- 14 -
Đối với những đứa trẻ nghèo lớn lên ở vùng ven núi như Cam, mùa hè là mùa vui và no nhất.
Người lớn có thể nhăn nhó khi gặt lúa tháng năm xơ xác hay khi trời làm hạn hán thiếu nước cấy cho vụ tháng mười, lũ trẻ không để ý mấy. Được mùa hay mất, bữa ăn của chúng vẫn cứ ít cơm mà nhiều khoai, sắn, chuối già, hột mít chẻ đôi. Chúng vẫn ngày ngày thả trâu bò trên các sườn đồi còn cỏ, giao cho vài đứa trông, còn bao nhiêu đi sục kiếm mồi đem về chia nhau. Thằng Cam cũng vậy. Nó giữ ngựa, không được cho đến gần bầy trâu vì hai giống ít ưa nhau, nhưng vẫn thu xếp để được nhập bọn.
Mùa hè, trái cây chín khắp nơi. Dạo quanh một lúc đã được một nón ngửa đầy sim, chà là, ổi rừng, tất cả đều chín mọng sắp rụng. Nắng hè hút khô các khe suối, để lại từng vụng đứt quãng, chỉ cần vài tấm mo cau đủ tát cạn bắt cá. Sau đó, với cái nồi đất mẻ và nhúm muối giấu sẵn trong hốc cây, cả bọn đã có một nồi canh cá nấu với lá lốt, rau ranh, ăn cùng mấy bắp ngô nướng bẻ trộm tận trong ruột một nà bắp nào đó cho vắng dấu. Chim rừng xuống rỉa lá ruộng và bắp rẫy đến nặng diều bay không nổi, ỳ ạch sa vào cả những cái bẫy gài vụng về nhất, nhổ lông xát muối nướng trên lửa than ăn ngon tuyệt vời. Đập được những con dơi ngủ ngày lủng lẳng trên chỗ tối, chúng đem vùi tro nóng một lát, phủi sơ sơ, cắn nhai rau ráu như ổi chua. Chán hết các thứ thì rủ nhau đổi món. Chịu khó bó vài cây đuốc sật, ban đêm kéo xuống bãi dâu ven sông, rung cây cho những con rầy dâu rơi xuống như mưa rào, chụp nhanh, cho vào cái tĩn sành bụng to miệng nhỏ, lát về rưới nước muối rang chín, ăn đến no. Nhận ra khu rừng nào lắm ve ve kêu đến ù tai, chúng rủ nhau tối đi ăn ve...
Từ thành phố trở về, Cam vẫn thuộc nguyên bài ca gọi ve truyền mãi đến nó. Đợi tối hẳn, lũ trẻ nhóm một đông lá khô, thổi bùi nhùi châm vào, xúm ngồi xổm một bầy hình vòng tròn, vỗ tay vào miệng thành tiếng oa oa òa òa, rồi hát rời từng tiếng bài vè ve:
Hu hu ve ve
Xuống đây mà nghe
Ăn xôi ăn chè
Ăn mít ăn me
Không xuống không nghe
Tau đánh mi què
Tau ví chạy re...
Ve sà xuống, ban đầu lác đác, về sau thành bầy rung cánh đảo trên lửa, đáp xuống chung quanh lửa. Mạnh ai nấy chụp cho vào tĩn, cũng rang ăn như rầy.
Riêng Cam một dạo đã chơi trội cho các bạn tròn mắt: nhân dịp ấp ông phủ xẻ thịt con trâu cái rất mập bị cọp bấu đến què, nồi mười luộc lòng đầy những mỡ sáp mà ai cũng gạt ra khi múc nước chan cơm nó đợi sáng sớm mới lén vớt tất cả lớp mỡ đã đông cứng lại được gọi là dầu trâu, gói vào lá chuối, đem ra lập kho chất béo trong rừng dễ có đến một cân. Mỗi lần sắp rang cào cào, châu chấu, rầy dâu, ve ve, nó lại đi mở kho lấy một miếng dầu trâu đem đến, phi cho thơm xong mới rang, ăn ngon như cỗ làng. Các bạn phục sát đất.
Thế nhưng bây giờ Cam không dám chơi như trước. Nó là “dét-tê” của Việt Minh, chuyên chạy giấy theo những con đường núi vắng người nhất từ làng này qua làng khác. Rừng núi chung quanh Linh Lâm có vô số đường: người bứt mây đốt than, trâu kéo gỗ củi, thú rừng kiếm ăn, dấu mòn trong mùa khô này hiện lên nhanh và không biến đi, sau những tháng mưa mới trở lại rậm cỏ.
Ở tất cả các nơi Cam đến, mặt người lớn thường nặng nề, đăm chiêu. Dường như ai cũng thấy mùa hè này nóng bức hơn năm ngoái rất nhiều. Trời nóng, đầu nóng, ruột gan cũng nóng theo.
Vùng này vắng bom đạn nhờ xa bờ biển, nhưng tin khắp nơi đưa về theo đường sông đều đẫm mùi khét lẹt của khói lửa và mùi tanh của máu người. Cam dỏng tai nghe những chuyện dễ sợ hay khó hiểu của các bác và các anh chị bàn với nhau. Từ lâu nó đã chừa nói leo. Nó chỉ nghe, nghĩ, cố nhớ phần nào các chuyện hay mà cũng cố quên bớt những hình ảnh kinh khủng cho đêm ngủ đỡ giật mình.
Chiến tranh Thái Bình Dương đang lên tới điểm đỉnh. Bọn Nhật đổ ra từng tấn giấy bạc năm trăm hình rồng xanh mới in sau đảo chính, vét hết tất cả những thứ ăn được. Bọn Liên đoàn chặn đường soát chợ cướp từng cân gạo, ống đậu. Các đảng phái thân Nhật đi hò hét khắp các bên xe bãi ga, vừa chửi nhau vừa gọi trai tráng đi lính. Mấy lão chức sắc đạo Cao Đài mỗi lần cúng lại kêu gọi tín đồ phò đức Cường Để sắp từ nước Đại Nhựt Bổn về cầm quyền, số đảng viên Đại Việt và Quốc dân đảng được Nhật thả về đang hối hả tìm nhau và giành ghế. Rối tinh rối mù. Trên cái sân khấu mới dựng vội sau đảo chính, liên tiếp hiện và biến những con rối lao nhanh vào nhau ẩu đả giành ăn. Đã là rối thì chỉ giả chết khi làm trò.
Bên dưới sân khấu, những người chết thật đã nằm la liệt, ngày càng chồng chất thêm. Bãi xác trải rộng ra mãi trong nạn đói. Xe lửa Nam Kỳ đốt thóc lúa thay củi chạy máy, còn ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ đang rải đầy những bộ xương phủ da đen đã co quắp hay còn thoi thóp. Mỗi người dân từ ngoài Bắc chạy vào đến phía Nam đèo Hải Vân lại kể thêm hàng loạt tin mới rùng rợn hơn tháng trước, tuần trước, hôm trước. Nghe một lát, người cam phận nhất cũng muốn hét lên một tiếng xé ruột:
- Chẳng lẽ gục đầu chịu chết hết hay sao!
*
* *
Cả Chanh đã thấy và nghe những điều ấy khi xuống Hội An báo cáo với Ủy ban khởi nghĩa của tỉnh. Anh mang theo rất nhiều ý kiến của đội du kích Linh Lâm cần “thỉnh thị thượng cấp”, nhưng tất cả đều trở nên nhạt thếch nhạt phèo trước cái cảnh hàng triệu con người chết gục ở đầu bờ ruộng đang trỗ hay lên đòng. Chỉ đọng lại một thôi thúc dữ dội: cần đánh chiếm ngay huyện Tây Quảng.
Chanh cùng anh em du kích tin rằng cấp lãnh đạo huyện và tỉnh sẽ ưng ý ngay. Ta đang kêu gọi nổi dậy. Cơn dông nghẹn ứ đang đòi một tiếng sấm mở màn. Tiếng sấm Tây Quảng sẽ nổ dây chuyền trên đất Quảng Nam. Mưa dông đổ xuống, khí trời dễ thở hẳn đi, người với cảnh sẽ ồ ạt vươn lên trời xanh...
Cuộc họp diễn ra trong nhà một chị cơ sở mé trên thị trấn Vĩnh Điện. Không có trăng sáng trên sông và nồi cháo cá thơm ngon trên đò, nhưng anh Xáng dân chài và anh Quý - Xứ ủy viên đều dự, thêm vài đồng chí nữa Chanh chưa biết mặt.
Anh Bảy Quý vẫn quen nghe nhiều nói ít. Anh Tô Xáng cứ vặn vẹo tới tới:
- Lấy thành dễ, giữ thành khó. Đánh xong các đồng chí liệu giữ được không?
- Chúng tôi đánh để gây tiếng vang, lấy súng đạn. Đốt huyện đường rồi rút!
- Quân Nhật hay lính tỉnh kéo lên, đuổi theo, các đồng chí chống cách sao?
- Chúng tôi rút vô căn cứ trong rừng đánh tiếp.
- Dự trữ lúa gạo được bao nhiêu mà vô rừng?
Chanh nín lặng. Chưa có hột lúa nào trong cả hai căn cứ. Anh vớt vội:
- Cần thì lên núi cao, lên tới vùng Ngọc Linh...
- Đồng bào trên núi đã sẵn sàng đón du kích chưa?
Càng bị bắt bẻ Chanh càng đuối lý. Anh nói liều:
- Anh em ta ở Ba Tơ cứ đánh nhào, đâu có tính tới tính lui!
- Chính các đồng chí Ba Tơ dặn tụi mình phải tính toán kỹ lưỡng hơn. Anh Quý đây đã đi với du kích Ba Tơ nửa tháng.
Chanh đã nóng mũi thật sự, nổi gắt:
- Ít nhứt chúng tôi cũng dám hành động, còn hơn các nơi khác im xo không rục rịch. Ngồi nói lý thuyết suông hoài.
Anh Quý nãy giờ chỉ nghe, bỗng chen vào một câu rất nghiêm:
- Đồng chí Chanh thấy tất cả các việc ta làm trước khi nổ súng đều là lý thuyết suông, phải không?
Chanh tắc họng. Nếu ai khác quất ngọn roi ấy, có thể anh còn cãi chày, cãi cối, nhưng trước mặt anh Quý bậc thầy mà tên tuổi đã vang dội khắp các nhà lao... Chanh cúi mặt lặng cá hồi lâu trước khi nói:
- Xin lỗi các anh, tôi sốt ruột không chịu nổi...
Các anh kia đưa mắt nhìn nhau. Anh Xáng buông rầu rầu:
- Tụi mình còn sốt ruột gấp mấy. Có điều Đảng mình trải qua mấy cuộc khởi nghĩa non ở các nơi rồi, có kinh nghiệm rồi, lần này quyết làm chắc ăn trăm phần trăm chớ không để cù cưa bạc nhạc đâu.
Chị chủ nhà bưng lên một mâm chè, thứ chè nếp nấu với đường đen rất đặc gọi là cháo đường, bỏ thêm nhiều gừng và một chút muối cho đậm vị. Câu chuyện xoay sang nạn đói. Mấy năm nay ghe bầu chở gạo Nam Kỳ ra ít, Quảng Nam thiếu gạo nhưng có khoai sắn bù vào, không đến nỗi đói. Vụ gặt tháng năm vào cỡ trung bình, các huyện phía Bắc được khá hơn, huyện Tây Quảng sẽ dư thóc vì thuyền bè xe cộ khó khăn không chỏ xuống bán mé Tam Kỳ được.
Đợi mọi người ăn xong, chị cơ sở mới dọn mâm, pha nước, bày ra giữa chiếu một bộ bài tứ sắc còn mới và chia luôn cho mỗi người một tay bài, ném thêm vài cụm bài rác như đang dở ván, cười cười:
- Có hai người lạ mặt vô làng hỏi thăm nhà ông Sam. Dạo này mật thám của thằng Ký Xuân bắt đầu đi rình rồi, các anh cầm bài lên đi.
Chó sủa dồn ngoài ngõ. Chị ra sân mắng chó, hỏi khách mấy câu, dẫn vào: anh bí thư huyện ủy Tây Quảng mặc như thầy lý lên quan, cùng một đồng chí bảo vệ mặc sơ-mi soóc như là thủ lãnh thanh niên. Anh Quý vỗ đùi khoái trí:
- Tưởng cậu mắc kẹt đâu rồi! Hay lắm, đang bàn đại sự ở Tây Quảng đây. Cởi áo, quạt cho mát, uống nước, rồi ta tính kế đánh lấy huyện!
Anh bí thư huyện ủy đang chào hỏi, bỗng nhìn Chanh chăm chú:
- Ủa, bác Tư xuống hồi nào? Anh em nói bác đang rèn gươm giáo trên Linh Lâm mà!
Cả Chanh nóng bừng mặt, chỉ lắc đầu. Chung quanh cười ồ. Không phải lần đầu anh bị lầm với cha. Hai cha con cách nhau chẵn hai mươi tuổi, mặt và vóc người rất giống nhau, sau năm năm tù và những tháng vất vả gần đây anh già sọm đi và trông lại càng giống. Ngay ở Linh Lâm, đôi cậu du kích trẻ gặp lúc đèn lửa chập choạng đã lẫn lộn giữa hai cha con.
Anh bí thư biết mình hớ, chữa vội:
- Mới ngoài nắng vô, mắt thấy toàn đom đóm bay. Cũng tại cậu giống ông bác quá thể!
Nghe nói đội du kích đề nghị đánh chiếm huyện lỵ Tây Quảng, anh cười:
- Muốn lấy thì mình lấy cho, khỏi cần du kích Linh Lâm. Tri huyện đang nhấp nhổm chạy trốn. Ta nắm được tay đề lại với đội lệ. Lính huyện đập bệnh nằm nhà một số, nay còn mười một, có một cơ sở, ba cảm tình. Thằng cai Dương hay cướp giựt đàn bà đi chợ thôi, không dám chống ta. Tức cười, tri huyện bảo nó đem súng ra bắn thử, viên đạn thứ ba mới nổ bị toác vỏ mắc trong nòng. Thử cây khác bị văng ốc vít trầy mặt. Vợ nó tối về làm gà tạ ơn cô bác phù hộ cho chồng thoát nạn bắn súng! Còn ở huyện chín súng mút với anh-dô, hai mươi hai đạn, nhưng chỉ dám vác chớ không ai dám bắn!
Đến lúc này Cả Chanh mới thấy mình quả là ếch ngồi đáy giếng. Còn may hai anh Quý và Xáng không nhắc lại các lý lẽ rất hùng hồn của anh ban nãy, mà chăm chú nghe báo cáo về tên quản Hưng đang cố ngoi lên. Tên này trước ở mật thám, chuyên tra tấn tù chính trị, nay được Nhật giao chỉ huy đội Bảo an binh của tỉnh, hơn một trăm đứa có sáu cây ép-en[1] và hai moóc-chê 60[2], súng đạn đều tốt.
Quản Hưng biết mình nặng tội, lại muốn nhân dịp chộn rộn này để vọt lên tới lãnh binh, án sát, chửi và chống Việt Minh rất hăng. Hắn tát lính đổ máu mũi như sĩ quan Nhật, nhưng cũng thưởng nhiều, cho lính tự do kiếm ăn nhiều, các quan phủ huyện đều gờm lính quản Hưng. Mới cách đây vài hôm, tỉnh cấp gạo chậm sao đó, hắn cho quân chặn cướp luôn hai chiếc ghe chở gạo của bọn Liên đoàn chỉ đưa cho mấy đứa áp tải một giấy biên nhận ký tên: “Huỳnh Hưng, hung thần xứ Quảng”. Hắn được tên chỉ huy Nhật kiêm chức “cố vấn” của quan Tổng đốc rất tin cậy. Áng chừng có một phần ba số Bảo an binh trung thành với quản Hưng, dám đánh nhau với Việt Minh.
- Coi đó Chanh, đội du kích của cậu có thể đụng đầu thằng việt gian thú dữ. Chơi nổi không?
Chanh bẽn lẽn nhận rằng du kích Linh Lâm còn quá ít và quá yếu.
Hội nghị bàn tiếp hàng chục việc phải làm tại khu vực Linh Lâm, Chanh không được phép ghi chép, chỉ bấm ngón tay nhẩm đếm đến thuộc lòng, mồ hôi vã trên trán mỗi lúc một nhiều. Đến cuối, anh lại thêm một lần sửng sốt khi anh Xáng trịnh trọng báo tin Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ định đồng chí Phan Chanh làm phó bí thư huyện ủy Tây Quảng.
Vốn quen khép mình vào kỷ luật, Chanh không cãi, chỉ nghĩ: “Các ảnh lầm rồi. Mình gay go hung rồi...”.
Tờ biên lai thuế thân của anh từ Qui Nhơn mang về được thay bằng giấy chứng nhận là nhân viên kiểm lâm đang thừa hành công vụ tại huyện Tây Quảng cùng với thẻ tùy thân ghi tên là Phan Thanh Trà. Anh thay mặc một bộ áo quần vải xanh biển như kiểm lâm được phát, trên vai có mấy vết nhựa cây đen. Người lái xe khách lên xuống Linh Lâm mỗi tuần hai chuyến sẽ dành chỗ và chuyển hàng cho anh khi thấy những vết ấy.
Cả Chanh tính trước sẽ đi vắng ba ngày, xuống Hội An họp và về ngay, nhưng anh mất thêm hai ngày nữa để cùng anh bí thư huyện ủy đi gặp một số cơ sở Việt Minh. Đã có giấy tờ đàng hoàng, anh không phải cuốc bộ và vòng trong xóm tránh các trạm gác nữa, đôi lúc còn lên giọng nạt nộ vài nhóm tuần đinh mù chữ bị buộc phải cầm gậy ra canh ở điếm đầu làng, hễ thấy tờ giấy đánh máy đóng dấu son đỏ choét là cho đi ngay.
Anh bí thư đưa Chanh đi thăm bốn chính trị phạm từ Đắc Tô, Kon Tum, Ban Mê Thuột về huyện Tây Quảng sau đảo chính. Hai anh vừa về đã họp ngay thanh niên trong bà con họ hàng, tuyên truyền Việt Minh rầm rộ, bọn tổng lý hoảng hồn lên báo quan nhưng chưa dám động tới họ. Một ông nhà giàu bị đưa đi an trí Đắc Tô vì cho con đi học lớp thông ngôn của Nhật, nay đang vênh váo trừng trị đứa này che chở thằng kia.
Người thứ tư là anh Ba Mậu. Chanh quen anh trong nhà tù Kon Tum, được anh dạy văn và toán trong gần một năm. Đã trọng đạo phải tôn sư, Chanh lễ phép ngồi nghe anh lên lớp như đang dạy học trò ở Đà Nẵng.
- Tình hình này phải tránh manh động đồng chí Chanh ạ. Trình độ dân chúng còn thấp kém quá, chưa hiểu nổi cách mạng đâu, nói cộng sản họ còn tưởng cộng cả vợ chồng, nói cộng hoà họ hiểu là dồn của lại đem chia đều ra. Trước hết phải nâng cao trình độ dân chúng...
Đến lúc này, ngồi trước ông thầy dạy chữ đầu hai thứ tóc, Chanh mới hiểu mình vì sao mình phải làm phó bí thư huyện ủy. Bởi vì anh dám khởi nghĩa.
*
* *
Trong khi Cả Chanh đi vắng, anh chàng Năm Phi đao đã bốc máu làm tào lao.
Năm Phi đao gọi đội du kích vào họp ở căn cứ A nói:
- Anh Cả đi vắng rồi. Ảnh là đại ca của tao, gì gì cũng gương mẫu hạng nhứt. Kẹt cái là ảnh làm gì to lắm trong Đảng Cộng sản Đông Dương. Chưa biết hả? Cộng sản là làm cách mạng cả thế giới, đưa nước mình lên hùng cường cỡ như Anh, Mỹ, Nga vậy đó. Ảnh lo công chuyện cả năm xứ Đông Dương. Anh thấy tụi mình ở đây dốt quá ư dốt, về dạy dỗ cho khôn ra. Bây giờ khôn rồi, mình tự nghĩ mà làm cách mạng chớ. Cũng như tao bày cho bay tập bắn vậy, tao có bắn giùm bay được đâu!
Lý lẽ của Năm Phi Đao rất dễ hiểu và đầy sức thuyết phục, anh em gật đầu cả.
Việc làm cũng đơn giản thôi. Kéo du kích tới ấp phủ Đỉnh tịch thu hết số lúa tô vụ tháng năm vừa gặt xong chở về căn cứ B để anh em mình ăn tập thả sức, khỏi bị người nhà cằn nhằn mỗi khi xách gạo hay khoai khô bọc theo.
Anh em khoái hết mức nhưng chưa quen vỗ tay. Anh đội trưởng tập vỗ tay cho đội, dặn rõ đó là kiểu quốc tế chứ chẳng phải lề thói thực dân đâu.
Trong đội chỉ có Tám Doãn hơi ngờ ngợ. Cậu trai chống bè này còn nhớ lời anh Cả Chanh dặn khi ra đi: việc lấy thóc của phủ Đỉnh phải được thượng cấp cho phép, đợi anh về sẽ hay. Năm Chò cười xòa, nheo mắt và thấp giọng:
- Ảnh là ông chánh trị, phải nói vậy mới đúng chánh trị, hiểu chưa? Tụi mình là quân sự, cứ làm tới theo kiểu quân sự, cái gì lợi cho đánh tây đuổi Nhựt coi như xuya!
Chừng ba giờ chiều, đội du kích kéo sang ấp phủ Đỉnh. Cách cổng ấp vài trăm thước, Năm Chò cho dừng lại, xếp hàng đôi và hô đi đều tuy đường lắm ổ gà, anh em cứ phải nhìn cắm xuống chân. Ba tiểu đội đều mang tất cả vũ khí: cây ná với ống tên đeo trên lưng, giáo hoặc mác vác vai, một số có thêm dao găm gài bên lưng. Tiểu đội Một gác cổng và đi kêu dân xóm ấp gánh thóc. Tiểu đội Hai dàn hàng ngang trước sân chính đường, gươm giáo sẵn sàng chiến đấu. Tiểu đội Ba rẽ vào xúc thóc khi có lệnh. Mỗi tiểu đội thiếu vài người đã lủi trốn dọc đường vì thấy làm găng quá, sợ về sau phủ Đỉnh sẽ đưa lính về gông cổ cả nhà. Không sao, đội du kích vẫn còn đông và hăng lắm.
Bầy chó bảy tám con xổ ra cổng sủa vang trời. Cô Huyền Tâm đang thu áo quần phơi ngoài sân, thấy một người mặc quần áo lính đeo súng đi vào, theo sau có một tốp tuần đinh. Cô hỏi:
- Anh ở chỗ quan phủ về à? Có thơ quan không?
Chó sủa quá ồn, lấp mất giọng Huế kẻ cả. Anh lính nói gì chẳng nghe được. Bà Cả bước ra thềm gọi:
- Đứa mô ra đánh chó, lính quan về tê tề...
Năm Chò vừa muốn thị oai, vừa cáu lũ chó nhà giàu cứ chồm tới, đưa tay giật cây súng săn hai nòng trên tay Tám Doãn, lùi mấy bước, bẻ mấu cò một bên nòng, nổ luôn một phát đạn ghém giữa bầy. Con chó lài đầu đàn lăn gô ra, hai con nữa vừa lê vừa gào. Mẹ con bà cả đâm đầu chạy vào buồng, người ở cũng chạy táo tác. Hai Khánh mặc py-gia-ma bước vội ra, trong khi Năm Chò nói dõng dạc:
- Chúng tôi là bộ đội Việt Minh đến trưng dụng lương thực nhà này...
Khánh đã sẵn sàng đón anh em tới, nhưng rất bực khi thấy Năm Chò bắn chó. Anh cố làm ra vẻ sợ sệt, vào trình bà Cả. Bà đang xoa nắn cô con gái lên cơn đau tim, miệng niệm Phật liên hồi: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát... Thôi thôi cậu cử làm răng đó mược cậu... Nam mô bồ đề bồ tát ma ha tát...”.
Khánh dẫn anh em vào lẫm lúa. Trong có bốn cây thóc cao, mỗi cây độ trăm rưởi ang. Anh hỏi khẽ Tám Doãn:
- Anh Chanh về chưa?
- Chưa. Anh biểu đợi cấp huyện cho phép, mà anh Năm cứ kêu đi...
- Kiếm đủ ghe chở chưa?
Tám Doãn ngẩn ra. Chưa hề nghe anh Năm tính chuyện thuyền đò gì cả. Lại chạy tìm nhau, hối hả cho người lên bến vạn. Năm Chò dẫn tốp này đi, lát sau lại nghe nổ đoàng một tiếng súng trường Đức chỗ xóm Vạn. Khánh bật chửi thề. Giao súng cho tay khố đỏ này, nó xài đạn như đốt pháo Tết!
Rốt cuộc rồi cũng chở được chừng trăm rưởi ang thóc. Khi bốn con đò chống ngược sông Linh qua bến Vạn, Năm Chò lại thị oai bằng ba phát súng trường nữa bắn lên trời, trong khi đồng bào đổ ra xem Bộ đội Việt Minh đứng chen đầy bờ sông. Mấy cậu du kích trước đó vài tiếng còn băn khoăn chưa biết nên lộ mặt hay chưa, lúc này cầm cây mác đứng hiên ngang trên đò, không nghe rõ nhưng biết dân làng đang trầm trồ nhắc tên mình.
Căn cứ B mới làm nhà kho, chưa có tấm cót nào. Lần này Tám Doãn không để Năm Chò đi nổ súng trưng dụng cót nữa, bấm mấy anh em chạy về vác đến. Các bác chống đò được tự do vào chỗ doanh trại của bộ đội trong khi gánh giúp.
Đến sẩm tối thì tam xong mọi việc, và đêm ấy dân làng biết hết tên tuổi và chỗ ở của đội du kích Linh lâm. Họ kéo đến nhà các đội viên du kích - vẫn phải về nhà kiếm cơm tối như thường - tán chuyện râm ran đến khuya. Ông Xâm Tô rời bàn đèn thuốc phiện, cho con thắp đuốc đi mời “Tư lệnh bộ đội Việt Minh” đến nhà đãi một tiệc túy lúy với món ăn Tàu và rượu chai Quân thắng trận. Ông Cửu Áng chạy một vòng qua các nhà khá giả trong xóm, quyên góp được một bò ba heo để khao Việt Minh, muốn ăn lúc nào thì cứ đến chuồng mà bắt. Sau đó ông chong đèn viết tờ mật báo, cho con luồn đường tắt đem xuống huyện lúc gà gáy đầu.
Chỉ trong một ngày tin đã loan đi dọc đường 56, thấm nhanh vào các làng xóm hai bên đường: Việt Minh khởi nghĩa chiếm Linh Lâm rồi! Vài ngày sau tin mới xuôi dọc sông Thu Bồn, bởi các chủ đò dọc nấn ná ở lại Linh Lâm coi thử Việt Minh ra sao, sông nước có bị ngăn cấm không.
Từ nhà anh Ba Mậu đi ra đường 56 đợi đón xe ngồi nghỉ trong quán nước, Cả Chanh và anh bí thư huyện ủy được ông già bán quán báo ngay tin sốt dẻo:
- Chưa chắc xe lên đâu mấy anh, họ sợ tên rơi đạn lạc. Việt Minh nổi dậy chiếm hết tổng An Sơn, không biết à?
- Ôi, thiệt sao bác?
- Sáng giờ cả chục người trên đó xuống nói. Quân lính đâu trên núi kéo về bắn súng kêu loa rầm rầm, thu lúa nhà giàu chia cho dân nghèo. Chỗ ấp ông quan gì đó dám chống, họ bắn nhào luôn ba mạng. Bây giờ họ lập tân tỉnh từ Huề Bình trở lên, trí súng, đắp đồn, Nhựt lên là oánh!
Vài người trong quán cũng góp thêm những chuyện được cam đoan là do bà con xuống kể lại: “Việt Minh tế cờ, khao quân, rước thuyền bắn súng trên sông Linh có rất nhiều phu theo gánh gạo, xếp hàng duyệt binh đi đều rắp rắp như lính oong đơ hồi Tây”.
Cả Chanh sốt ruột không chịu nổi, kéo anh bí thư ra đường. Họ đi bộ gấp lên Linh Lâm. Anh bí thư huyện cởi áo dài vắt vai, tụt guốc ra xỏ vào cán dù cùng với khăn xếp, từng lúc chạy lúp xúp mới theo kịp anh kiểm lâm mặc đồ xanh. Cậu bảo vệ đi trước họ chừng năm chục thước, xách cái giỏ đựng nải chuối và bó hương.
Cách bến phà Huề Bình vài cây số, họ ghé vào quán tránh cơn mưa rào và thăm dò tình hình. Mấy người đi chợ Huề Bình vừa về đến đấy, nói ở chợ chẳng có gì hết, chỉ nghe đồn trên Linh Lâm có Việt Minh thổi kèn bắn súng.
Anh huyện ủy viên trong xóm lẻ mé dưới Huề Bình cũng chẳng nghe và thấy gì cả. Năm Chò không đến trong ngày hẹn liên lạc hôm qua, chắc trên Linh Lâm có động.
Sau nhiều năm đi xa, Cả Chanh không nhớ đường mấy nữa, chỉ một lần được Sáu Cam dẫn đi tắt núi xuống Huề Bình. Lần này tuy đủ giấy tờ nhưng anh vẫn nhắm hướng vượt năm cây số núi về làng, tránh bất trắc. Lính địch có thể ngược sông Linh đánh úp đội du kích của anh, dân các xóm dọc đường 56 không thấy là phải.
Họ lạc quanh quẩn khá lâu trên dương Cốt, nơi có hai bộ xương voi bên nhau và cái miếu thờ “nghĩa tượng” lút trong rừng rậm. Đến khi đã mỏi rụng đầu gối, Chanh chợt thấy lấp lánh dưới dốc dòng nước rộng và cạn của khe Cốt. Khe này chảy vào sông Linh ngay chỗ bến Vạn.
Trên bãi cát hẹp, bên khe có những dấu chân cọp to bằng bàn tay xòe, tiếp đó là những dấu ướt in trên đá chưa khô hẳn. Cậu bảo vệ chưa từng ở núi, xanh mặt tìm vội một cây gì làm gậy giữ thân. Chanh lắc đầu:
- Nó xuống uống nước, đi cách mười phút rồi. Kệ cha nó.
Mặt trời sắp lặn họ mới về đến lò rèn ông Tư lúc này vắng tiếng búa. Chanh rón rén lách qua vườn, suỵt vỗ con chó Dồ cho nó im, đến dòm vào lò rèn dựng tách ra khỏi nhà chừng mươi thước.
Gần như cả đội du kích đều có mặt ở đấy, đang ăn cơm. Trên sân, trong nhà, cả ngoài bãi cỏ phẳng gần lò, bày ra sáu cái nong với rất nhiều chén đĩa tô chậu, cả những tấm lá chuối đầy tú hụ thịt luộc và ra chuối rừng. Năm Bưởi cùng mấy cô nữa, mồ hôi ướt sũng lưng áo, đang tiếp thêm cơm, rau, những chậu thức ăn từ ba cái bếp đun nồi to gần chỗ khe Hội.
Quái lạ, những gì đã xảy ra trong năm ngày anh đi vắng?
Một người đang ăn chợt ngửng khuôn mặt đỏ ửng lên trông thấy Chanh đứng sau bụi cây thấp, reo to:
- Bác Tư kiếm thêm nước trắng về rồi. Gớm, đợi miết!
Cửu Áng! Cửu Áng ngồi ăn nhậu với đội du kích! Hay mình trông gà hóa quốc?
Cả Chanh không kịp lùi, phải vẫy anh bí thư và cậu bảo vệ bước lại. Năm Chò ngồi bên Cửu Áng bật cười hô hô:
- Ông Cửu say rồi! Đại ca tôi mà lầm với Bác Tư!
Một nét kinh hoàng hiện loáng trong đôi mắt không có vẻ gì say của Cửu Áng, biến rất nhanh. Đôi má sệ lại rung lên trong tiếng cười của ông lý trưởng rất bình dân và vui tính:
- Hê hê hê! Hèn gì mấy cô em út cứ chê mình già! Anh cả về làng bấy lâu mà kín đáo quá, chẳng cho tụi này được gặp. Bảy tám năm rồi chớ ít đâu... Anh ghé mâm này luôn di. Bưởi, Bưởi, để phần thứ gì bày ra đây con! A, còn hai vị khách nữa nghen!
Ông bí thư đóng kỹ vai thầy cúng trong giấy tờ, tuy không mang theo bộ đồ nghề thày cúng, ông chắp tay vái liền ba vái về phía các mâm, nói ê a:
- Dạ, thưa mấy quý ông bà, thiệt tình tôi bị nghi oan. Cha con tôi đang hỏi đường vô nhà ông lý trưởng thì bị... bị ông này dẫn đi theo. Dạ, chuyện dương gian tôi chẳng biết, chứ trừ tà ma bắt quỷ thì chẳng dám nói khoe, đã từng trải mấy chục năm...
Anh em cười rần rần. Năm Chò phơi bộ ngực đầy bùa chàm đứng lên ấn mạnh vào vai ông thầy cúng:
- Tới đây gặp bữa, cứ cúng ông thần khẩu trước đi cái đã! Chú em kia nữa, ăn no rồi tôi chỉ ma cho mà bắt. Ma quỷ là thằng này, thằng Năm đây... Dạ thưa đại ca, bữa tiệc này là của chung thiên hạ. Gạo của nhà phủ Đỉnh, heo của lão Xâm Tô bợm ghiền, rượu của thầy Cửu mang tới, công nấu nướng là của nhà bác Tư, còn miệng với bụng là của anh em du kích Việt Minh do đại ca làm lãnh tụ!
Chanh tức run lên, muốn tát cho anh chàng say rượu vài cái. Để nén tức, anh nói sang các mâm:
- Tối rồi mấy cha, ăn mau còn thấy đường dọn dẹp...
Cửu Áng nhìn kỹ bộ mặt ông thầy cúng, can mày phân vân, rồi quay đi nói oang oang:
- Các chú hậu sanh không biết, hồi bằng tuổi các chú, mấy ông nhà nho chơi hoang lắm, tối mấy cũng bỉnh chúc dạ du, tức là thắp đuốc đi chơi đêm đó. Tới lứa tôi thì nghèo rồi, hoang mấy cũng thành hiền khô!
Đang lúc đói, Chanh ăn thật lực trong khi dỏng tai nghe anh em nói tầm phào. Thật ra chỉ mâm của Cửu Áng và Năm Chò là sẵn rượu, anh em khác chỉ uống mỗi người một ly không đủ say. Ông Tư Chua bỏ cuộc nửa chừng, bảo đi mua thêm rượu nhưng biến luôn. Tư Quýt cũng vắng. Ba Mít say nhanh, đã ngáy trên chõng của của bà Tư. Tám Doãn bối rối ra mặt không thốt câu nào, thỉnh thoảng liếc trộm Chanh.
Tan cuộc, mươi người có nhà ở xóm Chợ và bến Vạn rủ nhau về chung đuốc. Khi Cửu Áng định dẫn cha con ông thầy cúng đi về nhà mình, Cả Chanh nói xẵng:
- Để lại đây, chúng tôi còn lấy cung. Biết đâu là mật thám của tỉnh, huyện phái đi dò Việt Minh!
Khi lò rèn gần vắng hẳn, Chanh mới gọi số tiểu đội trưởng cùng Năm Chò, Tám Doãn, Sáu Cam lại:
- Chú ý nghe rnệnh lệnh đây. Trong vài ngày sắp tới, bọn Bảo an binh có thể đánh lên đây. Ngay trong đêm nay các đồng chí phải báo cho từng đội viên mang theo các thứ để rút vô rừng, ở lại năm ngày đêm. Sáng mai, khi tỏ mặt người, toàn đội phải có mặt trong căn cứ A. Nhắc lại coi nhớ chưa?
Năm Chò lè nhè:
- Nó lên thì uýnh cho nó té cứt ra chớ, đại ca!
- Im lặng. Đồng chí Tám Doãn chịu trách nhiệm củ soát các tiểu đội coi mệnh lệnh của tôi có được thi hành thiệt đầy đủ hay không! Giải tán!
Chanh đưa hai khách cùng Doãn và Cam ra chòi rẫy, vẫn còn giận sôi lên.
Khêu to ngọn đèn đĩa thắp dầu lai, anh lạnh lùng bảo Doãn báo cáo cho thật tỉ mỷ những việc đã làm. Nửa chừng ông Tư cũng ra chòi, ông đợi tiệc tan mới quay về lò rèn tìm Chanh. Sáu Cam ngồi chụm lửa đun nước cũng góp thêm vào. Ba người nhìn vào cuộc “khởi nghĩa” bằng ba cặp mắt khác lứa tuổi, khác góc độ, khác nếp nghĩ.
Khi ông Tư với Doãn đã ra đi, Cam đã ngáy trên sập, cậu bảo vệ đã nói mê sau chuyến đi ly kỳ, anh bí thư cùng với Chanh đánh giá lại tình hình. Bên ngoài, con chim ó ma ăn đêm cứ réo từng hồi “ó ó ó...à”. Chim dủ dỉ sống bằng phân trâu, phân nai trầm giọng thả vào gió tiếng than thở “thủ thỉ thù thì”. Đôi lúc vẳng xa tiếng con “có bóp thì bóp” và xa hơn nữa là tiếng trả lời “có chết thì chết”.
Hai đồng chí bí thư và phó bí thư huyện Tây Quảng quyết định: Linh Lâm sẽ thành làng Việt Minh luôn.
Đội du kích đã lộ mặt hoàn toàn, sẽ là quân chủ lực “lai vô ảnh, khứ vô hình”, tất nhiên phải loại bớt những người còn do dự, chọn thêm người hăng hái. Căn cứ B bị lộ, sẽ dời đi xa hơn, đưa cối xay, cối giã vào làm gạo tại chỗ. Cả Chanh thay mặt Việt Minh huyện sẽ gọi tất cả lý trưởng hương chức lại, giảng mười chính sách Việt Minh, nghiêm cấm việc mật báo lên tổng lên huyện. Đặc biệt, phải tổ chức ngay lực lượng dân quân đông đảo ở Linh Lâm và các làng chung quanh, đặt trinh sát và giao thông ở các trạm mật dọc sông Thu Bồn và đường 56. Chưa giảm tô được vì phải đợi chủ trương chung, nhưng mở ngay cuộc quyên góp trong các nhà giàu ở Linh Lâm, lấy thóc là chính, đừng ham trâu bò, heo gà. Chuẩn bị ngay các điểm tác chiến để chặn quân Bảo an ninh hay quân Nhật đánh lên. Tập cho du kích biết đánh du kích...
Trước khi ngả lưng, anh bí thư huyện ủy còn bật cười, lèo thêm một câu:
- Gì thì gì, cậu cũng đừng làm anh em cụt hứng. Đang bốc mà. Làm cách mạng, nghe dọa sai lầm khuyết điểm liên miên, anh em sợ rút gân sởn tóc, chẳng dám cựa quậy nữa đâu!
Cả Chanh ngủ lịm đi với câu nói ấy trong đầu.
Chú thích:
[1] Tiếng Pháp: F.M, tức Fusil-mitralleur: Trung liên.
[2] Tiếng Pháp: Moriler: súng cối.