghe lão kể ơn nghĩa. Không lau bớt dầu mỡ, anh đưa súng đạn ra sau dương, thả xuống một hố đất nẻ, gạt lá khô lên phủ dày, cười một mình khi nhớ lại cuộc đấu trí ban chiều.
Trưa hôm sau, khi chiếc đò dọc có mui nhổ sào rời bến đồn điền xuôi sông Linh, chở theo thầy quản lý Huần với những hòm xiểng cuối cùng, chiếc xe hơi hòm kín sơn đen của phủ Đỉnh rời đường 56 rải đá rẽ sang quãng đường vào ấp. Bà Ba Mỹ Duyên đang ngủ gật dựa vai chống bị xe xóc mạnh giật mình mở mắt nhìn quanh ngáp rút ngay cái gương con trong ví đầm ra soi cười khẽ:
- Để đó mình coi, em làm dâu bà Cả cứ là ngọt hơn đường cát mát hơn đường phèn!
Chú thích: [1] Đơn vị đo lường địa ph ương bằng 24 hoặc 30 lon ống sữa bò
[2] Tổ chức độc quyền thu mua lương thực của Nhật