- 13 -
Đợi nhắc đến lần thứ ba, Mỹ Duyên mới khép nép ngồi ghé xuống chiếc ghế dựa đặt trước cái đi-văng kiểu Tây, trên đó bà cả ngồi chễm chệ. Cô Huyền Tâm đặt ghế ngồi phía chân đi-văng, ở vị trí con ngồi hầu mẹ. Cả hai mẹ con đều diện như bà hoàng với áo dài gấm Thượng Hải, quần cẩm châu trắng, hài cườm, vòng xuyến đầy tay và nhiều lớp kiềng vàng trên cổ. Ai tinh mũi có thể đánh hơi thấy mùi hạt tiêu từ áo quần họ bốc ra: băng phiến dạo này khó mua, chống gián nhậy bằng hạt tiêu kiếm ngay tại chỗ rẻ hơn. Trời nóng, cả hai bắt đầu đổ mổ hôi.
Trước mặt họ, Mỹ Duyên giống hệt một cô gái thất nghiệp đến xin làm người ở.
Bước xuống xe hơi, Mỹ Duyên đợi mãi mới được bà Cả buông một tiếng lạnh lùng: “Chào cô Ba!”. Bà ngoảnh đi ngay, rít răng quát người nhà dọn chỗ cho quan ngơi. Tuyên chiến rồi đây. Xin nghênh chiến - Mỹ Duyên cười thầm khi theo chị ở sau nhà rửa mặt, tẩy sạch các thứ phấn son. Nàng vào buồng lột hết hoa tai kim cương, dây chuyền mặt ngọc, đồng hồ vàng, thay mặc bộ áo trắng quần đen đã dùng ở Hà Nội khi đóng vai chị Nết vợ anh Khánh. Trong khi ông phủ nóng nẩy vẫy Hai Khánh ra buồng khách để hỏi chuyện làm ăn nàng nhờ chị ở vào thưa bà lớn cô Ba xin vô hầu chuyện, và nghe rõ giọng Huế trong buồng bà lớn nói to: “Biểu cô Ba vô!”.
Bà lớn nổ súng phủ đầu:
- Cô Ba quen ở nhà lầu, đi xe hơi, nằm quạt máy về chỗ quê mùa chắc là chịu không nổi mô hè?
- Dạ bẩm bà lớn, em không dám...
- Nói chi mà khiêm cung quá rứa, cô kêu tôi bằng chị là quá rồi. Biết có được làm chị hay không...
Mỹ Duyên cúi mặt, chửi thầm con mẹ không biết liệu hồn cứ cố gây sự.
- Dạ bẩm bà lớn, em hiểu phận em lắm chớ. Em con nhà mồ côi cha, bơ vơ đất khách quê người, mong được chỗ gửi thân là may. Quan lớn trị nhậm xa nhà thiếu người hầu hạ, cho em vô chỗ phú quý, thiệt là em có phước...
- Cô nói rứa là quá. Vợ cả với vợ ba, cho dù gốc tích sang hèn khác nhau, cũng là chị em hết thảy chớ.
- Dạ bẩm, bà lớn thương em bà lớn dạy vậy, thiệt tình em đâu dám. Quan lớn với bà lớn kết duyên với nhau là nhờ cụ lớn Thượng rủ lòng thương, đủ thứ lễ nghi cưới hỏi. Còn cái thân em... xin bà lớn tha lỗi... mang tiếng lấy chồng mà chẳng có giá thú, coi như má em bán con làm nàng hầu...
Mỹ Duyên úp mặt vào cái khăn tay vừa rút vội, bắt đầu sụt sịt:
- Quan lớn với bà lớn thương ngày nào... em ở được ngày đó... hết thương... thì em lại tứ cố vô thân...
Duyên cảm thấy rõ nước mắt mình trào ra thật. Quái lạ, mình chỉ giả bộ thôi mà, mình nhập vai quá sâu làm gì... Một nỗi căm giận dữ dội từ từ bốc lên chặn ngang cổ khiến nàng nghẹn ngào thật. Con đĩ già chửa hoang kia, tại sao tao phải đóng kịch trước mặt mày? Ban đầu tao tính trổ tài cho mày vào bẫy, giờ mới thấy mày chưa đáng coi tao diễn trò đâu. Hai vợ chồng nhà mày chỉ đáng mỗi đứa một cái tát đổ máu mũi, tao với Khánh sẽ khoác tay nhau ra khỏi nhà này, đi tìm hạnh phúc với nhau...
Thấy người vợ lẽ bưng mặt ngồi im lâu, bà Cả đặng hắng, nói nhẹ giọng hơn:
- Dì đi đường mệt, thôi để dì nghỉ cho khỏe rồi chị em đàm đạo sau. Bày ra quà bánh chi cho tốn rứa!
Cô Huyền Tâm dìu Mỹ Duyên về buồng quan phủ. Bà Cả soạn mâm quà ra xem, gật gù: không phải những thứ đắt tiền nhất nhưng rõ ra người biếu đã cố đón ý chiều lòng. Cô Tâm bước nhanh vào thì thào trong khi cởi áo gấm cho đỡ nóng:
- Cô ta khóc dữ lắm, mạ ơi. Hỏi chi cũng lắc đầu nức nở không nói được.
Cô thở dài. Bà Cả hỏi rất khẽ:
- Coi bộ thiệt hay giả?
- Thiệt chớ mạ (thở dài). Con gái mười chín tuổi lấy lẽ ông chồng bốn mươi sáu, chắc là bị gả ép (thở dài).
- Ép tiền chớ ép chi! Thôi được, hắn chịu phận nàng hầu thì mạ con mình rộng lượng che chở hắn làm phước... Hắn sắm đồ lễ ra mắt cũng khéo đây. Biết mạ con mình thờ Phật, hắn lựa được thứ dễ dùng.
Cô Huyền Tâm trải nhiều năm không về thành phố mua sắm, nay được mẹ giảng cho các mặt hàng vải trên mâm: lụa Bom-bay màu mỡ gà, the La Cải nâu, cẩm tự đen may quần, nửa cân len Pháp thứ thiệt màu boóc-đô, một sợi dây chuyền vàng tây có mặt đúc hình Phật ngồi tòa sen đựng trong hộp nhung, hai hộp trà Long tỉnh. Toàn là những thứ nay rất khan hiếm, giỏi lùng và chịu trả đắt mới mua được. Cô Tâm đeo dây chuyền vào cổ, cầm gương to lên soi, rất bằng lòng với cô nàng hầu biết điều, về sau có xuất gia tu chùa, chắc cô vẫn đeo sợi này được.
Ông phủ mới về đã cho hai người đi mời ông Cửu Áng và thầy Huần. Hỏi sơ qua việc ấp, ông hậm hực. Bọn đàn em dưới trướng ở Linh Lâm quá nhát gan, làm lỡ cơ mưu mà ông dày công sắp đặt. Người nhà về báo thầy Huần xuôi thẳng, ông Cửu xin đến tối sang hầu quan, ông càng cáu tiết.
Bữa cơm chiều ở ấp được dọn sớm hơn ở phủ. Dì Ba lặng lẽ xuống bếp giúp xào nấu, bưng dọn, mẹ con bà Cả đã cởi bỏ hết các thứ giàn cảnh trên người khi đón cô gái nhảy được phong làm dì. Bà Cả không chừa được thói riết róng, chỉ cho thắp một ngọn tọa đăng dầu lửa - thứ đó ở Linh Lâm chỉ bán để rót vào bật lửa từ đầu chiến tranh - gặp cái lừ mắt của chồng, phải gọi thắp thêm cây đèn thứ hai. Trên cái bàn dài, hai mâm cơm được dọn rời nhau. Mâm ông phủ với cậu cử là cơm mặn, có lính lệ quạt và một người ở xới cơm. Mâm chay của mẹ con bà Cả có dì Ba trông nom. Bà vừa thời hết chén cơm to bằng vỏ liến của nhà quan xứ Huế, đã thấy dì Ba giơ hai tay kính cẩn đón xới. Dì đã xin được thụ trai với bà Lớn và cô, ăn ít mà lo hầu nhiều.
Ông phủ lì lì đăm chiêu, tự rót uống liền ba li rượu sâm, ăn lặng lẽ. Cậu cử chỉ uống một li cho phải phép, và cơm với điệu bộ con nhà lành, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc xéo sang mâm đàn bà.
Mỹ Duyên đã trở lại bình tĩnh sau cơn tủi thân và căm tức ngầm, nhìn quanh bàn với cặp mắt chăm nom của nàng hầu. Ở đây là năm con người đồng sàng dị mộng. Ngồi đối mặt với ông cha hờ, Hai Khánh vẫn cao hơn đến nửa cái đầu, đứng lên thì cha đến cằm con. Ông phủ đặt bên Khánh là bức biếm họa dán cạnh tấm bìa lịch in hình pho tượng lực sĩ Hi-lạp. Cô Huyền Tâm là gì nhỉ… một tờ tranh vẽ vụng từ dưới nước vớt lên, vất bên mảnh chân dung vò nhầu của bà mẹ. Thói nghịch quấy của Duyên cứ chực trỗi dậy. Có lúc nàng muốn cười phá lên, cười rũ rượi như vãi sạn vào hai mâm cơm, cuốn người yêu cười theo mình, mặc cho ba kẻ không biết cười còn lại ngồi ngây mặt há mồm. Những người lố bịch chẳng bao giờ biết mình lố bịch. Nếu biết, họ đã chừa được lố bịch!
Cửu Áng đến ấp khi tiếng mõ gỗ trầm trầm của bà Cả đã dội nhanh và đều trong buồng. Sau khi khuyên Mỹ Duyên ăn chay niệm Phật cho mát mẻ con người, bà cả bảo dì Ba đi ngủ với giọng ngọt ngào hơn ban chiều. Duyên bước ra phòng khách, lo trà nước cho ba người đàn ông ngồi họp, cũng để nghe lỏm luôn.
Ông phủ trừng mắt nhìn tay lý trưởng:
- Anh nói lạ vậy? Tụi nó muốn làm loạn cũng phải sợ lính huyện lính tỉnh kéo về chớ. Chưa gì đã rút gân!
- Dạ bẩm quan, con xuống trình huyện xin lính về, quan dạy... dạ bẩm... lính không đủ giữ huyện, lấy đâu đưa lên xứ mọi. Quan dạy bắt tuần đinh đi canh gác, đứa nào bướng cứ gông cổ nó lại. Dạ bẩm, con kêu gác tụi nó tránh trở hết, làm sao bảo đứa này gông cổ đứa kia. Quan ở cao xa soi đèn trời không thấu, chớ con ăn chung ở lộn với dân con biết.
- Anh lắm triện mà cả ngày la lết đám giỗ đám nhậu, nói chuyện ba lơn cười giỡn miết, tụi nó lờn mặt. Bỏ bớt cái điệu lý trưởng bình dân đi, đánh trống họp làng lại, dọa gắt đứa nào theo Việt Minh cộng sản thì cho đi tù rục xương như thằng Chanh đó, tịch biên gia sản...
- Dạ bẩm, con nghe mật báo thằng Chanh về ở đâu gần làng rồi, nó kéo bọn trai trẻ đi làm giặc. Con dò miết mà chẳng biết nó chốn ở núi nào dương nào.
- Họp hết dân làng lại mang theo giáo mác, trống mõ, chia nhiều cánh lùng rừng. Bắt các phường săn đem chó bày theo. Cánh nào gặp giặc thì nổi hiệu báo động cho cả làng xúm vây.
- Bẩm quan, dân làng không phải như hồi xưa nữa...
- Nếu cần tôi xin quân Nhật về đánh giặc. Tôi đang cân nhắc, bởi họ đi tới đâu là làm tam quang tới đó. Giết sạch, đốt sạch, phá sạch, có khi dân bị vạ lây. Anh đi dẹp được lũ thằng Chanh thì tôi khỏi nhờ tới Nhật. Sao?
Khuôn mặt lão lý trưởng vui tính lúc này là sự kinh hãi hiện hình. Đôi má sề sệ thường rung lên trong cơn cười - thật cũng như gượng - đang rung giật vì sợ. Mồ hôi trên thái dương chảy xuống dọc xương hàm. Lão há mồm vài lần như cá lên cạn, không nói thành tiếng.
Cặp mắt ông phủ cứ xoáy vào mắt lão như cặp đinh vít:
- Hồi anh tính đưa bọn Tư Chua, Ba Mít vô hàng hương chức, tôi bằng lòng, nhưng dặn anh muốn dùng ngựa chứng phải vững tay cương. Ai dè anh để cho ngựa nó lôi! Hay là anh muốn trả triện làm dân đen?
- Lạy trời, tôi trả được triện thì xẻ con heo ăn mừng liền ngay! Trên đe dưới búa, hết chịu nổi!
- Tôi chỉ cần ghé qua huyện, nói một câu là anh mất chức. Mà tôi chưa nói. Anh thạo việc, anh cứ phải làm, chưa chạy làng được đâu!
Cửu Áng đã nổi xung. Mắt lão lóe lửa dưới ánh tọa đăng, hai tay chống xuống bàn, thân chồm và cổ rướn như sắp nhào tới cắn lại kẻ đang rứt thịt lão từng miếng.
- Các người coi tôi như chó. Tôi làm chó giữ nhà cho ông lâu rồi. Bắt đi săn tôi cũng đi. Xuỵt đâu tôi chạy đó. Bây giờ cọp vô xóm, ông cũng bắt chó ra cản nữa à? Bắt tôi nạp thịt nữa à? Lính tráng đâu, súng ống đâu hết, lại bắt thằng lý trưởng hai tay trắng đi chọi với cộng sản?
- La hét chán chưa?
- Sợ gì tôi không hét? Việt Minh nổi dậy, tôi chẳng mất đồng xu teng nào. Ai nhiều của mới sợ. Ai chống cộng sản cả đời mới bị họ trị tội. Tôi chẳng dại đưa đầu chịu báng...
- Gầm gừ chán thì im lặng mà nghe đây. Của cải anh ít hơn tôi, nhưng Việt Minh nó truy anh trước, hiểu chưa? Mỗi năm anh kiếm chác được bao nhiêu khoản phù thu lạm bổ? Anh cấp giấy nhập lâm, giấy buôn chuyến, thẻ tùy thân giả, biên lai thuế thân giả, mỗi lần ăn bao nhiêu? Tiền bán rừng, bán từng khúc sông đánh cá, bao nhiêu? Năm kia đề lại về lập biên bản anh hà lạm công quỹ, sau ém nhẹm đi là do đâu? Một đống bản mật báo của anh gửi lên tổng lên huyện, xin trị thằng này, bắt đứa kia, cất trong tủ hồ sơ nào? Tất cả, tôi năm được hết, dân chúng ở đây nắm được hết. Bán sạch nhà cửa ruộng vườn nhà anh mà đền chưa xiết đâu, chưa nói tới cái thân anh có được đầu dính cổ hay không!
Thả phịch cặp mông xuống ghế, Cửu Áng bắt đầu run. Lão thò tay rút một điếu thuốc trong gói MIC trên bàn, đánh diêm châm, nhưng cả que diêm lẫn điếu thuốc đều rung mãi không chạm vào nhau. Ông phủ phải xòe diêm châm cho lão.
Mỹ Duyên ghé xuống bếp trông chừng chị nấu ăn đang hầm nồi cháo với lồng bồ câu ra ràng mới mua dọc đường về ấp, lên đứng chỗ cửa ngang, kín đáo vẫy Khánh ra mé sau. Suốt chiều nay nàng đóng vai bà dì đứng đắn bị xúc phạm vì Khánh đã khuyên ông phủ đừng để dì Ba ở Đà Nẵng nữa, đúng như giao hẹn. Nàng kéo Khánh ra chỗ hiên tối, thơm vội một cái vào má, hỏi khẽ:
- Lão Cửu cuống quýt vậy, có Việt Minh về thiệt không anh?
- Thiệt chớ. Họ mạnh lắm. Để anh nghe tiếp đã...
- Hay anh về Đà Nẵng luôn đi? Anh ở đây em lo quá.
- Chẳng sao hết. Anh không phải là quan, là chủ ấp. Anh là trí thức mà. Để mai ta bàn...
- Hễ thấy Việt Minh chắc thắng, anh theo họ quách!
- Rất có thể!
Khánh lặng lẽ ngồi vào chỗ mình. Cửu Áng đã dịu bớt, tự rót nước uống ừng ực, hút từng hơi thuốc dài. Lão không đủ bản lĩnh để chọi lý tay đôi với ông phủ. Ngay trong quan trường, phủ Đỉnh cũng khá nổi tiếng sừng sỏ chai đá, lắm kẻ tưởng mình túc trí đa mưu đã bị xơi đòn âm của phủ Đỉnh đến liểng xiểng. Tay lý trưởng quèn này sức vóc được bao nả!
- Chẳng phải tôi hữu dũng vô mưu đâu, anh Cửu à. Có uy cũng phải có ân chớ. Nhu thắng cương, nhược thắng cường, rốt cuộc răng cứng rụng mà lưỡi mềm còn mãi, làm quan cai trị hễ quên điều đó thì gãy cổ sớm... Anh nói thằng Ba Mít hay gặp anh hả? Nó trình báo chuyện gì không?
- Dạ, nó cứ nói lơ lửng là gặp thằng cả Chanh ngoài rừng, tuyên truyền phải khởi nghĩa giành độc lập. Nó còn hỏi vay tiền tôi nữa, kêu túng. Tôi... con sợ nó vay cho Việt Minh, không đưa.
- Anh non quá. Cứ đưa, mỗi lần một ít đủ cho nó tiêu năm bảy ngày thôi, mời nó nhậu nhẹt thiệt nhiều. Ăn quen, nhịn không quen, nó mới bu theo anh chớ. Đổ nhiều rượu vô cho nó phun bí mật ra.
- Dạ bẩm, không dám dấu quan, nhà con dạo này chẳng có bổng lộc gì...
- Để tôi giúp. Hễ tôi vắng, anh cứ hỏi cậu cử đây. Cậu lần này về ở lâu hơn, trông coi việc ấp cho tôi, tiền nong thóc lúa được quyền tùy nghi sử dụng, cần trị ai thì cứ tiền trảm hậu tấu, hì hì... mình ơi!
- Dạ.
- Có gì mời thầy Cửu không, khuya rồi.
- Dạ, em đang đợi quan cho phép...
Mỹ Duyên bưng lên mâm cháo bồ câu kèm rượu sâm và mấy thứ bánh làm tại Huế. Ông phủ vui vẻ xoa tay:
- Mời anh, mời cả nhà. Tôi là dân Quảng Nam, dòng dõi nhà bình dân, lấy vợ cả con quan ở Huế mà rất ghét thói lễ nghi kiểu cách của triều đình. Giới thiệu luôn với anh Cửu, cô Ba nhà tôi đây nhũ danh là Mỹ Duyên, gốc Sài Gòn về làm dâu xứ Quảng, học trường đầm, nói tiếng Tây như gió. Tôi từ Hán học chuyển qua Tây học khi đã lớn, theo không nổi nhà tôi đâu...
- Chết, quan cứ giỡn vậy thầy Cửu tưởng thiệt, thầy lại nhờ em làm thông ngôn thì nguy em!
- Hì, hì, muốn thông ngôn phải đợi Tây Đờ Gôn đổ bộ chiếm lại Đông Dương kia... Anh Cửu nè, đức Bảo Đại bây giờ tự nắm quyền bính, nhứt định chèo chống qua được thời buổi thác ghềnh này, tôi tin vậy đó. Tây rất trọng nể ngài. Nhật ít ưa mà không dám động tới ngài, hễ ngài còn thì tôi với anh còn. Uống thiệt tình chớ, đừng đợi mời. Hai, ăn đi con, ăn thiệt tình cho dì mày hết hờn lẫy... Anh Cửu đừng ngại. Hễ Việt Minh làm dữ, anh cứ nộp triện cho nó, khom lưng vái các quan đồng chí mặc khố rận đó, chẳng sao đâu. Diện phục tâm bất phục. Về sau gặp vận hội mới, anh gông cổ các đồng chí giải huyện, thu về mọi thứ, có tôi làm chứng cho. Cậu Cử ở đây, Việt Minh vô nhà cũng phải tiếp rước tử tế, đợi lính về cứu viện...
- Ba ạ, con chỉ sợ họ quyên lúa, lấy ngựa, bắt đi phu thôi!
- Chậc, ngộ biến phải tòng quyền! Con dằng co, cù cưa riết, nó đòi mười mình đưa hai ba, sau này ta lấy lại gấp trăm. Hồi cộng sản dậy ở Nghệ Tĩnh, thiếu gì quan ra cổng nộp ấn tín, rồi đâu lại hoàn đó!
Mỹ Duyên xé thịt bồ câu tiếp vào chén ông phủ, rót đều rượu vào ly cho hai người, chỉ một mình Hai Khánh bị phớt lờ không ngó đến.
Đến nửa đêm thì Cửu Áng đã say mèm và bị quan chinh phục hoàn toàn. Đợi lão lau tay uống trà xong, ông phủ mới như giật mình chợt nhớ, vỗ cái cặp, rút ra mấy tờ giấy đánh máy chữ quốc ngữ và viết tay chữ Hán.
- Chút xíu quên. Anh Cửu bọc triện theo đó chớ?
- Ề, triện, có triện... bốn sào nhứt đẳng điền mới giựt được nó, ai dám bỏ bậy... quan hỏi đố chi vậy...
- Có mấy cái giấy tờ lăng nhăng thôi. Anh coi, làm quan tri phủ hàm Hường lô tự khanh mà phải đi xin lý trưởng áp triện, lạ không. Anh quen ký bút máy hay bút lông?
- Hê hê hê... Lông lu bù mà không viết ra chữ. Viết máy chẳng có, thấy họ cầm mà thèm...
- Tại anh kín tiếng quá chớ. Đây, tôi tặng anh cây bút mạ vàng đây, đồ Nhựt, Pi-lốt hạng nhứt đây. Bình mực bút máy đây nữa. Đừng nói ơn nghĩa, chỗ tôi với anh mà, đường quan với hương quan ở cùng làng với nhau...
Trong khi Cửu Áng ngật ngưỡng ký tên bằng chữ quốc ngữ và phủ Đỉnh tự tay đóng triện, Hai Khánh cầm một bản đánh máy lên xem.
Ấy là đơn thỉnh nguyện của hương chức và toàn thể dân chúng làng Linh Lâm xin quan trên chuyển tất cả diện tích trưng khẩu của tên thực dân La-phác-sơ sang cho quan tri phủ Ưng Viết Đỉnh, nhằm đảm bảo cho dân chúng có kế sinh nhai, thuế Nhà nước khỏi bị thất thu, nền kinh tế quốc gia thêm phần hưng vượng.
Hai Khánh rùng mình. Quả thật phủ Đỉnh là kẻ cao tay ấn, họa chăng chỉ có Việt Minh mới đủ sức đương đầu!
*
Hôm sau, phủ Đỉnh cưỡi con ngựa Hường cùng với hai lính lệ, một đeo súng, một bưng tráp, đi thăm khắp làng. Nếu có đủ hai ngựa ở ấp, chắc Khánh đã phải cùng đi với lão, nhung cậu cử không thể chạy loa xoa theo ngựa được, cậu ở nhà.
Dì Ba nảy ra ý muốn lên dương Nai xem cảnh Linh Lâm. Cậu cử lấy cây súng hơi ông phủ mới đem về ấp, cầm đi theo dì. Mẹ con bà cả nhìn theo bĩu môi: thân đàn ông mà qụy lụy quá vậy, thật khó coi.
Lên đến chỗ vắng, cặp trai gái sà vào tay nhau.
- Gớm, Duyên lườm nguýt anh trông như con khỉ ở Bách thú! - Còn anh cứ hầm hầm như con gấu ngựa! Mà sao lão phủ hôm kia không nói gì chuyện Việt Minh ở quanh đây, anh hè?
- Chắc lão tưởng Cửu Áng viết thư nói quá lên để vòi tiền...
- Anh biết không, đêm qua em thức đến gần sáng. Chút xíu nữa em lén qua buồng anh, hồi lão phủ ngáy thiệt đều. Mà em sọ anh đóng cửa kỹ, gõ kêu không được. Tối nay anh đừng gài chốt trong nghen.
- Chịu khó đi Duyên. Cố giữ vài ngày nữa, em về Đà Nẵng, anh về sau, tha hồ chúng mình làm loạn!
- Thì... loạn luôn bây giờ đã chết ai!
Hơn một giờ sau họ mới đi tiếp.
Lâu nay chim chóc trong vùng không bị bắn, rất dạn người. Khánh lên hơi và nạp những viên đạn di-a-bô-lô, bắn liên tiếp được hai con cu đất béo nung núc. Lò xo cây súng hơi loại tám cân còn rất mạnh. Mỹ Duyên kêu mệt, Khánh đưa nàng về. Đang nổi máu săn bắn, anh lại đi tiếp men các sườn đồi bao quanh khu ruộng ấp. Chim ăn dưới ruộng hay bay lên đậu ở những nơi ấy. Không có túi đựng chim để đeo cạnh sườn, Khánh xách theo cái làn bằng mây, chỉ nửa tiếng sau đã được thêm một gà rừng, hai cu ngói, một cu đất nữa.
Đang rình bắn một con gầm ghì, to bằng con gà choai phủ lông xanh biếc. Khánh chợt thấy ba người từ phía truông Dơi đi về phía mình theo con đường mòn lùa trâu ven đồi. Con gầm ghì giật mình vụt bay. Khánh rướn nhìn theo đường bay của nó, định bám theo. Thằng nhỏ đi trước lên tiếng:
- Chào cậu Hai!
Khánh bật kêu:
- Kìa Cam! Đúng thằng Cam rồi! Em về bao giờ thế?
- Dạ mới đây.
- Hồi ở Qui Nhơn anh thấy đứa nào đang coi ném dao tự nhiên bỏ chạy, phải em không? Anh về hỏi kỹ sạc cho ông cậu một trận ra trò. Lúc ấy đúng em chứ?
Cam chỉ cười cười. Nó không có vẻ gì sợ sệt nữa. Nó quay lại hai người đàn ông lạ mặt, nói chững chạc:
- Đây là anh ruột em, anh Cả Chanh đó, còn đây là anh nuôi em, anh Năm Chò. Người ném dao ở Quỉ Nhơn là ảnh đó.
- Ôi chao, anh Phan Chanh phải không?
- Dạ phải.
Khánh dựng cây súng vào gốc cây, đưa hai tay chụp lấy tay Chanh lắc rất mạnh:
- Nghe tin anh về vùng này, tôi sang hỏi bác gái, bác không nói. Có cái này gửi anh, tôi giữ mãi trong người...
Khánh đưa ra ve dầu Nhị thiên có nhãn bọc ngoài. Chanh bỏ ngay vào túi, nháy mắt:
- Ta vô chỗ vắng nói chuyện. Tôi cũng đem thơ cho anh.
Họ vào một lùm cây xa đường có bóng mát. Khánh bóp cò tống viên đạn lên trời, đưa súng hơi cho Cam xem, đọc lá thư của anh cán bộ Việt Minh Đà Nẵng gửi đồng chí Hai Nết - anh đã lấy cái tên bịa của Mỹ Duyên khi ra Hà Nội ở với anh làm bí danh. “Đồng chí Phan Chanh sẽ trực tiếp giao công tác và kiểm soát mọi hoạt động của đồng chí Nết...”. Khánh chợt cảm thấy chút khó chịu chen vào niềm vui hồ hởi được móc nối. Cùng làm cách mạng vởi nhau, việc gì phải quá phân biệt thượng hạ như thế!
Chanh đi riêng ra một góc hơi lâu. Anh quay lại với tờ giấy ướt có chữ viết hiện trên các góc, cười xòa:
- Đồng chí Khánh được giới thiệu là người kiếm súng rất giỏi. Kiếm giùm ít cây cho đội du kích Linh Lâm nghen. À, nãy giờ quên nói, đồng chí Năm Chò đây là đội trưởng du kích quân ở Linh Lâm. Cai khố đỏ hồi Tây, theo cách mạng khi ở tù, biệt hiệu Năm Phi Đao đó. Ném phi đao rất tài, mà vẫn cứ cần súng...
- Có ngay, anh Chanh! Lát nữa xin giao liền hai súng!
- Giỡn hả?
- Thật chứ anh! Một súng trận Đức, một súng săn hai nòng. Còn cây súng hơi đây nữa, ưng thì đem cho anh em tập bắn!
- Úi mẹ, ông mới về mà sao chở được cả lô súng theo?
- Đi luôn với tôi, anh Chanh!
Khánh đi rất nhanh, cả ba người vất vả mới theo kịp. Đấy, anh em Việt Minh rất cần mình, mới gặp nhau họ đã sửng sốt về mình. Phải cho họ thấy thằng sinh viên này chẳng phải đụt, chẳng phải theo cách mạng trong thế bí! Món quà ra mắt thật là đế vương nhé!
Đến chỗ hố đất nẻ đằng sau vườn chè, moi súng lên. Khánh mát lòng mát dạ khi nghe họ trầm trồ không ngớt. Anh thoáng nghĩ đến cây súng ngắn 7 ly 65 của Ta-kê-đa tặng, tự ghìm được. Cây đó để dành phần mình. Súng ngắn là của người chỉ huy. Mình lại không đáng mặt chỉ huy hơn anh chàng cai khố đỏ này hay sao? Thứ lính chiều chiều lên lô-cốt thổi bài kèn “con bò kéo xe, con bò xe kéo”, cần lắm ta mới dùng chứ mù tịt chính trị... Khuôn mặt đen trũi và lầm lì của Năm Phi Đao cũng chẳng gây được cảm tình gì với anh. Anh Cả Chanh khác nhiều, lăn lộn tù đày khắp nơi, xem ra hiểu đời biết việc hơn gấp bội.
Trong gốc rừng vắng chỗ truông Dơi, có thằng nhỏ Cam gác bên ngoài, ba người đi đến thỏa thuận: nếu thượng cấp cho phép sau khi phủ Đỉnh ra đi đội du kích sẽ đến viết giấy trưng dụng một trăm ang thóc của ấp, ra lệnh cho anh em tá điền trong ấp gánh ra bến, chở đi bằng đò để giữ kín chỗ cất giấu. Hai Khánh sẽ đóng tiếp vai người tin cậy của quan phủ, theo dõi tin tức phía “địch thủ của cách mạng”.
Khánh xách cái giỏ mây đựng chim thong thả quay về ấp, rất bằng lòng với buổi sáng đi chơi. Cây súng hơi cứ để ở ấp, ngựa cũng thế, chưa cần trưng dụng làm gì.
Mỹ Duyên đang hầu cơm chay bà lớn với cô Tâm, Khánh đưa hai ngón tay lên môi, ném một cái hôn thật tình tứ khi Duyên ngửng lên, lại nghiêm mặt xách giỏ chim đến trình bà cả và nghe đủ một bài khuyên cậu cử chớ nên sát sanh quá như rứa.
Ông phủ về nhà ăn cơm muộn. Sau khi đi thăm mấy nhà vai vế nhất ở xóm Chợ, ông cho ngựa lội qua thác Bà-lam tháng này đang cạn, dạo xem khu đồn điền La-phạt chỉ còn một gia đình tá điền trông chừng nhà cửa. Ông tươi tỉnh ra mặt, trong khi dì Ba ngúng nguẩy sai chị ở vào buồng đánh thức cậu Hai Khánh: “Cứ nói chờ cơm quan, rồi lăn đùng ra ngủ khì. Hạng đó là trí ngủ chớ trí thức gì mà khoe hoài!”.
Nhai rau ráu những con chim rừng quay lạ miệng, ông phủ khen Khánh bắn giỏi khiến dì Ba sầm mặt, bĩu môi.
- Cây này của thằng cha sửa đồng hồ ở Hà Lam đó. Nghe nói súng tốt mà ba không mua, chẳng có ai biết xài. Con về ấp, ba mới hỏi mua cho con giải trí. Nó biết luật lệ gì đâu, cho thằng lại nhì ra hỏi giấy phép là nó hoảng kinh, xin bán cho quan liền.
- Ba mua thêm súng bắn thú nữa ba. Nghe nói Nhật bán các thứ súng thu của Tây rẻ lắm. Con dạo quanh rừng thấy dấu hươu nai chi chít, chiều nào voi cũng rống bên kia sông.
- Để súng ở đây ba hơi ngại, đang lúc chộn rộn. Con tính thử...
Dì Ba đang tiếp thịt gà rừng quay cho ông, chêm vào:
- Con cái trong nhà mà quan làm như cụ Thượng về!
Khánh lừ mắt. Duyên nín ngay, đoán mình đóng kịch hơi quá đà. Nàng đưa mắt xin lỗi, nói vội:
- Em chẳng biết đâu việc đàn ông với nhau... Quan đừng dùng nước nghen, em còn đồ tráng miệng nữa.
Đợi dì Ba xuống bếp, ông phủ thấp giọng:
- Ba cũng vô ý, nói thẳng với dì lời con khuyên, dì để bụng giận. Tánh khí đàn bà vậy, con cứ lo đi ít lâu là xong... Súng thì ba mua được. Nhựt không xài súng Pháp, giao hết cho Bảo an binh, mấy cha cầm đầu bán tiêu lần hồi. Có điều, lỡ tụi du kích Việt Minh tới hỏi con đối đáp ra sao?
Mỹ Duyên bưng bánh kem sữa lêa. Ông phủ khen lấy lòng:
- Hồi này mà kiếm ra sữa hộp phải là bực kỳ tài... Con tính kỹ coi nên mua không?
- Nên ba ạ. Voi về phá rẫy dân làng, mình bắn ngã là uy tín lên như cồn, bọn kia không ưa cũng phải kiềng mặt. Súng săn đạn ria thì chẳng dùng vào chiến trận được, lọt vào tay chúng nó cũng chỉ bắn chơi bời. Ba cứ mua nhiều đạn, con giấu kín, lỡ Việt Minh đến thì con chìa súng với vài ba viên đạn ra. Ôi dào, chúng nó lại nổ cướp cò vào nhau thôi, hết đạn là vất súng!
Ông phủ cười to, chòm ria mép nháy lia lịa. Nuốt vội miếng bánh kem, ông vỗ vào cổ tay Khánh:
- Được, ba sẽ gửi súng về. Sáng nay ba đi coi tình hình, thấy chưa gay go như Cửu Áng nó dọa mình đâu. Dân đây sắp gặt lúa tháng năm, chưa nghe chúng nó đòi miễn tô hay giảm tô gì hết. Du kích trốn núp đâu chẳng biết, chớ lão Tư Chua đang đập búa lò rèn lù lù ra đó, hễ thằng Chanh phá quấy thì mình hốt gọn cha mẹ nó làm con tin. Thiệt tình ba không tin bọn cộng sản dám làm loạn năm nay. Hồi Nghệ Tĩnh, hồi Nam Kỳ năm bốn mươi, mình giết như chà kiến, tụi nó khiếp hồn tới bây giờ chưa chắc đã tỉnh. Cho dù đôi ba đứa nóng máu làm liều, mình cũng đè bẹp được. Đang còn Nhựt thì Nhựt trị thẳng tay. Nhựt thua, Đồng minh đổ bộ vô Đông Dương thì Pháp cũng đàn áp lập tức. Hột lúa nằm giữa hai thớt cối xay mà đòi mọc mầm sao cho nổi! Con tạm theo cung cách cây lau, chịu uốn mình mà đừng để trốc gốc, qua cơn gió lại đứng thẳng y nguyên, Rồi ông vẫn cứ là ông; còn thằng rút cục vẫn không ra thằng? Mai ba phải về phủ rồi. Cứ vậy mà tùy cơ ứng biến nghe! Mất gì còn gỡ được, để mất ruộng đất là nhà minh trụi trơn đó!
Khánh lơ đãng cầm cái bánh, nghĩ dài dài, không nghe rõ phần sau. Hột lúa nằm giữa hai thớt cối, hừ... Nhật không trị, Pháp cũng tấn công... Bảo Đại lèo lái, luồn lách, chân nào đạp tới thì ôm chân nấy... Phủ Đỉnh sẽ ghé lấy giấy tri huyện Tây Quảng, về tỉnh đút lót để khoanh hết đồn điền La-phát-sơ... Cửu Áng cứ giao triện cho các quan đồng chí khi gay go, về sau sẽ gông cổ các đồng chí...
Một dòng nước lạnh chảy loang chầm chậm trên lưng Khánh. Ta đã lường hết bấy nhiêu mưu ma chước quỷ chưa?