- 16 -
Ủy ban và ban chỉ huy du kích quyết đánh mạnh. Tiếp đó bộ đội du kích họp, sôi máu bừng bừng, đưa ra những sáng kiến long trời lở đất. Tám Doãn muốn dùng hàng trăm cây ná bắn tên như mưa, cả tên độc lẫn tên thường, hễ không trúng mươi thằng thì cậu ta nhỏ bằng con kiến. Năm Bưởi thề rằng chị em sẽ xông vào đánh bằng gươm, giáo, mã tấu, một đổi một chứ không đòi nhiều. Ông Tư Chua họp với du kích, cam đoan các loại bẫy kẹp và chông heo chông nai của ông sẽ làm què chân ít nhất một nửa số lính địch.
Với nếp nghĩ mạch lạc lớp lang của người thợ vi-dít-tơ xe lửa, Cả Chanh cố góp nhặt tất cả những mới lạ và gạt bỏ cái phần cao hứng bốc đồng trong lời lẽ của anh em, cũng xóa bớt đi những lo ngại bàn lùi của vài người do dự. Anh quen làm như thế từ bao giờ không rõ. Các đồng chí ở nhà tù bảo anh có trình độ tổ chức khá, các đồng chí gặp anh sau khi vượt ngục thấy anh lãnh đạo đúng đường lối quần chúng, Chanh nghe lời khen mà cứ ngỡ ngàng, bởi anh khó hình dung một cách làm việc nào khác.
Bởi vậy, sau khi nghe ghi nhận rất nhiều ý trái ngược nhau, bản kế hoạch chiến đấu của Chanh được hầu hết anh chị em du kích ưng bụng, chỉ lèo thêm vào đôi ba điểm nhỏ.
Một tổ bốn người sẽ phục kích ở bến Huề Bình. Anh em phu bến đánh chìm phà sẽ buộc địch qua sông bằng đò, ấy là lúc bắn nhào một số bằng hai cây súng đang có. Khi địch đổ bộ, tổ này rút về Linh Lâm theo đường núi. Cần bốn người để giữ súng và cõng nhau khi bị thương, Năm Chò nắm tổ này.
Phần lớn đội du kích sẽ phục kích trên quãng độc đạo qua truông vắng, núi kẹp hai bên. Chặt nhiều cây to đổ xuống đường 56 cho thân và cành bịt hết lối đi, buộc địch dừng lại mở đường. Du kích đào hố núp trên sườn núi bắn tên xuống, hễ địch vỡ chạy thì a-lát-xô[1] bằng giáo mác cướp súng, địch mạnh quá thì rút. Tám Doãn chỉ huy trận này.
Chỗ đánh thứ ba giao cho ông Tư Chua và dân quân, với tổ Năm Chò lui về phối hợp. Dân quân sẽ đi mượn tất cả các bàn chông sắt có ngạnh mà dân làng hay đặt ở các cửa rẫy chống heo nai, đem xếp kín trong cỏ cao hai bên đường, ngang truông Dơi. Bị súng từ phía trước bắn xâu táo, địch sẽ nhào xuống lề đường tránh đạn, ngã sấp trên chông.
Cả Chanh chỉ huy chung, có Sáu Cam và hai em chăn trâu theo làm liên lạc. Bản doanh đặt ở miếu thờ Nghĩa tượng nằm lút trong rừng rậm không có đường qua lại, nhưng gần cả ba chỗ đánh.
Nơi rút về sau khi đánh là căn cứ B mới. Kho thóc gạo đã chuyển tới đấy vì kho cũ lộ.
Vận động dân làng tạm lánh vào rừng do Ba Mít lo. Nhà nào không muốn đi cũng ra lệnh phải giấu lương thực.
Dấu hiệu nhận nhau: khăn trắng buộc trên bắp tay trái. Hỏi và đáp để tìm nhau ban đêm hoặc trong rừng rậm: hỏi chiến, trả lời đấu.
Hầu hết ý kiến của anh chị em đưa ra, nhưng đến khi Cả Chanh sắp xếp lại và trình bày từ đầu đến cuối, họ lại tấm tắc khen anh cả học quân sự hồi nào mà tài quá, lo liệu đủ mọi bề. Chỉ còn thêm vài lời bàn góp: sắm sẵn đồ băng bó và thuốc men, cử người nấu và đem cơm, cho mấy chị xuống chợ Huề Bình dò xét và báo tin về trước. Còn gì chưa nghĩ ra thì về sau “anh cả ảnh bày cho”.
Trong đội, chỉ một mình Năm Chò đã trải qua súng đạn ở mặt trận. Anh gãi tai:
- Đi Lính cho Tây, chỉ có kinh ughiệm đánh thua thôi chưa thắng lần nào. Hồi tôi bị đưa qua xứ Mên chọi với lính Xiêm, Tây cho dàn trận dưới hầm hào, bắn cù cưa miết. Lính Xiêm được tụi Nhựt bày mưu nhiều lắm, chơi cho Tây hết đòn này tới đòn khác liểng xiểng...
- Thì anh nói thử, đánh sao cho Tây thua?
- À, để nhớ coi...
Cứ thế lần hồi Năm Chò nghĩ dần ra các mưu mẹo rất ly kỳ. Khi họp xong, anh còn nhớ thêm rằng trong đêm đảo chánh quân Nhựt vừa bắn súng vừa đốt pháo cho Tây loạn ù, theo lời kể của cô nhân tình bán rượu lậu ở Qui Nhơn. Toàn đội trầm trồ và tính chuyện mua rất nhiều pháo, thứ càng to càng hay.
Anh em ra về hết, Năm Chò vẫn đứng tần ngần đợi Cả Chanh.
- Đại... anh cả nè, thằng Hai Khánh lùng anh có việc gì vậy?
- Kìa Năm, cậu biết Hai Khánh là cơ sở Việt Minh rồi chớ. Hôm nhận hai cây súng cậu đi với mình mà!
- Việt Minh gì mà cưỡi ngựa đi thu lúa tô, bắn chim, thì thụt với Cửu Áng hoài! Bữa vô lấy lúa nhà nó, tôi thấy sang quá anh ơi. Họp làng ta để nó ngồi ghế nhơn sĩ thì được, tôi chẳng nói sao, có điều anh đừng tin tụi con quan lớn mà khốn đó, anh cả!
- Đồng ý, mình giao từng việc thôi. Việc của Hai Khánh là nắm tình hình địch, kiếm súng, nay mai còn nộp thêm lúa nữa. Được chưa?
Năm Chò lại gãi tai. Được vẫn được, nhưng cứ ngờ ngợ cách sao, khó nói quá!
*
* *
Pình, pình... pình, pình... pình, pình...
Từ phía Huề Bình vẳng đến đủ mười tiếng nổ của đạn moóc-chê theo nhịp bắn thong thả từng cặp rời nhau. Bước đầu như thế là đúng giao ước.
Đứng trong hố bắn sâu ngang ngực, Chanh nhìn quanh một vòng đội quân “cung thủ” của mình đang nhấp nhổm rướn nhìn xuống đường ô-tô, bẻ thêm vài cành lá mé sau cắm lên miệng hố trước mặt cho thật kín màu đất đỏ, săm soi những ống tên đeo trên lưng. Anh đã buộc anh em để hết tên độc tại căn cứ, dành cho những trận ác liệt hơn về sau. Mỗi người mang theo bốn năm chục mũi tên thường, trong đó một số lắp mũi nhọn bằng sắt có ngạnh, người bị thương giật tên ra thì ngạch xé toạc thịt hoặc mắc lại trong thân.
Năm Chò đi lom khom men sườn núi rậm xem xét thật kỹ, quay lại chỗ Cả Chanh, nhảy xuống cái hố đào dài cho bốn năm người đứng được. Anh lại mặc áo quần khố đỏ và đi giày săng-đá, những thứ ấy hằng ngày gây phiền phức và nóng ngốt người, vào trận lại rất tiện, tha hồ bò lết và lao qua gai góc. Anh phủi vệt đất dính trên báng cây trường Đức, gật gù:
- Coi bộ chơi được, anh em bình tĩnh lắm. Tôi cấm không được giương ná lắp tên trước. Súng nổ mới được làm.
- Tại sao?
- Một là lên dây để lâu, cánh ná yếu đi, cha nào cũng muốn bắn phứt. Hai nữa, thấy thằng địch diễu qua rển rển trước mắt, dễ ngứa ngón tay lảy cò lắm.
Chanh khen phải. Năm Chò quả đáng mặt chỉ huy. Những kinh nghiệm cũ của Năm đang lần lượt trở lại. Hễ hỏi dồn thì cậu ta bí, nhưng cứ để “rài rài rồi tính” thì lại moi ra được lắm ý hay trong cái khó hiểu biết chất ngổn ngang của anh chàng. Hơn nữa, sau lần “nhận tội” trước đội, Năm Chò bớt nói ẩu làm liều đi rất nhiều, và họa hoằn Chanh mới ngửi thấy mùi rượu phảng phất khi đứng ngồi bên cạnh Năm. Thôi được, giữ lời thề chừa rượu ang áng bấy nhiêu cũng là khá.
Một tiếng rơi nhẹ. Một tiếng nữa. Cậu du kích ngồi chìm trong tán cây rậm trên đầu thả xuống ba quả mua báo địch đến. Năm phút sau, Sáu Cam từ chỗ rình ven đường lom khom leo tới hố chỉ huy.
- Họ tới... đúng ba người...
- Có súng không?
- Mỗi người một súng, đeo sau lưng, cổ choàng khăn trắng.
- Đằng sau xa có lính theo không?
- Em chưa thấy gì. Để coi tiếp.
Qua cành lá, Chanh đã thấy ba người thong thả leo dốc, dừng đợi nhau rồi đi tiếp. Anh nhảy lên miệng hố, nhón chân san bụi mua to, xem kỹ khúc đường thẳng và trông chừng nửa cây số sau lưng họ.
Trên đường và các sườn đồi trọc hai bên không có bóng người. Ổn rồi.
- Ta xuống đi, Năm.
Đội cung thủ nằm im tại chỗ, đợi súng nổ mới bắn. Bốn người bước xuống đường đều cầm súng, bởi Sáu Cam vác theo cây súng hơi mượn về cho đội tập bắn hôm qua, và Cả Chanh đeo cây súng lục ru-lô bằng gỗ sơn đen trong bao da cạnh sườn, tay đặt hờ lên chuôi.
Ba người lính dừng phắt lại, giơ hai tay không chờ ra lệnh, tay hơi run và mặt tái, nhưng miệng lại toét ra cười.
- Dạ bẩm quan... quý quan... tụi con xin về...
- Đặt súng xuống đất, tháo nịt đạn.
Họ làm theo hối hả, miệng vẫn nói:
- Dạ, tụi con cứ sợ... quý quan bắn lầm tội nghiệp lắm...
- Doãn! Đưa một tổ xuống đây!
Cả Chanh chỉ gọi một tổ, nhưng anh em từ trên sườn dốc leo ùa xuống cả, vì nghe lầm hay tò mò chẳng biết. Ba người lính trố mắt nhìn mấy chục “quan” mặc bà ba, tay ná tay mác, vẻ mặt chỉ háo hức chứ không đằng đằng sát khí. Một cậu reo to:
- Thằng Mão ở Linh Trung đây mà!
- Ủa, mày hả Nhơn? Hai đứa nữa ở Linh Hạ đây nè!
Ồn ào, lộn xộn. Đã có mấy cậu cầm súng lên xem một cậu kéo quy-lát róc róc. Năm Chò quát:
- Coi chừng nổ cướp!
- Dạ thưa... thưa ông, súng không lắp đạn.
- Tất cả trở về lăng-sê, sẵn sàng chiến đấu! Tám Doãn nhận súng đạn, tạm giao cho tiểu đội Một trí quân trí súng như cũ đợi mệnh lệnh tôi!
Anh chị em cụt hứng, chậm chạp leo trở về các hố núp. Chỉ có Năm Bưởi cứ túm cánh tay Tám Doãn lay lay và nói thì thào, Cả Chanh chỉ nghe vài tiếng “nghen anh, nhớ chưa”. Các cô lại giành súng rồi!
Chanh đưa nhóm hàng binh lên chỗ bãi phẳng mé sau hố chỉ huy. Họ mừng quá, nói luôn miệng không đợi hỏi. Chỉ cần một lần chặn, họ chuyển ngay sang anh với em, uống nước chè đậm từ bi-đông của Năm Chò rót ra cái ca nhôm chuyền tay. Tám Doãn đeo cây mút-cơ-tông và nịt đạn mới thu, đến báo cáo đã giao súng xong, nhận ra thêm một người lính quê ở Linh Hạ là bạn chân sào chở bè dọc sông Linh. Chanh cứ để anh em hỏi nhau xoắn xuýt một lát cho tan hết lo lắng.
Hôm kia, sau khi bàn kế hoạch với Chanh, Hai Khánh cưỡi ngựa xuống huyện Tây Quảng cách hai chục cây số, vừa gặp hai xe lính của quản Lược chạy lên, đang đậu bên cạnh chiếc xe khách tự dưng hỏng máy phải tháo ra sửa, tài xế sửa ít mà tán gẫu với hút thuốc uống trà nhiều. Khánh cùng viên quản vào huyện đường. Quan huyện thấy lính về lại sợ hơn là mừng. Học chọc tổ ong rồi lủi biến, để cho ong xúm vào đốt quan. Quan chỉ nói qua loa rằng cộng sản đang làm loạn khắp nơi, nhiều nhất ở tổng An Sơn. Quản Lược trợn mắt vung quả đấm.
- Để đó quan coi, lính tôi rượt cộng sản chạy re tới núi mọi có đuôi!
- Họ chạy rồi họ lại về y như cũ, ăn thua chi... Hay là thầy đóng lại đồn binh ở Linh Lâm? Ai chớ nhà quan phủ Đỉnh chắc là trút lúa gạo heo bò ra nuôi quân mình trấn giữ...
Quản Lược xin kiếu trước để lo cho quân lính ra trận. Còn lại hai người, quan huyện đổi giọng ngay:
- Răng đó Khánh? Toa ở Linh Lâm kham nổi không?
- Thì cũng phải giả dại qua ải...
- Bữa hôm pa-pa đem tờ thỉnh nguyện của hương chức với dân chúng Linh Lâm xuống đây, moa làm liền giấy tờ cho ông cụ lấy đồn điền La-phác-sơ. Toa lấn qua sông được chưa?
- Thong thả đã, dục tốc bất đạt.
- Ồ, moa cũng khuyên ông cụ rứa. Cụ nói cứ lấy đủ giấy tờ để nắm đằng cán, về sau đưa ra cựu khế cựu bổn mới cứng lý. Việt Minh trên nớ đem toa ra tra khảo chi chưa?
- Chưa. Moa nộp trăm ang lúa, được xếp vào danh sách nhân sĩ ủng hộ cách mạng, ngồi ghế đầu trong mít-tinh lập tức!
- Chịu toa rồi đó. Ở đây moa chẳng có chi mà nộp...
Quan huyện còn rất trẻ, mới hăm sáu tuổi và chưa vợ. Năm ngoái quan lên thăm ấp phủ Đỉnh, làm quen với Khánh về nghỉ hè và cũng có buông đôi lời xa gần khiến cho cô Tôn Nữ Huyền Tâm thẹn thò quay mặt. Trong khi chưa chắc chắn về sau sẽ là gì gì của chàng sinh viên Hai Khánh, quan cứ toa, moa cho thân tình và dễ thay đổi cách xưng hô về sau. Thế nhưng bây giờ quan không nhắc tiếng nào tới nàng tôn nữ xấu xí quặt quẹo ở lọt trong vùng Việt Minh cả. Quan chỉ chăm chăm giữ thân để trở về Quảng Trị quê gốc.
- Toa bỏ nhỏ thẳng Quản Lược giùm moa ri nghe: liệu không làm ăn chi được thì cút về tỉnh đi. Gây thù kết oán rồi hai đứa mình bị Việt Minh treo cổ chặt đầu, oan hơn Thị Kính.
- Hễ nó giả đánh rầm rầm rồi lủi êm, toa chịu khó ký giấy chứng nhận cho nó chứ?
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên. Nhắc nó viết lập-bô[2] lên quan tỉnh là moa giúp đỡ tận lực. Tụi đó võ biền ngu hơn heo, toa nhắc vài ba lần cho nhớ nghe chưa.
Khánh ra ngoài, gặp riêng quản Lược trong quán nhậu. Hắn thần mặt ra khi nghe lời nhắn của ông lớn nào đó phía Việt Minh. Thấy viên đội lệ huyện Tây Quảng đi qua, hắn gọi vào cùng bàn. Hai người chơi thân đã lâu, và Lược mang máng cảm thấy bạn mình có dính chút ít gì đó với bên kia.
Giằng co lui tới hồi lâu, quản Lược giao hẹn sẽ đưa quân tới mé dưới bến phà Huề Bình không vượt sông được vì phà hỏng, chỉ lùng sục ngoài vùng Việt Minh. Trong số quân của hắn có ba người quê ở làng Việt Minh đã nói thật với hắn xin trả súng về nhà, lấy cớ rằng sợ vợ con bị “các ổng” trị tội. Hắn định cho họ trốn trong dịp này. Nghe Khánh bàn góp một hồi, hắn bằng lòng để cho họ mang theo súng đạn khi trốn: hắn cử họ đi thám sát coi thử Việt Minh trên Linh Lâm ra sao, và họ sẽ bị quân Việt Minh bắt sống. Ám hiệu báo cho Việt Minh đón bắt sẽ là mười phát đạn moóc-chê bắn rời vào núi hoang, có thể kèm theo nhiều loạt súng trường, tỏ ra có đụng đầu với du kích thật.
Hai Khánh cưỡi ngựa phóng gấp về Linh Lâm. Khi báo cáo, anh cho biết thêm về quản Lược. Hắn sợ bên ta lật lọng, lấy hết lính và súng xong sẽ đem tên chỉ huy ra chém đầu làm lễ tế cờ. Hắn nói xa xôi tới một viên đội nào đó ở Quảng Ngãi, gặp ông Việt Minh này nói toàn những sự hay ho xong rồi biến mất, tới ông sau lại hò hét diệt sạch Việt gian và giết luôn kẻ đầu hàng. Hắn đợi xem ba người lính về ở với Việt Minh có yên thân hay không.
Bị Năm Chò và Tám Doãn thúc giục, Cả Chanh đồng ý nhận ba hàng binh, thu ba súng. Đêm đến, anh nghĩ kỹ và thấy tiếc. Đáng lẽ ém họ trở lại để lôi kéo thật nhiều bạn bè cùng nhau quay súng mới phải, đây mình lại ăn non, ham xu lẻ!
... Đợi cho ba người lính chuyện trò xả hơi với anh em du kích xong, Chanh mới hỏi:
- Mấy anh hết sợ chưa đó?
- Dạ, hết trơn rồi. Tưởng ai chớ toàn anh em mình nổi dậy!
- Hỏi thiệt nghen, mấy anh muốn làm như họ không?
- Dạ muốn. Về thăm nhà sơ sơ rồi tụi em xin theo...
- Tốt nhứt là các anh quay trở lại rủ thêm nhiều người nữa, rủ được anh quản Lược về với chúng tôi càng tốt. Công trạng to lắm đó nghen!
Họ ngẩn ra nhìn Chanh, nhìn nhau. Người lớn tuổi hơn cả hỏi với giọng rụt rè ban đầu:
- Dạ, hay là quý anh còn nghi tụi em... ăn ở hai lòng...
- Hễ nghi, làm sao tôi dám giao nhiệm vụ cho các anh!
Chanh nói thật cặn kẽ. Họ hiểu ra nhưng cứ nằng nặc xin về nhà. Chỉ một mình cậu trẻ nhất chịu quay lại, coi như chạy thoát sau khi bị bắt. Du kích sẽ nổ một mớ pháo và rượt theo cho đồng bào thấy để làm chứng.
Anh. em ăn cơm trưa ngay tại chỗ phục kích. Ba giờ chiều, khi nước trong các ống tre cạn ráo và nhiều người ngủ ngồi trong hố, chị dân quân gánh đôi bầu từ chợ Huề Bình chạy lên báo tin thằng tù sẩy đã qua sông, quân thằng Lược nghe nổ nhiều đã rút lui về huyện.
Toàn đội du kích tập hợp trên đường đá, xếp hàng đôi đi xuống Huề Bình. Phần thứ hai trong kế hoạch bắt đầu: gọi hết đồng bào khu chợ Huề Bình đến dự mít-tinh đêm nay, bắt chánh phó tổng và lý trưởng ra nộp hết giấy tờ triện dấu, xin hàng phục Việt Minh.
*
* *
Du kích tràn khắp tổng An Sơn. Du kích về họp dân, lập chánh quyền mới ở nhiều làng tổng Cát Lộc. Du kích tập đi đều một hai một ở tổng Đông Phù, người đi đêm trên đường 56 nghe hô rất rõ. Du kích thọc xuống chặn xe đưa truyền đơn trên đường cái đen số Một. Du kích úp vào chợ huyện bắt bốn lính lệ, thu một súng và cho về cả bốn. Bảy người trong đội quân quản Hưng vác súng theo du kích. Một nhóm nhân viên của cái “Liên đoàn cướp giựt” bị du kích trói vào gốc cây dán tờ giấy chữ to “Cấm mở dây”, chúng chịu phơi nắng mưa đến khuya mới thoát.
Một tên quan Nhật đưa chừng, chục lính lên Tây Quảng.
Quan huyện phải chứng minh vì sao mình không đàn áp nổi lũ nhà quê nổi loạn. Quan nắm rất đích xác rằng Việt Minh lấy được một kho súng đạn lớn lắm của Pháp giấu trên núi để chống quân đội Thiên Hoàng, sau cuộc đảo chính chúng nó mộ quân cướp thóc và lập nên một đạo binh có tới năm sáu trăm. Phần chưa đích xác là có sĩ quan Pháp huấn luyện và chỉ huy đạo quân ấy, khi biết chắc chắn quan sẽ trình sau... Tên quan Nhật cho lính diễu qua phố huyện vài vòng. Trụ cờ vốn có hai dây ròng rọc từ hồi thuộc Pháp, hắn cho kéo thêm lá cờ Nhật bên cạnh cờ quẻ ly trên sân huyện đường, gọi thợ chụp ảnh ở phố vào bấm mấy kiểu trong khi lính Nhật xếp hàng bắn lên trời ba loạt. Hắn ghi địa chỉ gửi ảnh, khuyên quan huyện yên bụng chờ Hoàng quân lên dẹp giặc, lên xe vù luôn. Từ đó, các thầy đề, thông, ký, lại, cùng với quan huyện và đội lính lệ, đều biết rằng ngày giao nộp ấn tín súng đạn đã tới gần.
Giữa những ngày hừng hực của tháng Tám năm 1945 ấy, Cả Chanh đột ngột nhận lệnh điều về tỉnh.
Anh ngớ ra hàng giờ. Ở vùng núi Tây Quảng này anh thấy rõ mình đang làm được việc. Dù chẳng cái dại nào giống cái dại nào, nhưng ít nhất anh cũng có ích. Về tỉnh mà làm gì? Khắp cái tỉnh Quảng Nam to tướng này thiếu gì đồng chí tài giỏi hơn? Từ năm 1930 tới nay, qua thăng trầm chìm nổi. Đảng bộ Quảng Nam vẫn cứ lớn lên mãi!
Anh soạn giấy tờ và bộ áo quần kiểm lâm đánh dấu bằng vết đen trên vai, vọt xe, xuống tìm anh Tô Xáng, định xin ở lại Tây Quảng. Cũng có thể rước hết cả tỉnh ủy lên vùng căn cứ đã loang rộng nhiều tổng, chẳng có thằng địch nào phá quấy nổi.
Do đường dây trục trặc, mất hai ngày Cả Chanh mới gặp anh “Bát Đập”.
Chanh chờ đợi được giải thích hay bị một chầu sạc mạnh. Nhưng anh Xáng chụp lấy anh, reo ồn:
- Hú hồn hú vía, chút xíu nữa tao lên tìm mày lần thứ hai!
- Ủa, anh lên hồi nào...
- Cách đây năm hôm. Tao tới chợ Huề Bình tính vô Linh Lâm, bị tổ du kích gác chặn lại, nói là cấm địa. Xin gặp anh Cả Chanh, nói chẳng biết là ai. Túng quá tao đề nghị bắt giải vô anh cả xét, nói mắc gác không giải được. Bí rị chưa? Tao phải vô gặp tay huyện ủy gần bến phà, viết thư nhờ đưa hỏa tốc cho mày.
- Việc gì gấp quá vậy anh?
- Việc gì nữa! Việc sửa soạn tổng khởi nghĩa, việc giành chính quyền cả nước, việc Đảng mình đứng ra lãnh đạo nước Việt Nam độc lập!
Tim Chanh bóp mạnh một cái, lại đập thình thịch. Anh níu tay vào cạnh bàn để trấn tĩnh. Anh há miệng, định hỏi, nhưng tiếng cứ mắc trong họng. Có thể chẳng.... lẽ nào... sao mau quá vậy...
Anh Xáng lặng thinh, tựa hồ cũng choáng váng vì cái tin chính mình thốt ra. Anh run run nói tiếp, khẽ hơn:
- Sắp rồi Chanh à. Tao cũng bị bất ngờ. Nước Nhật sắp đầu hàng không điều kiện, đại khái xin dâng tánh mạng cho Đồng minh, thương nhờ ghét chịu. Trung ương ra lệnh làm tới tới đi, áp nạp đi, đừng sợ đổ bể gì nữa hết, ngon chưa? Nghe sướng cái màng nhĩ chưa?
- Đánh vô huyện vô tỉnh luôn à anh? Đánh lớn hả?
- Sao cứ phải đánh? Tay không lấy được thành cứ lấy. Đời xưa thổi sáo mà địch lui quân, bây giờ ta nổi chiêng trống khắp nơi, kéo biểu tình cả chục ngàn, trăn ngàn tới vây. Địch chống cự thì đánh, hàng thì tha, vậy thôi.
- Ngày nào ta làm, anh? Nổi dậy cả nước một lần, hay mạnh ai nấy khởi?
- Mày ở lại đây vài ngày, đợi lệnh giờ chót.
Cái xóm nhỏ và khuất cách thị trấn Vĩnh Điện bốn năm cây số đã biến thành bản doanh của Ủy ban khởi nghĩa. Cán bộ và dét-tê băng gò băng ruộng, theo đường ô-tô đường sắt, đến nhận chỉ thị, tài liệu không ngớt. Cả Chanh nhớ lại cuộc thuyết trình trong nhà tù về khoảng giữa cách mạng tháng Hai và cách mạng tháng Mười, khi hai chính quyền của nước Nga tồn tại song song trên khắp nước và ngay tại thủ đô. Nhỏ yếu như nước mình mà vẫn được? Quân Nhật đóng tràn lan, súng ống như rừng. Chính quyền Nam Triều vẫn còn đến tổng đến làng, chỉ sứt mẻ đôi phần ở vùng núi.
Dân mình, Đảng mình có đủ sức quật nhào một lần tất cả tòa thành đồ sộ của chúng nó không? Một tòa thành mối mọt đục ruỗng nhưng chưa mất bộ mặt đầy hăm dọa!
Cả Chanh viết một thư dài gửi về anh bí thư huyện ủy Tây Quảng, báo tin sửa soạn tổng khởi nghĩa, yêu cầu anh chỉ thị cho các tổng và làng sẵn sàng kéo biểu tình lấy huyện. Chanh viết thêm một thư cho du kích Linh Lâm và các làng chung quanh mang tất cả võ khí với thật nhiều gạo đến tập trung ở Huề Bình, đợi lệnh tấn công.
Anh Xáng xem cả hai lá thư, gật gù vừa ý, cho dét-tê mang đi, chợt gọi lại dể điền thêm vào dưới chữ ký của Chanh: “Thực hiện ngay các ý kiến của đ/c Thanh Trà phó chủ tịch Ủy ban giải phóng Quảng Nam. Tô Xáng”. Anh ký bên dưới.
Cả Chanh hoảng hồn thật sự. Anh giật hai lá thư, hỏi:
- Khoan đã, đợi chút... Anh Xáng giỡn gì lạ vậy?
- Ai giỡn với mày? Thơ anh Quý mới tới đây nè. Coi mau để anh em chạy giấy cho kịp.
Chanh rất quen nét chữ nhỏ hơn kiến của anh Bảy Quý xứ ủy. Anh Quý ưa viết bằng cây bút máy tự chế tạo trong tù: lượm cái ống tiêm vất đi, đốt trên đèn dầu lửa cho chảy và rút dài ra, bẻ ở chỗ thật nhỏ, đầu kia cưa cụt, nhồi bông vào lòng ống tiêm, rót mực vào cho thấm bông, làm thêm quản bút bằng giấy cuốn hay ống sậy. Thế là đủ để viết trên xấp giấy quấn thuốc lá hay bất cứ mảnh giấy nào nhặt được khi làm coóc-vê, chuyền qua các lao cho các chi bộ thảo luận. Lá thư này của anh viết bằng cây bút nhà tù, không lẫn được, cũng không dùng bí danh.
Đồng ý đ/c Thanh Trà TUV chính thức và phó CT. Đổi ra UBDTGP cho thống nhất với TƯ. Khi lập chính quyền sẽ là lâm thời Ủy ban Nhâu dân Cách mạng. Tạm để ngoài tất cả các đồng chí chưa đủ quyết tâm tấn công, ngại khởi nghĩa. Nắm thật chắc mọi lực lượng đang có, đợi lệnh cuối cùng. Quyết thắng và quyết thắng!!!
07 Quý.
Chanh bần thần trao lại hai lá thư anh viết cho hai dét-tê, một trai một gái. Cậu trai tủm tỉm vặn tháo đế giày da, lót thư vào trong, xoáy lại bốn chiếc đinh vít. Cô gái lủi vào trong buồng chủ nhà một lát, quay ra, chào gọn một tiếng và đi ngay, mặt hơi đo đỏ.
- Anh Xáng nè.... tôi ở luôn đây à?
- Ở luôn làm gì? Đợi lệnh về tới, mày phải chạy vù lên xốc ngược mấy huyện miền núi, cho tràn xuống dưới này. Việc của mày bây giờ là uống ki-na-crin, học thuộc lòng mấy nghị quyết mới, chờ lệnh tổng khởi nghĩa!
Chú thích:
[1] Tiếng Pháp: À l'assaul: xung phong
[2] Tiếng Pháp: Rapport, báo cáo.