← Quay lại trang sách

- 15 -

Alô, alô, đồng bào chú ý...

- Nghe đây, nghe đây...

- Thưa toàn thể đồng bào...

Anh em gọi loa thích kiểu nào gào kiểu ấy, nhưng nghe vẫn vui tai hơn tiếng mõ làng đi rao thúc thuế, thúc xâu. Trong những câu dài nhằng lủng củng, người dân Linh Lâm chỉ cần nhặt ra vài ba tiếng đủ biết phần mình: họp xóm, họp làng, họp thanh niên, họp phụ nữ, họp thiếu niên, họp dân quân, họp bàn việc bọc truyền bá quốc ngữ, họp ủng hộ du kích... Vô vàn cuộc họp, tất cả đều quan trọng, khẩn cấp, cần thiết, gấp rút, số một, hàng đầu!

Người dân Linh Lâm bước hẳn sang lối sống Việt Minh là ngày làm đêm họp. Họp mãi thành quen, đêm nào vắng tiếng loa tự dưng họ thấy ngứa ngáy thế nào, phải chạy sang hàng xóm hỏi xem có phải mình đi rừng, đi ruộng hụt nghe loa gọi không. Vả lại họ chẳng bị ép uổng gì, cơm tối xong đi họp một lát, các chủ nhà đun nồi nước to mời chung, buồn ngủ hay con khóc thì cứ ra về trước, quên lời dặn thì cán bộ Việt Minh kêu nhắc qua hàng rào.

Đội du kích Linh Lâm bị ngập đầu trong công tác. Ngập mà vui, cứ như tắm trong thác sông Linh. Ban ngày học chính trị hay quân sự, đêm đi loa gọi họp và canh gác cho đồng bào họp. Thỉnh thoảng cao hứng lại xếp hàng đôi hàng ba, cờ và súng dẫn đầu hô đi đều trên đường đá xóm chợ bến sông cho đồng bào đổ ra ngắm nghía, xuýt xoa. Một số rụt rè được cho ra làm dân quân, đã có ngay mấy chục thanh niêu khác xin vào thay. Lập thêm một tiểu đội nữ du kích do cô Năm Bưởi chỉ huy, đang mê tập mã tấu và các môn quyền cước. Liên tiếp phải đón các đại biển thanh niên trong tổng An Sơn kéo tới xin rước “quí vị du kích làng Linh Lâm đến giúp chúng tôi tập quân sự xây dựng chánh quyền Việt Minh”.

Cả Chanh bắt đầu bị sốt rét rừng, ở đây rất ít người tránh được cái bệnh tai ác ấy, được gọi là rét. Anh cứ gượng, gượng mãi. Những gói Phát lãnh tán và những thang thuốc nam của ông Tư Chua chỉ làm giảm chứ không cắt được cơn. Lạnh run một lát, nóng điên một hồi, nhức đầu như búa bổ vã mồ hôi đầm đìa, thế là xong khoản nợ núi rừng vài ngày trả một lần.

- Anh Cả rét hả?

- Đợi chút, qua cơn mình đi...

Về vụ Năm Phi đao tự ý làm tào lao, Cả Chanh chỉ cho tự chỉ trích nửa giờ trong đội du kích, vì thật ra anh em chẳng có lỗi gì. Anh dành hẳn một tối để sạc Năm Chò thẳng thừng, bắt thề chừa rượu và bỏ thói ngông nghênh càn dỡ, bỏ luôn lối xưng hô phường tuồng. Năm Chò nhận lỗi, hứa sẽ tự chỉ trích công khai.

Bàn chung chung thế thôi nhưng Năm Chò làm ngay.

Vào buổi học chính trị tiếp đó, sau khi anh em đã ngồi lên sạp, Năm Chò bước ra giữa lớp, đưa tay chào Cả Chanh theo kiểu mới học: nắm tay phải co lên ngang vai. Rồi anh hét một tiếng: “Kính thưa!” làm mọi người giật mình.

- Trước có đồng chí lãnh đạo, sau có anh em, tôi là Năm Phi đao xin nhận tội!

Anh tự kể tội một tràng, thành thật mà rất lộn xộn.

- Tóm lại, tôi thấy mình không xứng đáng làm đội trưởng. Nhờ anh em bầu cho người khác. Xin chào bằng một nắm tay thân ái!

Cả đội du kích nhốn nháo:

- Cứ làm chớ, anh Năm!

- Biết lỗi phải vậy, được rồi đó Năm!

- Trâu bốn chân còn đôi khi trượt...

- Đừng cho thằng Năm trở chúng, anh cả!

Cả Chanh giành nửa tiếng để giảng về chế độ dân chủ tập trung sau đó tuyên bố Năm Chò vẫn là đội trưởng. Anh em vỗ tay rầm rầm đúng lối quốc tế.

Sau mấy ngày thăm dò, Cả Chanh quyết định đưa ra danh sách Ủy ban Việt Minh làng để dân bầu. Ông Tư Chua làm chủ tịch, Tám Doãn chỉ huy dân quân, Ba Mít ủy viên tuyên truyền. Nhiều người bàn nên gài Cửu Áng vào ủy ban, bắt lão nhúng tay thùng chàm cho hết đường lui. Chanh cân nhắc kỹ và từ chối.

Ủy ban ra mắt trong cuộc họp mít-tinh lớn nhất, đông hơn cả đám tế Xuân. Cờ may đúng kiểu được kéo lên trong khi pháo nổ một tràng dài thay tiếng súng lệnh. Tất cả dân làng đưa nắm tay lên vai chào cuộc đổi đời, tuy còn rắc rối khó hiểu nhưng chắc chắn là đỡ cực nhục hơn xưa.

*

* *

Bà Tư quấy nồi cháo cá đang sôi, bóp thử vài hạt gạo thấy đã nhừ, quay lại gọi Cả Chanh:

- Rán chút nữa con. Ngoáy đũa trong nồi cho nó thêm hơi.

Cả Chanh san cơn sốt rét được mẹ ra chòi rẫy nấu cho nồi lá xông. Anh trùm tấm chăn Nam Định vá nhiều chỗ khác màu, thở phì phò sụt sịt.

- Mồ hôi nhiều không con?

- Như tắm mẹ ơi.

- Áp mặt xuống chỗ miệng nồi, hít vô, đỡ nhức đầu lắm...

Chanh cúi đầu xuống, cảm thấy rất rõ mẹ đứng ngoài đang nhìn và vui lòng vì mình vâng lời. Nhưng anh không ngờ mẹ đưa tay ấn nhẹ vào gáy anh, nói khẽ một lời dỗ dành của hơn chục năm trước:

- Con với cái, mỗi lần vô xông là y như cá lọt vô nơm...

Nước mắt nước mũi đang chảy vì hơi nóng từ nồi lá xông bốc giữa mặt, Chanh nhận ra vài giọt nào đó trào thêm khi nghe tiếng mẹ.

Từ ngày về Linh Lâm, Chanh chưa một lần ngồi chuyện trò hơi lâu với mẹ. Ở lò rèn, chòi rẫy, ở bất cứ nơi nào anh dừng lại, chỉ lát sau mẹ lò dò đến, mang theo một thứ gì đó anh thích hay cần: nải chuối, gói thịt nai khô, cái khăn quấn cổ, nắm rau má nấu canh giải nhiệt. Nhưng chung quanh anh luôn có những người đàn ông đang nói chuyện đàn ông và mẹ không bao giờ ngắt lời đàn ông bàn việc. Mẹ lảng vảng một lúc, nấu canh đun nước, gọi Sáu Cam vào dặn dò mấy câu, lẳng lặng bỏ đi. Xưa nay mẹ sống như bóng của chồng, nay mẹ tự ghép làm cái bóng của con trai đầu lòng. Cái bóng theo người không rời nhưng để mặc người sống ra sao kệ xác, còn mẹ lại từng khi biến thành bóng cây lớn che mưa nắng cho con.

Hôm đầu tiên Chanh lảo đảo trở về chòi rẫy, kéo tất cả chăn chiếu trùm lên người, run đến rung cả sạp nằm và các tấm liếp ép vào sạp, mẹ chỉ huy ngay Tư Quýt đi hái các vị thuốc nam, Năm Bưởi đi báo cho cha đừng đưa khách đến nữa, và mẹ đun nồi lá xông kèm nồi cháo cảm đầy hành và tía tô. Đợi Chanh xông và ăn xong, lau ráo mồ hôi, thay áo quần khô và nằm nghỉ cho đỡ mệt, mẹ mới nói rầu rầu:

- Có thằng con đi tứ xứ, tới hồi đau ốm mới được coi ngó chút đỉnh cho sướng con mắt...

Hôm sau cũng thế, Chanh được dành hẳn cho mẹ coi ngó chỉ vì sốt rét quật. Tỉnh ra một giờ là đã có bao nhiên người đổ xô tới, chỉ chào mẹ một tiếng cho phải phép, cuốn ngay Chanh vào cái thác công việc hàng ngày. Mẹ không biết thằng con làm ông gì mà túi bụi tới vậy, chỉ hiểu phận của mẹ là chăm sóc con và né sang bên cạnh để con khỏi vướng.

Cả Chanh tung chăn sang bên, thở hồng hộc. Anh chỉ mặc quần đùi, khắp người ướt sũng mồ hôi, tóc bết vào trán, dọc hai cánh tay nước chảy nhỏ giọt. Mẹ đưa bộ áo quần bẩn mới thay ra:

- Lau cho thiệt ráo, lau tiếp khăn sạch đây, rồi mặc đồ khô. Con có mồ hôi muối, dễ giặt hơn thứ mồ hôi dầu cha mày. Làm sao bớt bớt đi ngày đi đêm cho nó mập mạnh lên con, mày mặc quần áo thằng Tư thấy rộng xùng xình. Tù đày miết cũng phải được nghỉ chớ. Bộ mày vắng một ngày là bên mình thua liền à?

- Không thua liền, mà sút đi chừng tuột cái lông chân mẹ đi! Chớ sao mẹ biểu hễ nổi rét thì đừng nằm, cứ xay lúa, cuốc đất, chặt củi cho nó lướt đi?

- Là tao nói đứa đang khỏe, đâu có biểu đứa mới ở tù năm năm!

Mẹ quay đi xỉ mũi, trút cái bát đầy hành tươi và tía tô xắt đổ vào nồi cháo. Ống tay áo mẹ chật, càng nổi rõ hai cánh tay mẹ gầy guộc khi giơ lên.

Hồi nhỏ Chanh về quê ngoại một chuyến, thấy đầy nhà những dì là dì. Ông bà ngoại sinh thẳng một hơi chín con gái, không có con trai. Mẹ vào hàng thứ bảy, lấy chồng trong khi có hai bà chị chưa ai đi hỏi. Mẹ hơi cao hơn cha một chút tuy bằng tuổi nhau.

Về sau Chanh mới lần hồi biết thêm rằng tính cha hồi mới lớn hết sức ngỗ ngược, ông bà nội bắt cạo đầu lên ở chùa Non Nước làm chú tiểu cho thuần nết đi, chỉ hơn tháng là cha mang đầu trọc, áo nâu bỏ trốn biệt. Cha vào phố Hội ở mướn cho một ông thầy thuốc bắc, nhà cũng hiền lành, dạy cho học được chữ quốc ngữ cùng những câu đạo lý thánh hiền quen miệng nhất. Ông nội đến thăm vài lần, để cho ở tiếp. Sau vài năm cha lại chán dao cầu với thuyền tán, theo bạn vào làm phụ rèn tại Qui Nhơn. Ông nội cũng sẵn lò rèn, nhưng cha thích lang bạt kỳ hồ vậy thôi. Trong một chuyến về thăm nhà khi mười tám tuổi, cha phải chịu lấy vợ với lời giao hẹn là không ở nhà với vợ. Đi ăn hỏi mới thấy mặt vợ, cưới xong cha lại vào Qui Nhơn tập ngồi lò với chủ khác. Ai cũng nói cha kỳ cục khùng khùng.

Thật ra cha không kỳ, không khùng, chỉ ham bay nhảy, dần dà ham thêm nghề rèn. Học trò mà lại rất kén thầy, đổi lò luôn. Nơi rèn đồ xoàng thì chỉ ở vài tháng, gặp thầy giỏi thì lăn vào xin phụ, chịu sai vặt và quỵt lương. Sau nhiều năm ăn cơm góp kiểu ấy cha giỏi nghề hơn ông nội rõ ràng, mỗi khi về nhà ngồi chơi cha cũng rèn trổ tài cho ông nội phục.

Chanh mười ba tuổi ta, được cha dẫn theo vào Qui Nhơn nuôi cho ăn học. Học chữ, cũng học rèn luôn. Chanh ham học và tò mò táy máy như cha, được cha thương nhất nhà.

Sau khi mẹ sinh Bảy Bòng, nhà quá đông miệng ăn, cha phải về quê nuôi con. Cha đi một vòng những nơi có thể phát đạt, chọn đất Linh Lâm. Ông nội rất già không rèn nữa, cha giao hết số ruộng bãi phần mình lại cho ông, nhận bộ đồ rèn của ông, bốc vợ con lên quê mới. Mẹ chỉ lẳng lặng vâng lời, không được bàn góp câu nào. Hồi ấy Chanh đã đậu bằng sơ học yếu lược, cha để lại ở Qui Nhơn, vừa làm thợ phụ trong đề-pô xe lửa vừa tự học thêm, cố sao cho thằng trưởng nam có chữ nghĩa giắt lưng, lại học lỏm được nghề sắt thép của Tây đem về cho nhà mình. Nhất cử lưỡng tiện là vậy. Cha không ngò nơi Chanh được học nhiều nhất, cả chính trị lẫn văn hóa, lại là nhà tù của Tây.

Biết tính cha mẹ mình như thế, đôi lúc Chanh nhìn mẹ vỗ về con bé Thanh Yên mới chẵn hai năm, nghĩ làm sao mẹ tạo được một đứa con thật giống tính nết mẹ, chắc mẹ vui và yêu nó lắm. Rời một nhà đầy con gái hiền ngọt như hoài sơn cam thảo, mẹ rơi vào một gia đình đốp chát đe búa, với ông chồng khéo tay đạp sắt mà chẳng nương tay khi đánh vợ, với một lũ con ngang tàng nghịch quấy, trông mẹ cứ như lạc vào chỗ lạ, con đầu đã hai mươi sáu tuổi mà mẹ chưa hết bỡ ngỡ.

Dù miệng rất đắng và hơi buồn nôn, Chanh vẫn cố húp từng thìa cháo cho mẹ vui bụng. Mùi hành và tía tô rất nồng đánh thức cơn đói, từ nửa bát cháo trở đi, Chanh bắt đầu thấy ngon. Trong khi mẹ múc bát nữa, Chanh hỏi:

- Sao thằng Bòng ít khi ở nhà vậy mẹ?

- Ối, hơi đâu hỏi nó. Sớm tửng mưng nó làm vài chén cơm nguội, người lớn chưa dậy nó đã lùa trâu đi biến. Nửa buổi nó về kiếm bữa nhì, xế chiều nó lục khoai sắn. Phe chăn trâu của nó tới chục đứa, dựng chung cái chòi chỗ cửa khe Hội, cả ngày tụi nó gài bẫy, tát cá, leo cây. Cha tính bắt nó phụ lò thổi bễ, mà không biết để trâu ai coi. Đợi thử anh Ba Mít có mở lớp dạy chữ ban đêm thì cho nó đi học, cả một nhà dốt đui, dốt đen thiệt tới cực. Bắt được lá thơ cũng đợi cha về coi, mấy mẹ con có mắt như mù...

- Hình như thằng Quýt ưng cô nào trong xóm Chợ hả mẹ? Nghe anh em giỡn giỡn vậy.

- Ăn đi chớ nguội. Ưng con Ba Song chỗ bến Vạn, nó giấu kỹ, hỏi đâu gật đó. Cha mẹ con Song là chủ ghe dọc, có một mẫu đất nà ở bên kia sông, chưa chi đã đánh tiếng chê nhà mình nghèo không gả con.

Có một điều mẹ còn ngờ ngợ nhưng Năm Bưởi bạo mồm nói huỵch toẹt ra với anh cả: Tư Quýt ghen với anh. Ngày xưa, ghen anh được đi học ở thành phố. Bây giờ, sau những ngày mừng rỡ chung với cả nhà, lại ghen cha mẹ cùng làng xóm coi anh Cả như thánh sống, cái đứa còng lưng ngồi lò giúp cha mẹ nuôi bầy em thì chẳng ai nói tới. Tư Quýt vốn đã chậm chạp, lầm lì, bây giờ càng ít nói và già nết đi.

Ông Tư nhận chức chủ tịch đã một tuần, gần như suốt ngày đêm chạy tất bật, việc gì cũng phải chân đến tay sờ mới dám định đoạt. Tám Doãn đi các xóm đánh trống họp tổ chức dân quân, sắp xếp việc tuần tra canh gác. Chỉ còn anh Ba Mít sẵn chữ và thích ngồi bàn giấy, luôn thường trực giữa đình làng để cấp giấy tờ và nói những lời hiệu triệu.

- Yếu còn hơn thiếu, có còn hơn không, cứ làm tới tới đi!

Anh Xáng trưởng ban khởi nghĩa dặn vậy, Cả Chanh thấy phải. Ủy ban Linh Lâm còn xộc xệch, nhưng nó vẫn ngàn lần tốt hơn đám hương chức vừa gạt bỏ.

Năm Bưởi mê mẩn với tiểu đội nữ du kích của mình, quyết đẩy nó lên hàng “chủ lực” như đội nam, bắt chị em tập bò, tập bắn đến rách quần áo, toạc da đầu gối, cùi tay. Cô ta còn chơi trội: bí mật qua thương lượng với cậu Hai Khánh bên ấp, mượn cây súng hơi và xin đạn để chị em tập bắn bia, chỉ nhờ cậu bày cho một lát và đừng nói lộ cho ai biết. Hai Khánh thích mấy cô gái táo bạo này, vui vẻ ra bãi ngắm tập cho các cô ngắm bắn suốt hai buổi, sau đó mỗi cô được bắn ba phát. Kết quả cũng khá. Năm Bưởi năn nỉ ỉ ôi một chầu nữa, chị em được thêm mỗi người ba phát, đợt sau này bắn tốt không ngờ!

Ban chỉ huy không nói ra, nhưng dần dà đội du kích đoán biết hai cây súng của đội là do Hai Khánh tặng, từ đó bớt gờm cậu cử bên ấp. Cả Chanh chỉ báo vắn tắt là theo chính sách Việt Minh, ta không động đến ngựa và súng hơi của cậu vì ta chưa cần dùng.

Như thế, trong gia đình Cả Chanh chỉ còn ba người làm ăn. Bà Tư nấu nướng xong lại đem cơm ra rẫy lúi húi cuốc cỏ lúa, vun gốc sắn, Bảy Bòng giữ trâu, Tư Quýt thay hẳn cha ngồi lò, sau đợt rèn dáo mác, đã chuyển sang làm dao cuốc và hàng đổi rìu rựa, kiếm gạo cho bảy miệng ăn. Còn may là dân làng sau vụ gặt tháng năm có thóc để trả công và cũng biết nhà ông Tư túng thiếu nên không hẹn lần lữa như mọi năm.

... Bài thuốc nam của ông Tư phải uống bụng no, có gừng, trầu và lắm vị cay. Chanh nằm xuống sạp hỏi mẹ đang thu dọn nồi bát và áo quần thay ra để xuống suối giặt rửa.

- Nhà mình đã phải vay ăn chưa mẹ?

- Trời sanh voi trời sanh cỏ...

- Cỏ trồng hay cỏ vay?

- Nhiều no, ít đủ, đắp đổi cho qua ngày đoạn tháng thôi con ơi!

Rõ ràng mẹ không muốn nói chuyện cơm gạo. Mẹ vẫn thường vay và trả giấu lén, cha hỏi thì nói, nhưng cha chẳng bao giờ hỏi thiếu hay đủ, chỉ nói sơ sơ cho biết nhà nào thiếu bao nhiêu tiền hay thóc công rèn, mẹ nhớ và nhắc người ta trả. So với những ông chồng tệ hại mà mẹ đã biết, quanh năm cạy rương vợ lấy tiền đi rượu chè, hút xách, bài bạc, ve gái lén bán cả ruộng vườn nhà trâu đi, cha vẫn là người chồng đáng quý.

Mặt trời đã lên cao trên rẫy. Sương đêm ngấm vào đất và đọng trên lá thành hơi nước, tỏa mùi nóng ẩm của tro than, lá mục. Con “bắt cô trói cột” kêu lảnh lót khi xa khi gần, từng lúc bị con tu hú chen ngang một tràng với thói quen dành tiếng cũng như giành tổ. Chanh thiếp dần, bù cho đêm qua đi Linh Hạ dự mít tinh ra mắt ủy ban Việt Minh. Đó là làng thứ tư trong vùng lập chính quyền cách mạng. Khoảng hai giờ sáng anh mới về đến chòi và lên cơn lúc gà gáy nhì. Đã trùm chăn kín mít và bắt đầu gõ răng, anh còn lập cập gọi Cam, bảo nó thay Năm Chò đi giao thông ở Huề Bình cho đúng ngày hẹn, nhân tiện ghé qua Linh Trung bảo anh tổ trưởng du kích ở đấy đến gặp anh gấp.

*

* *

Tiếng ngựa hí xa. Lại tiếng ngựa hí gần và dài hơn. Anh em nhà pha liếc nhau, hất hàm, nâng lên thả xuống những cái đầm nện làm đường bằng súc gỗ to, với hai cây càng đóng đinh hai bên. Nâng, thả, nâng, thả. Thằng quan hai Pháp dong ngựa đến, gườm gườm cặp mắt xanh, tìm con mồi hôm nay. Mỗi lần cưỡi ngựa xem lũ tù đắp đường mười bốn từ Kon Tum về Tu-ran, hắn phải đánh tóe máu vài ba người. Không làm thế cả lính lẫn tù tưởng hắn dễ dãi, sẽ đòi hỏi xin xỏ lắm thứ...

Ngựa hí nữa. Tên quan rút chiếc roi da dài đóng sẵn vài chục đinh sắt, loại tán vào đế giày đinh lê-dương, cài vào yên cái roi hiền lành dùng để quất ngựa. Hắn rất cưng con ngựa nòi A-rập cao lớn, rất ít quất roi, cần lắm mới phẩy con roi nhỏ bên mắt ngựa vừa đủ dọa dẫm cho nó cất vó phi nhanh. Còn lũ tù chính trị kia được hưởng thứ roi xé thịt dành riêng cho người. Ngựa phải béo khỏe lành lặn, còn bọn người kia phải biến thành những bộ xương biết đi, biết đắp đường. Hai con roi dùng vào hai việc.

Mười lăm năm gác tù giúp hắn hiểu rằng một tờ giấy báo tử chỉ gây xúc động vài ngày, một xác chết chỉ khiến người ta sợ vài tuần, nhưng một bộ xương bò lê và thoi thóp kéo dài sẽ để lại một cơn khiếp hãi đến mãn đời. Hắn tự hào là chưa bao giờ một tên tù chết ngay dưới tay hắn, dù đánh trong lúc say. Hắn luôn luôn để dành năm bảy ngày sống hấp hối cho các đồng chí của tên tù được thấy và nghe đến cái độ phải bít tai nhắm mắt. A ha ha, khối đứa đã bí mật xin được làm chỉ điểm sau những trận đòn tâm lý ấy. Trò đời, biết bao kẻ đã dám tự tử bằng treo cổ, nhảy sông, bắn súng vào đầu, uống thuốc ngủ, nhưng chưa hề có một ai tự tra tấn mình hàng tháng và chỉ tắt thở sau cả chục ngày quằn quại!

Sợi cương bên trái nảy nhẹ. Con ngựa quay đầu về phía Chanh. Anh liếc thấy, cúi nhìn xuống mặt đường, nhấc và thả cái đầm đều tay, y hệt như mọi người.

- Xê luy, lơ mơ-nơ?

- Uẩy xừ.[1]

Sợi roi tán đinh rít mạnh trên không. Chanh định lăn ra tránh, không kịp. Cảm giác roi quất vào thân đã thành quen; Bịch một cái như ma-trắc nhồi cát đánh vào người, sau đó mới đau xói vào thịt xương, trên da còn lại một vệt dài rát như gí lửa. Chanh ngã ngồi xuống, đưa hai tay che mắt. và thái dương. Víu... bịch!

- Chanh! Dậy Chanh! Mơ gì vậy con?

Vẫn nhắm mắt, Chanh vùng lật sấp người lại. Cho nó đánh trên lưng. Tránh đòn âm. Bịch!

- Chanh! Lạ, nó mát rồi sao còn mê dữ quá.

Chanh lật nghiêng người, mở mắt, thấy một mảng tre đan. Ai đó mặc bà ba đen đứng sát vào ạp. Thằng quan hai với con ngựa biến mất. Ngọn roi rạch người biến mất. Anh nặng nề chống tay nhỏm dậy. Ông Tư vỗ thêm lần nữa vào vai con:

- Tỉnh chưa nè... Chiêm bao thấy thứ gì mà hét dữ vậy? Khỏe thì tiếp khách, mệt cứ xin kiếu.

- Ai đó cha?

- Hai Khánh bên ấp. Mới đi xa về, nói con hẹn gặp gấp ở đây, cha dẫn ra.

Chanh vơ mảnh vải cũ dùng làm khăn, lau mặt và cổ. Tỉnh rồi. Mé sau chòi rẫy, Khánh đang nối sợi dây dài vào cương, buộc vào gốc cây, kiểu dòng dây cho ngựa ăn mà không phải tháo cương. Con ngựa bực dọc hí lên mấy hồi nữa, rồi đành chịu theo cương mà gặm cỏ, nhai trệu trạo.

Vóc người cao và dẻo của Khánh trông càng oai trong bộ quần áo dài bằng ka-ki màu cứt ngựa và đôi dày da có cổ. Anh phải cúi khi bước vào chòi rẫy. Anh lật cái mũ cối có vành dày bằng li-e đánh phấn trắng, nhìn quanh một vòng, cười:

- Chỉ huy sở hay là trạm dét-tê đây?

- Cả hai. Tạm thời đang dùng làm nhà thương sốt rét!

- Tôi mang cho anh một trăm viên ki-na-crin với ít thuốc bổ, một số tài liệu... Trước tiên xin báo ngay: Tụi Bảo an binh sắp đánh lên đây!

Khánh cố ý nói độp cái tin giật gân ấy, xem anh thượng cấp Việt Minh có luống cuống sợ hãi không. Cả Chanh chỉ hơi cau mày chờ nghe tiếp, khuôn mặt xanh nhợt vì sốt rét nhưng không một nét xúc động. “Anh chàng cứng đấy”. Khánh nghĩ.

- Thằng quản Hưng cử thằng phó nó là quản Lược đem một xéc-xi-ông lên Linh Lâm, thử sức với du kích Việt Minh. Thằng Lược đang đóng ở Hà Lam, chạy vô hỏi ông phủ Đỉnh xem có biết Linh Lâm bây giờ ra sao không, tình cờ gặp tôi ở đó. Tất nhiên ông phủ khuyến khích nó đánh mạnh. Tôi kéo nó đi nhậu, vẽ rắn thêm chân một hồi, cu cậu sơ mất máu. Nó than thở là giữa quản nhất và quản nhì mà thằng quản Hưng cố dìm nó, hại nó. Lên rừng núi chọi nhau, thua thì bỏ xác, thắng cũng chẳng ai biết tới, có khi thằng Hưng tráo qua tráo lại giành hết công trạng. Tôi mách nước cho nó cứ lên thập thò đâu đó, giả bộ đánh chác một hồi, về làm tờ trình thật ngon. Nó nhờ tôi về Linh Lâm tìm cách gặp quí vị trong ủy ban thương lượng giùm thế này: Ủy ban và du kích tạm lánh mặt một ngày, nó đem quân đến xóm Chợ, bến vạn gọi là có mặt rồi rút. Có thể bắn một hồi qua chỗ không người như núi Ông Tượng chẳng hạn, lấy cớ để trình lên quan trên...

Ngồi trên xe khách lên Linh Lâm, Khánh nghĩ đến nụ cười khoan khoái và khen ngợi của Cả Chanh, khi nghe mưu kế anh bày cho quản Lược. Cứ để cho địch cầm dao chém, ta mất gì đâu!

Cả Chanh vẫn cau mày nghĩ. Rồi anh hỏi:

- Bao giờ nó lên?

- Sáng mai lên huyện Tây Quảng. Lấy cớ chưa rõ tình hình và chưa kịp sửa soạn sẽ cho quân sửa soạn ở lại đó thêm ngày mốt nữa. Nếu không có tin tôi báo lại thì coi như bên ta bằng lòng, ngày kia nó đưa quân lên.

- Súng ống xe cộ ra sao?

- Nó tính đi hai xe cam-nhông. Đem theo ruột moóc-chê cỡ nhỏ, hình như 60 ly.

- Tinh thần quân lính?

Khánh cười xòa:

- Tôi có gặp lính đâu! Chỉ huy mà thế chắc lính càng tồi hơn. Nhưng tôi vẫn bóp được cò súng anh ơi!

Ông Tư nãy giờ chỉ ngồi nghe, bỗng chen vào một câu gay gắt:

- Thả nó ruồng lên tới đây, cán bộ với du kích trốn sạch, về sau dân chứng coi mình như rơm rác!

- Bác ạ, súng ống mình chưa có, anh em chưa quen trận mạc, tránh voi chẳng xấu mặt nào...

- Dân đây quen tìm voi mà bắn, không tránh đâu anh! Không bắn được cũng đào hầm cho sụp, nổi trống mõ đồng la cho sợ. Tránh voi thì tới nay chẳng còn cày ruộng rẫy làng xóm gì hết!

Khánh lúng túng cãi gượng:

- Ấy là cháu ví von thế. Thằng địch sẵn súng ống, lắm mưu mẹo, khó hơn voi nhiều chứ!

- Biết người khôn hơn voi rồi. Khôn thì càng không muốn chết. Anh nói một... một gì đó kéo lên, ước sức bao lăm đứa?

- Dạ, chừng bốn chục.

- Cứ cho là mình đánh dở. Bắn trúng một hai thằng, mắc chân vô bẫy kẹp một thằng, đạp trúng chông nai, chông heo một thằng nữa. Cả bọn có dám xông liều lên không?

- Nó đốt nhà, giết dân làm sao bác?

- Muốn rảnh tay thì cho dân lánh vô rừng, lùa trâu bò gánh thóc lúa theo. Bộ không đánh thì nó để dân được yên à? Nó lại bắt cả xâu ra đình cùm chân, tra khảo như hồi tàn quân ông Hường Hiệu, hồi mấy lần cộng sản dậy...

Khánh không muốn cãi với ông thợ rèn hăng máu mà đơn giản này, quay nhìn cả Chanh. Chanh chỉ dặn ông Tư:

- Cha biểu thằng Cam đi báo dùm trưa đứng bóng sẽ họp ủy ban và ban chỉ huy du kích ở căn cứ A.

- Công việc để anh em lo, mày đứng không vững..

- Con chia việc cho anh em lo, rồi mặc sức con ngủ!

Ông Tư lầu bầu trong miệng, tất tưởi bỏ đi. Cả Chanh nhìn theo cha, khẽ cười:

- Ông già tôi bốc hơn cả thanh niên... Có lẽ chúng tôi phải đánh, đồng chí Khánh à.

- Anh cũng nghĩ như bác?

- Lý lẽ ông già có phần đúng. Dân ta đang chờ coi thử Việt Minh kêu gọi đánh Tây đuổi Nhựt là nói khoác loác hay dám làm thiệt sự. Đánh dở còn hơn chạy trốn... Mặt khác, nếu chặt cụt một cánh tay của Bảo an binh Quảng Nam, đội quân quản Hưng sẽ tan rã nhanh, các nơi khác trong tỉnh khởi nghĩa dễ hơn. Đánh dưới đồng bằng rất khó, nó chịu dẫn xác lên chỗ hiểm hóc này, hay lắm. Mại vô mại vô, bỏ qua rất uổng!

Khánh cười to tiếng. Quả anh chính trị phạm này có bản lĩnh cao cường!

- Anh tính dàn trận ra mà đánh à?

- Dân ở đây sẵn kinh nghiệm đánh voi cọp, mỗi lần học quân sự anh em đưa ra nhiều kiểu đánh lạ hết sức anh à. Để bàn chung coi đánh quản Lược cách sao cho bảnh. Ba anh thợ giày thành Gia Cát Lượng mà!

Ngập ngừng vài phút rồi Khánh mới hỏi:

- Như thế, tôi cứ lặng im để cho quản Lược dẫn quân lên anh nhé?

Cả Chanh chợt nhớ, rút hai cánh quạt mo dắt ở phên, đưa cho Khánh một. Khánh quạt phành phạch. Đến lúc này anh mới nhận ra mình đang vã mồ hôi.

- Xin lỗi nghen, đây không có nước chè, mẹ tôi bắt uống toàn thuốc nam... Anh nên gặp lại thằng Lược, nói hễ nó lên thì Việt Minh gặp đâu đánh đó, về sau sẽ đánh thấu đồng bằng thành phố nữa. Tốt nhứt là nó theo Việt Minh luôn đi!

- Theo được à?

- Sao không được? Thì Năm Chò nhà mình đây, cai khố đỏ thuộc loại lính dữ mà bây giờ chỉ huy du kích ngon lành! Anh đừng lộ tông tích của anh, cứ nói Việt Minh nhắn quản Lược nên rán lập công chuộc tội. Tốt nhứt là kéo cả đội lính mang súng theo cách mạng, sẽ được khen thưởng trọng hậu lắm.

- Nếu nó nói muốn gặp ông chỉ huy Việt Minh cho chắc...

- Sẵn sàng. Hẹn đâu cho tiện hè... Hay là tạm dùng chỗ anh làm đất Thụy Sĩ vậy. Nó cải trang đi với anh lên ấp, chúng tôi đến gặp. Sau này nó có phản thì anh chẳng bị rắc rối gì, tại nó nhờ anh giúp thôi. Anh đóng kỹ cái vai quản lý của ông phủ Đỉnh, ở lại vùng Việt Minh để giữ ấp, phải miễn cưỡng theo lệnh ủy ban, họ còn cho phép lên xuống vì chưa thấy gì đáng ngờ. Chịu khó chút nghen!

- Vâng.

Khánh biết Cả Chanh vừa qua cơn sốt rét, lại sắp đi họp ở nơi căn cứ A nào đó mà anh chưa hề tới. Nhưng anh không muốn rời khỏi chòi rẫy. Con ngựa Hường càng già càng khôn, đã hí he lên nhiều lần giục chủ. Anh khát và đoán con ngựa cũng khát. Anh vẫn chịu sức thu hút lạ lùng của người thợ sửa xe lửa biến ra cán bộ Việt Minh này. Anh muốn hỏi rất nhiều và muốn kể chuyện mình rất nhiều, để anh ấy biết mình đang muốn trở thành một người như anh ấy, dù cách nhau nhiều năm mà đũng quần trên ghế nhà trường và học nhồi sọ các thứ luật pháp mà thời buổi này chẳng ai cần đếm xỉa. Anh đứng dậy, đội mũ, thoáng buồn vì Cả Chanh không cố giữ lại.

- À, phủ Đỉnh không chịu thêm súng đâu anh. San đợt tịch thu thóc của Năm Chò, ông ta ngại tiếp tế súng cho Việt Minh. Tôi nói mãi ông ta mới hứa kiếm một cây ca-lip-đu bắn thú rừng thôi, không chắc có. Cửu Áng dạo này kín tiếng lắm, nói nhỏ với tôi gục đầu chịu trận cái đã. Lão báo mật xuống huyện, mà coi bộ quan huyện cũng chực cuốn gói...

Khánh rút trong hai túi quần sấp báo và gói truyền đơn mới đem về, dặn thêm cách uống ki-na-crin chữa sốt rét, vẫn thấy mình đang chở củi về rừng, dường như Cả Chanh đã biết và đã có sẵn tất cả những gì mà anh báo tin hay mang đến. Bỗng anh nhớ ra việc mới:

- Tiểu đội cô Năm Bưởi mượn súng hơi của tôi tập bắn. Anh coi thử, nếu đội du kích cần tập thì lấy về mà dùng.

- Nhiều đạn không anh?

- Vô số! Tôi có bàn dập đạn, cả đi-a-lô-lô và cô-ních, anh em kiếm chì tự làm đạn mà bắn cho quen, sau khỏi bỡ ngỡ.

- Ôi chao, dễ vậy á? Tôi cứ tưởng khó kiếm đạn, không dám mượn súng anh! Chì thiếu gì, vạn chài nhà nào chẳng có. Anh cho mượn vài bữa nghen?

- Mượn đến ngày cách mạng thành công cũng được!

Khánh cưỡi ngựa ra về với niềm vui cuối cùng ấy.

Con Hường ở núi lâu năm, khi ghé mõm uống nước khe Hội từng hơi dài, vẫn nhớ thổi hơi rùng rùng qua mũi và hất mõm xua những con đỉa mà nó liếc thấy bơi đến ngùng ngoằng. Khánh tì tay trên mũi yên ngựa, nghĩ: “Đáng lẽ mình tặng luôn anh Chanh khẩu 7 ly 65 của Ta-kê-đa. Ảnh nằm một mình trong chòi rẫy, chỉ có cây rựa cán dài đặt cạnh gối..”.

Sau chuyến thu thóc của Năm Phi đao, Khánh gặp Chanh nói cho bõ tức. Kiếm súng đạn cho Việt Minh một tay khố đỏ xăm đầy chàm lại cầm đi bắn chó, bắn lấy oai với lũ con gái bến Vạn! Chở thóc về, chắc lại đem nấu rượu hết thôi! Thế nhưng Cả Chanh kiên nhẫn nghe anh trút hết cơn bực dọc, nghiêm chỉnh nhận khuyết điểm, hứa sẽ chấm dứt sai lầm. Khánh nguôi giận, nhận thấy mình quá lời, ấp úng chữa:

- Tôi không định nói anh đâu...

- Sự thật là tôi có thiếu sót. Anh chỉ trích rất phải.

Từ nhỏ, Khánh chưa hề gặp ai nhận lỗi một cách rành mạch như thế. Cha mẹ, anh chị em, thày học, bạn bè, ai nghe một tiếng chê trách là giãy lên như đỉa phải vôi, không chửi bới lại cũng phân trần đến đứt hơi. Cả Chanh khác hẳn, anh nghiêm khắc với mình đến dễ sợ, dường như anh đứng hẳn ra ngoài để nhìn lại mình bằng cặp mắt quan tòa. Một mẫu người rất lạ!

Cả Chanh không bênh vực cho mình, chỉ nhắc Khánh chớ nên giận dai đối với Năm Chò, đừng đay nghiến cái quá khứ khố đỏ của anh ta, bởi vì “mỗi chúng ta đều có vết mực trong quá khứ, khó tránh khỏi”. Lát sau Khánh nghĩ lại và xấu hổ ghê gớm vì con quan phủ với lính khố đỏ thì hơn gì nhau!

Chú thích:

[1] Tiếng Pháp: Thằng cầm đầu đấy à? Thưa vâng.