- 20 -
Chỉ trong mười hai ngày, cả nước làm xong cuộc đổi đời.
Sáu vạn quân Nhật chịu co vòi trước những triệu người khởi nghĩa vung dao gậy. Lính nộp súng quan nộp công đường, vua Bảo Đại nộp ấn kiếm.
Cụ Hồ Chí Minh lập Chính phủ lâm thời, đọc Tuyên ngôn độc lập ở Hà Nội trước một triệu đồng bào cùng hô lời thề như sấm rền. Người Việt háo hức muốn trông thấy vị lãnh tụ mới, khắp nơi bàn xôn xao Cụ là Nguyễn Ái Quốc hay không phải.
Đồng minh sẽ vào giải giáp quân Nhật. Đà Nẵng nằm ngay trên vĩ tuyến 16, người bảo quản quân Anh - Mỹ sắp đến, kẻ khác đoán là quân Tàu.
Các tin đồn nối tiếp nhau chạy qua các đường phố và xóm làng Quảng Nam, tin nào cũng được cam đoan là từ Hà Nội truyền đi. Tim và óc của đất nước đổi chỗ đột ngột, dồn cả về thủ đô.
Sau ngày Lễ độc lập ở Đà Nẵng, Hai Khánh thu xếp trở ra Hà Nội giữa bao nhiêu thèm muốn của bạn bè. Ra thủ đô là được gặp Cụ Hồ, được đón nhận tất cả tinh hoa của cách mạng, được hiểu hết mọi sự mới lạ trên thế giới dành cho nước Việt Nam vừa phá tung ngục tù bước ra ánh sáng. Khánh sẽ học xong trường luật, góp sức làm nên các bộ luật mới của Việt Nam dân chủ cộng hòa trong khung cảnh tự do, thái bình, no ấm, hùng cường!
Khánh trở về Linh Lâm thu xếp cho chuyến đi mà ai cũng thấy là đầy mộng đẹp.
Đi trọ học xa, đầu tiên phải xoay ra tiền.
Sau hai đợt nộp thóc cùng hai chiếc vòng vàng tây giá rẻ quyên vào Tuần lễ vàng, mẹ con bà Cả xem như đã trả sạch nợ cho Việt Minh, giấu biệt mọi thứ có thể giấu, luôn mồm kêu túng, Khánh bị gạt ra rìa, chỉ còn là tay cai ấp được trả công bằng miếng chín. Tức mình, anh chơi lại một đòn tâm lý. Suốt mấy ngày anh kể lơ lửng những vụ quan lại tham nhũng bị chính quyền mới xử án, bị dân nổi dậy đánh chết tươi, bị thuộc hạ cũ ám sát cướp của. Bà Cả niệm Phật liên lu, chị Huyền Tâm chớm ngất. Dù ông phủ chẳng ngó ngàng tới họ, nhưng ở chốn rừng núi này mà lâm vào cảnh mẹ góa con côi trong khi dân chúng làm loạn, chao ôi... Bàn tính mãi rồi họ chịu bán bớt ba con trong bầy trâu của ấp, đưa tiền cho Khánh đi tìm ông Phủ đang biệt tăm. Về sau, nếu cần thêm tiền chuộc hay hối lộ xin tha, thì sẽ chạy tiếp. Bà Cả tự mình cò kè với lái trâu nhiều buổi, sau đó chìa cho Khánh bốn tờ giấy bạc năm trăm in hình con rồng màu xanh sẫm với nét mặt của chủ nhà nộp của cho cướp. Khánh sẽ đi tìm bố dượng ở Hà Nội, cũng được chứ sao!
Trước khi rời Linh Lâm, Khánh cưỡi con Hường và đeo súng hơi dạo một vòng khắp làng - đội du kích đã trả lại cả hai thứ mượn tạm đi giành chính quyền. Anh ghé thăm các nhà quen và từng lúc dừng ngựa, rình bắn một con cu đất mải mê gù gù gọi kết đôi.
Lão Cửu Áng vẫn tin rằng cậu cử với quan phủ là bóng với hình. Cặp má sề sệ của lão nhảy đều trong khi lão rướn cổ thì thào, mắt liếc xéo sang hai bên:
- Cậu gặp quan, thưa giùm là tôi ở với Việt Minh bây giờ phải cúi đầu chờ thời, chớ trước sau gì con vua lại làm vua thôi cậu à. Tụi nó sợ náo động. Chưa đụng tới ấp quan phủ đâu, mới kêu gọi quyên góp thôi. Cậu cứ thí bỏ chút ít cho xong, thóc lúa đi mà ruộng đất còn nguyên. Tiền giấy đi mà bạc vàng còn dưới đất, về sau ta lấy lại chẳng khó đâu, quan còn tính bắt trả gấp mười nữa chớ, hề hề hề...
Thanh niên trong làng đã đánh tiếng sắp đập phá bàn đèn chống nạn thuốc phiện. Lão Xâm Tô không dám nằm hút giữa nhà để trông coi kẻ ăn người làm nữa, rút vào buồng kín nhưng vẫn kéo vo vo mỗi ngày hai bữa thuốc, mỗi bữa không dưới năm chục điếu tiêm trôn quýt, được ghi đệm bằng cái bàn tính lắp những con gẩy nhựa xanh đỏ.
Lão đặt dọc tẩu xuống, nhấc bộ xương cách trí ngồi lên, líu lô líu lường cho Khánh biết rằng chánh phủ Việt Minh mới tuyên bố xóa bỏ quyền cai trị của Tây thôi, ắt là chịu trở lại thọ phong như hồi trào Mãn Thanh, bây giờ là trào của Tưởng thống chế, ba năm một lần cống nạp chẳng sai. Khánh nhìn lão nướng thuốc, lăn que tiêm lên tẩu, phóng điếu thuốc vào lỗ nhĩ, miết cặp môi thâm dính quện vào dọc tẩu, rít đến căng đầy buồng phổi chất khói giết người ngấm dai, nhả ra một thứ khói beo béo gây gây, thơm và hôi lẫn lộn. Anh chào vội, bỏ đi gấp. Nắm xương biết hút và nói này đã nắm hết giá cả buôn bán ở Linh Lâm mấy chục năm liền bằng cách nào? Hung hãn như La-phác-sơ, đa mưu như phủ Đỉnh, khéo luồn lọt như Cửu Áng, anh còn hiểu được. Lão Xâm Tô này chỉ mất mấy phút đủ túm cẳng vất xuống sông Linh sao ta vẫn để ườn xác ra đấy?
Khánh quay ngựa ra đình làng, chào ủy ban.
Ông Tư Châu chủ tịch đang vắng. Ông đi theo một nhóm cán bộ huyện Tây Quảng lên làm lễ mừng Độc lập trên các làng Thượng, chắc mươi ngày nữa mới về. Tám Doãn được điều xuống huyện chỉ huy phân đội cảnh vệ mới lập, chưa có ai thay. Cậu Ba Mít với bộ mặt rỗ và đầu tóc chải mỡ bóng nhẫy ngồi ghế thường trực ủy ban. Cậu đĩnh đạc giải thích cho Khánh rằng chánh sách của Việt Minh và chánh phủ Cụ Hồ không cho phép ai động tới tài sản người khác, anh Hai cứ yên bụng mà đi. Cậu dứt câu chuyện bằng lời rỉ tai hỏi mượn một trăm tiêu tạm. Khánh rút ví đưa ba chục, nói rõ là biếu luôn, bước ra với cảm giác lờm lợm như khi ngửi khói thuốc phiện của lão Xâm Tô, nhưng bốc ra từ miệng một kẻ nắm con dấu đỏ trong tay.
Sang xóm Mới, cái ổ dân ngụ cư tứ chiếng đã sinh ra một đội du kích Linh Lâm, Khánh được đón tiếp theo kiểu khác. Từ lò rèn ông Tư Chua đã kín đáo truyền đi cái tin rất bí mật rằng Hai Khánh là người của bên ta gài vô tổ Tây Nhựt quan quyền. Bà con nháy mắt ra vẻ hiểu rõ vì sao anh cứ lang thang cưỡi ngựa bắn chim hoài vậy, vài người nhờ anh nói lại Cả Chanh về lo việc làng xóm chút ít.
Tư Quýt ngồi lò, Năm Bưởi đánh búa, Bảy Bòng thổi bễ, vài ba người chầu rìa tiện tay giũa hay mài giúp những lưỡi mã tấu rèn thêm cho dân quân. Không còn những người tới thì thào, vờ đi xuống khe Hội rửa để linh ra chòi rẫy anh Cả Chanh như trước, nhưng không khí lò rèn bao giờ cũng nhộp nhịp và vui thân, Khánh kéo cái đòn gỗ ngồi xuống uống nước chè đậm, tán gẫu một lát, tả cảnh Hà Nội cho bà con nghe. Dân Linh Lâm đi Phố đi Hàn luôn, nhiều người vào Qui Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, nhưng chưa ai ra Hà Nội, bỗng dưng dân làng háo hức quay về hướng bắc, thèm đi tới chỗ bất cứ ai cũng có thể gặp Cụ Hồ và thưa vài câu chuyện.
Khánh nhác thấy một cây súng kỵ binh Nhật treo trên con xỏ đầu cột, kèm một thắt lưng da to của lính Pháp có bao đạn đầy và hai quả đạn móc ngoài. Nghe hỏi súng của ai, Tư Quýt cười cười hất hàm:
- Ai vô đó nữa. Chỉ có mấy bà khóc từng hũ nước mắt mới kiếm được đồ bảnh, đực rựa như tụi tôi xin mời bắn ná thôi!
Năm Bưởi đang chống búa đứng đợi, hai gò má cao và lấm tấm mụn cá chợt đỏ rựng. Khánh mượn xem cây súng khá xinh và nhẹ, cỡ nòng chỉ bằng mút đũa, viên đạn giống kiểu đạn ĐAM của Pháp nhưng thu nhỏ hẳn lại. Phụ nữ dùng thứ này thật tuyệt!
Năm Bưởi nghe anh khen súng hợp với người, lại đỏ mặt không nói. Đợi khi Khánh ra về được mươi bước, Năm mới buông búa đi vội theo, gọi giật:
- Đợi chút, em hỏi cái này.
Khánh dắt ngựa đi bên Bưởi, nghe kể nỗi bực tức ghê gớm của cô gái mười bảy tuổi có dáng vóc của người hai mươi.
- Hồi cần lấy huyện lấy tỉnh thì người ta chẳng kể lớn nhỏ gái trai. Cách mạng thắng rồi, lựa người đưa vô Giải phóng quân, các ổng đuổi hết con gái về nhà, nói là thượng cấp chưa cho lấy lính đàn bà. Có ông lại nói ra miệng là tụi em chân yếu tay mềm, ở làng làm du kích còn khả dĩ, đi lính chủ lực thêm vướng chân đàn ông. Nói vậy mà không mắc nghẹn mới thiệt lạ! Đội nữ của em lên tới hăm ba người rồi, tự xoay xỏ kiếm được mười lăm súng, còn lại thì mã tấu lựu đạn, tập bắn tập bò chẳng kể sống chết. Chị em nghe vậy nản chí hết, cãi không nổi, bỏ cơm nằm vạ không ăn thua. Số mới nhập bỏ về trước, lần hồi còn lại bốn đứa lì lợm nhứt. Mấy ổng dỗ riết, hai đứa chịu trả súng làm cấp dưỡng, em với con Thìn ở Huề Bình ỳ ra không trả, không nhận nấu cơm hầu con trai. Thét rồi mấy ổng kêu lên bàn giấy, nói tặng luôn hai cô hai cây súng đẹp nhứt để thưởng công hoạt động du kích, bây giờ hai cô cầm giấy giới thiệu đây về làng nhận công tác mới!
- Sao Bưởi không nhờ anh Chanh?
- Khốn khổ, lập chánh quyền ở Thái Phiên xong ảnh bịnh nặng lắm, mửa ra máu, phải chở gấp ra nhà thương tây ở Huế. Nghe nói rọi điện nhiều lần mà không lành, họ tính mổ xẻ sao đó, cả nhà lo cuống mà không đi thăm được.
- Xin giấy mà đi chớ!
- Giấy có no được đâu! Tiền tàu xe, tiền ăn ở, mỗi thứ mỗi tốn mà nhà em lâu nay toàn rèn giáo mác cho du kích, gạo hết tiền không...
Khánh vội rút ví ra, đưa cho Bưởi một tờ năm trăm mới nhận hôm qua. Bưởi lại đỏ mặt, nặng giọng:
- Anh Khánh tưởng em hỏi khéo để mượn tiền à?
- Không, không, bên ấp mới bán trâu...
- Em nghèo chớ không hèn đâu. Anh coi ngó ấp ông phủ thì cứ coi ngó, đợi thượng cấp xét sau, đừng đem tiền ông phủ đi làm ơn như vậy. Em thấy anh thân với anh Cả, hay đi đây đi đó em kể hết để có gặp ảnh thì nhờ anh nói lại giùm, ai dè...
Năm Bưởi vùng vằng quay vào lò rèn. Khánh bần thần đút tiền vào ví, leo lên ngựa, thả cương cho nó đi bước một. Ra thế đấy. Bà con vui vẻ coi mình như bạn, nhưng mình vẫn không phải là người của họ, không phải đồng chí với nhau. Trước mắt họ, mình tiến bộ và có ích nhưng vẫn là cậu cử quản lý ấp cho bố dượng tri phủ, mình chưa thật sự cùng hội cùng thuyền. Cô du kích nói tuột ra trong cơn giận, nhưng cô nói đúng quá còn gì...
Bốn tờ giấy in rồng xanh như biến thành những mảnh tôn rút trong lò ra, đè nặng và nóng bỏng trong túi Khánh.
Hôm sau, anh xách va-li ra bến đò ấp, mé dưới bên vạn. Chiếc thuyền xuống Đà Nẵng y hẹn ghé đón anh ở đấy, sẽ đến cửa Hàn sau một ngày đêm xuôi sông Linh và Thu Bồn.
Chuyến xe lửa ra Bắc ấy chở gạo nhiều hơn người. Toa đen đầy gạo đã đành, các toa hành khách cũng chất bao gạo ở tất cả những nơi mà chất được. Khánh kê va-li nằm trên đống bao gần cửa sổ, mỗi lần tàu đến ga lại phải kéo tấm cửa gỗ lên tránh những túi bọc ném vào toa và người leo tiếp theo, nhảy dù chẳng kể húc hay đạp trúng ai.
Ngoài Bắc đồng bào chết đói, ta đi đường người trên gạo dưới còn sang chán. Khánh thích thú với phần hi sinh nho nhỏ của mình, chỉ cố giữ chỗ nằm và cái va-li gối đầu.
Đến ga Thanh Hóa, anh xuống đi bộ bên toa một lát cho dãn gân, chợt sửng sốt khi gặp một đoàn tàu vào, trút xuống ga một lũ quân kỳ quặc chưa từng thấy. Hành khách chung quanh oang oang gọi nhau tới xem Tàu phù, Tàu vàng, Tàu Tưởng.
Áo quần chúng màu vàng nghệ, mặt mũi chúng cũng vàng khè, đứa nào không vàng thì lại bủng beo như ma chết trôi. Chúng xuống toa rất chậm vì hầu như đứa nào cũng vướng một gánh lình kỉnh những súng đạn, bao bị, nồi niêu, chăn áo. Đặt gánh xếp hàng xộc xệch trên sân ga xong, chúng phanh áo ra bắt rận gãi ghẻ sồn sột, cào cấu mớ tóc bù xù chắc là đầy chấy, quấn lại xà cạp kiểu chân voi trên bắp chân phù, vạch quần đứng đái tồ tồ trên nền xi măng, trợn mắt líu lô khi thấy người Việt chỉ chỏ và cười sằng sặc. Số đông đi chân đất đã quen, chỉ có mấy đứa rút giẻ trong bọc ra quấn bàn chân. Vài tên đi giày vải hai màu đen trắng, đeo súng ngắn, quát tháo những gì không ai hiểu, thình thoảng tát bốp vào mặt lính, trông như cảnh sát thời Tây giữ trật tự trong buổi phát chẩn cứu đói. Quả thật là chúng đói lâu năm trước khi sang đây. Nếu bỏ bớt đi những cây súng cồng kềnh và bộ mặt cố làm oai, đồng bào ta rất sẵn lòng nấu cháo khiêng ra đãi lấy phúc!
Một anh cán bộ đeo băng đỏ sao vàng cầm loa đi lui tới, thỉnh thoảng đưa lên miệng nói khàn khàn:
- Đồng bào chú ý hô theo tôi: Hoan hô quân đội Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Hoan hôôô....
Chung quanh chỉ cười hô hố. Anh cán bộ cũng cười theo, nháy nháy với những người đứng gần, nói vừa đủ nghe:
- Đứng xa tí nhá, kẻo lại lây chấy rận chúng nó. Đi với lũ nửa người, nửa ngượm nửa đười ươi, buồn nôn bỏ mẹ!
- Anh yên trí. Vui hơn xem bú dù ở vườn Bách thú!
- Nhớ đừng khiêu khích chúng nó, súng có đạn cả đấy... Xin mời đồng bào cùng tôi nhiệt liệt hoan nghênh quân đội Đồng minh vào tước vũ khí phát xít Nhật Bản!
Bên cạnh Khánh một anh bộ đội xuýt xoa:
- Trông mà thèm rỏ dãi...
- Thèm gì?
- Súng còn mới lắm, chắc chưa bắn phát nào. Chỉ xin Cụ Hồ nhắm mắt năm phút cho con cháu xơi gọn vài trăm khẩu này thôi. Cánh ta với nhau, cậu lánh mặt đi chốc lát nhé?
Anh cán bộ đeo băng hốt hoảng chặn:
- Ấy chớ, nó nhếch nhách thế cơ mà là quân đồng minh đấy bố trẻ ạ. Đừng lao vào chỗ hàm chó vó ngựa! Tớ bảo này: đợi khi chúng nó đi lẻ, các cậu làm xôi thịt hành mỡ thật ngon vào, gọi cho nó ăn, chúng nó chén đẫy rồi trợn mắt lăn đùng ra, mất súng cũng chả bắt vạ chính phủ mình được.
- Ha ha ha... Khớ khớ khớ... Hô hô hô...
Mặc cho chung quanh cười tức bụng, anh đeo băng lại cầm loa đi phía khác kêu gọi hoan hô, như người đóng vai hề chỉ chọc người mà không hề nhếch mép.
Từ Thanh Hóa trở ta, Khánh còn thấy quân Tưởng nhiều lần nữa nhưng xe lửa không dừng lâu. Một tờ báo mua trên, sân ga cho biết lũ lính ghẻ lở phù nề ấy đông tới vài chục vạn và sẽ tràn vào đến Đà Nẵng. Trong toa xe, rất nhiều người bàn tán theo ý anh bộ đội ban nãy. Ta đang thiếu súng, mong sao Cụ Hồ cho dân mình tước vũ khí của bọn Tàu, như thế sẽ thu sạch được cả ba kho súng: của tám vạn quân Pháp bị Nhật lấy, của sáu vạn Nhật bị Tàu lấy, của Tàu, Nhật, Pháp rơi hết vào tay ta, vô cùng ngon xơi! Ra đến thủ đô là phải xin gặp cụ ngay, Cụ bận thì cũng viết thư nói thật khẩn khoản để Cụ hiểu lòng dân chúng!
Khánh xách va-li bước ra khỏi ga Hàng Cỏ, đầu còn nóng bừng bừng với những kế hoạch động trời. Chỉ qua vài ngày, mớ bọt xà phòng đầy màu sắc lung linh ấy vỡ tan không còn dấu vết.
Anh phu xe kéo đòi hai đồng để chở đến phố Cô-lông, lúc này đã đổi ra Phan Bội Châu. Cách đây nửa năm cuốc xe ngắn ấy chỉ năm hào. Cáu sườn, Khánh xách va-li kéo bộ. Anh ghé vào quán phở, cẩn thận hỏi giá trước khi gọi, giật mình khi biết hai đồng một bát. Tờ giấy bạc Đông Dương teo lại kinh khủng, ở Đà Nẵng bát phở một đồng còn đầy tú hụ, phở Hà thành nghìn năm văn vật dềnh lên những nước như vỡ đê!
Căn buồng Khánh thuê trước đây đã chuyển sang một gia đình năm người bị bom hỏng nhà, cán bộ ta đến kêu gọi không tăng giá. Bà chủ cho biết thêm ông ký giả ở tầng dưới đã thôi việc, đưa vợ con về quê, nếu cậu Khánh muốn thế phòng ấy thì bà tính rẻ mỗi tháng trăm rưỡi thôi, tất nhiên nếu thêm chị Nết ra cùng thì phải hai trăm. Chỗ thân quen nên bà chỉ lấy tiền trước ba tháng, những như người ta thì phải chồng thêm tiền vào cửa, trả trước ít nhất nửa năm mới khỏi bị tăng giá.
Điếng người Khánh chỉ vâng dạ qua loa, xách va-li tìm nhà trọ cạnh ga ngủ tạm. Một phòng nhảy đầm lớn được ngăn thành mươi buồng tí xíu, Khánh trả tám đồng để thức gần trắng một đêm vì rệp đốt nhoi nhói, mới chợp mắt lại bị một tốp khách từ Hải Phòng lên làm ăn ầm ỹ không ngủ được.
Rất may là sáng hôm sau Khánh vớ được một cậu bạn tốt bụng trước kia cùng học Luật, nay ở với nhà vợ làm nghề mạ và vẽ gương soi trên phố Hàng Lọng, từ ga Hàng Cỏ đến chợ Cửa Nam. Cậu ta cho gửi va-li và dành cho Khánh một chỗ trải chiếu trên căn gác chật, chỉ nhắc Khánh nên về nhà trước chín giờ tối vì Tàu phù hay cướp đêm. Cậu còn nhắc Khánh ra phố không nên đeo đồng hồ hay mặc sang, Tàu phù vừa gào Dật pủn chất[1] vừa lột sạch chỉ chừa lại quần đùi.
Cậu bạn thấp lùn cởi trần ra đánh bóng những tấm kính sẽ mạ làm gương soi, ném cho Khánh từng mẩu tin mới. Chưa có tăm hơi gì trường Luật sẽ mở cửa. Ngày xưa nước ta tứ nguyệt tam vương là chuyện mèng thôi, nay lục nguyệt tam chế mới thật ly kỳ. Đấy nhé, trước đảo chính mồng chín tháng Ba là chế độ thuộc địa dưới quan Toàn quyền Pháp, tiếp tới cái chế độ đặt tên to tướng là đế quốc Việt Nam với quan Tối cao cố vấn Yô-kô-ya-ma cưỡi trên đầu vua Bảo Đại, thoắt cái bôm nay là chế độ dân chủ cộng hòa còn mới toanh, ngay hiến pháp cũng chưa có. Ai soạn cho kịp các bộ luật để dạy trong nhà trường? Liệu mà đổi trường hay kiếm nghề khác làm ăn cho được việc!
Từ đó Khánh bắt đầu lang thang trên đường phố Hà Nội.
Những ngày rầm rộ biểu tình hàng chục vạn người giành chính quyền, nỗi vui ngây ngất khi mở hội một triệu đồng bào cùng giơ tay thề với Cụ Hồ Chí Minh quyết giữ độc lập, chiếc nhẫn cưới tháo ra trao trong Tuần lễ vàng, cuộc họp đầu tiên ủy ban khu phố, đồng bạc đầu tiên góp vào Quỹ độc lập, bữa nhịn cơm trong Ngày đồng tâm đầu tiên dành gạo cứu đói, tất cả những việc làm thiêng liêng ấy in dấu không phai trong lòng người thủ đô. Cách mạng lay động mỗi tâm hồn đến tận đáy sâu, đánh thức từng chút tự hào và mơ ước còn lại ở cả những ai tuyệt vọng nhất. Mình là công dân một nước độc lập rồi, Việt Nam sánh vai với các nước văn minh rồi, phải thế nào chứ! Trộm cướp biến đi đâu hết. Cô đầu Khâm Thiên và Ngã Tư Sở thu vén để hoàn lương. Đồng bào chạy đói ra tỉnh ăn xin nay lĩnh gạo cứu tế, dắt dìu nhau về quê khi lác đác có lúa mới. Dường như trước đây Hà Nội là một thân thể ngủ mê, trong đó chỉ có những người cách mạng nhận lấy vai trò của tim đập và phổi thở. Hà Nội ngày nay là con người vừa bừng tỉnh, đang chạy nhảy hò hét cho tất cả các tế bào cùng một lần rung chuyển.
Giữa lúc ấy, nạn dịch Tàu phù đổ ụp xuống một vùng đất vừa chôn hai triệu xác chết đói. Những người còn sống bằng hi vọng nhiều hơn cơm, nhịn may áo lấy vải may cờ, nay phải cắn răng nhìn từng đám mây châu chấu từ phương bắc tràn đến. Chúng gặm nhai tất cả những gì mới nhú mầm lên, người chủ đất lại không được phép đập chết hay xua đuổi. Sao mà ngược đời thế!
Khánh cuốc bộ trên các vỉa hè quen thuộc chung quanh vùng Bờ Hồ, cảm thấy khá nhanh cái không khí dồn nén hậm hực đang làm cho Hà Nội khó thở.
Theo phố Tràng Thi, anh đến tìm người quen ở Thư viện Trung ương. Một tiếng quát lạ tai chặn anh lại. Tên lính Tưởng nhấc cây súng cắm lê dựng đứng lên cầm ngang, nạt một tràng tiếng lạ. Anh tạt sang hè phố bên kia, nghe một cậu đeo kính trắng vừa đi tới nói hằn học:
- Ông bạn ở cung trăng rơi xuống đây à? Còn bíp[2] đâu nữa mà đến làm mọt sách, chúng nó đem đun bếp cả rồi!
- Quái nhỉ họ gác đây làm gì?
- Thưa rằng họ chiếm đóng. Mời ông bạn đi xem phủ Toàn quyền, nhà Thương Đồn Thủy, các trường học, đến gần là ngửi thấy mùi cứt Tầu phù đến lộn mửa!
Khánh đi thẳng đến Bờ Hồ. Ở nơi dạo mát này ít nhất cũng đỡ bị chúng nó làm ngứa mắt. Anh ghé vào một quán giải khát gọi cốc chanh quả, thấy luôn một áp-phích mấy chữ to dán trên vách gỗ: “Đả đảo Việt Minh độc tài cộng sản!”. Bên dưới thêm một áp phích nữa với tiêu đề “Tuyên bố của Việt Nam cách mệnh đồng minh hội”, và chữ dưới cùng là Nguyễn Hải Thần. Đọc lướt qua mấy dòng, Khánh cáu tiết đứng dậy định bỏ đi, vừa lúc đó cô bán quán bưng cốc đặt trước mặt:
- Ông xơi ạ. Ông xem của ấy làm gì!
- Cô dán giữa mặt khách hàng lại bảo đừng xem!
- Khối người tưởng thế, hàng em mất khách oan uổng. Người ta đến dán bộp một cái, chĩa súng cấm em không được bóc, liệu hồn mà kẻo nhà cháy người chết đừng kêu. Nào em có biết liệu ông Thần ông Quỷ nào đâu!
Vài chỗ khác, Khánh lại gặp những tuyên ngôn của Việt Nam Quốc dân đảng do Vũ Hồng Khanh ký, những tờ truyền đơn của Đại Việt quốc gia liên minh, tất cả đều dán chi chít chung quanh những bản bố cáo to tướng in chữ Hán và chữ Việt của đại tướng Lư Hán, tư lệnh Đệ nhất phương diện quân Trung Hoa dân quốc. Có lẽ những kẻ dán truyền đơn chửi Việt Minh đều hãnh diện được bám quanh tên tướng Tàu phù. Lạ thật, đảng phái ở đâu mọc ra như nấm mùa mưa thế này? Mà sao họ nhất định phải chửi rủa hằn học đến thế.
Để tránh quấy quả anh bạn sống gửi rể nhà vợ. Khánh ăn cơm hàng cháo chợ cho qua bữa. Xong bữa chiều giá sáu đồng trong cái quán lụp sụp đường Bờ Sông, hết tiền lẻ, anh rút tờ giấy năm trăm ra trả. Bà hàng hốt hoảng xua tay:
- Nhà cháu nghèo thế này làm gì có đủ mà giả lại cậu!
Khánh gửi cái mũ, chạy qua mấy hàng khác đổi tiền lẻ. Hai nhà bảo không có, chỗ thứ ba, ông Hoa kiều bụng phệ giơ tờ giấy lên soi, lại thấm nước bọt quệt tay trên mặt hình màu vài lần, gật đầu:
- Đồng pạc thật á. Giấy con dồồng xanh đổi hai trăm, con dồồng vàng đổi pa trăm, pằng lòng thì đổi.
Khánh há miệng mà tắc họng. Ở Đà Nẵng, anh đổi một tờ thế này chỉ các hai chục trong khi đang vội, lấy tám trăm cho xong. Ông này nhận là bạc thật, sao chỉ đổi hai trăm? Thấy Khánh tần ngần, ông vất trả tờ giấy bạc, làm vội những bát sủi cáo bưng cho khách, không một chút vồ vập trước món lãi đang làm Khánh kinh hoàng.
Bà hàng nhận cho gửi tạm cái mũ để mai đem tiền để chuộc, còn dặn Khánh chỉ nên về nhà theo những phố đông người sáng điện nhất, khi hô hoán lên còn có người mình xúm vào bênh nhau.
Cái xưởng làm gương soi trên căn gác Hàng Lọng vừa nghỉ, anh bạn học đang quét dọn sàn nhà. Nghe kể vụ đổi bạc, cậu ta buông chổi cười ngặt nghẹo:
- Mới tếch khỏi Hà Nội mấy tháng mà cậu đã cả quỷnh thế! Hồi đảo chính, thằng đặc sứ Nhật Txư-ka-mô-tô lên làm Toàn quyền để nguyên bọn cầm đầu Ngân hàng Đông Dương với bọn kỹ sư in giấy bạc ở nhà in I-đê-ô, chỉ lấy vét hết số bạc chưa phát hành, lại đốc thúc in thêm mấy tấn giấy năm trăm nữa, là thứ rồng xanh của cậu đấy. Chả là thiếu thứ mực Lo-ri-yo vàng óng của Tây, phải thay mực xanh vào. Bây giờ bọn nhà băng giở quẻ, bảo giấy năm trăm rồng vàng là thứ mất trộm, giấy rồng xanh là của Nhật, không chịu đổi, dân mình đang biểu tình ầm ỹ đấy.
- Thế sao lão Khách bán sủi cảo chịu hai trăm?
- Vì lão là Tầu! Lão đưa hai trăm, đem đến bọn Lý sự hội hay bang trưởng Tầu đổi lấy vài chục bạc lãi, bọn này đổi lại cho các ngài tư lệnh Truug Hoa được chừng ba trăm, các ngài sẽ mang quân đến vây Ngân hàng buộc đổi bốn trăm chẳng hạn. Đám nhà băng sẽ thanh toán với mẫu quốc gần đúng năm trăm để chấm mút vào đấy. Tây Tầu cứ thế làm giầu, dọc phố đầy khối người mình trắng tay. Muốn thoát nạn, phải đợi chính phủ Cụ Hồ in được giấy bạc kia!
- Đem quân đến gô cổ bọn Ngân hàng là gọn nhất...
Cậu kia cười to hẳn:
- Mời cậu gô luôn mấy chục vạn quân Lư Hán cho tớ nhờ mấy! Đã phải nhận đồng quan kim nào chưa? Nếu gặp của nỡm ấy, cố xua ngay như xua tà nhé. Trông tốt mã thế này mà ở Côn Minh một cân giấy quan kim chỉ mua được mươi cân gạo thôi, sang ta chúng ép phải chịu một đồng quan kim ăn đồng rưỡi Đông Dương, khủng kiếp chưa.
Khánh ngắm nghía tò bạc in trên giấy rất trắng, nét tinh vi, đặc biệt trình bày theo chiều đứng, một mặt toàn là chữ Hán với hình Tôn Trung Sơn, mặt kia toàn chữ Anh. Có dòng nhỏ xíu dưới đáy, tiếng Anh: Công ty giấy bạc Hoa Kỳ.
- Ban đầu mấy chú Khách cầm quan kim đi khoe: Quốc quân mang đô-la Tầu sang, quý lắm đây, chịu đồng rưỡi Đông Dương là thương dân ta nghèo, chứ nay mai đổi ngang đô-la Mỹ tha hồ mà mua hàng ngoại, có người tin, đến khi thấy lính Tầu phù quá đói rách mà túi đầy quan kim mới ngờ ngợ. Hàng nhà tớ lính không ham, chỉ vài đứa vợ lính ghé vào, tớ nói thách gấp năm lần chúng cũng hí hửng mua vội thì ra vẫn hớ!
Nể lời Khánh nằn nì, cậu nhờ bà mẹ vợ mang tờ rồng xanh đến lão bang trưởng ỏ phố Cửa Đông đang có mấy tướng tá quân Tưởng đóng trong nhà, nói khó đổi được hai trăm tư là may rồi. Khánh tính thoáng qua, thấy mỗi tờ năm trăm mang ra đây chỉ bằng xấp xỉ một trăm hai ở Đà nẵng, dưới một trăm ở huyện Tây Quảng. Muốn ở lại Hà Nội, dù để vào một trường nào đấy hay tự học thêm, Khánh phải kiếm nghề phụ.
Từ sáng đến tối Khánh đi gặp các bạn cũ. Trung bình phải một lần tới nhà viết giấy hẹn, lầu sau mới gặp được, đôi người ba bốn lần báo trước vẫn đi vắng. Sinh viên Luật phần đông là con quan, con nhà giàu, con công chức cấp cao, thường chơi thân với nhau từng nhóm nhỏ chứ ít giao du rộng như sinh viên các trường khác, cũng ít sống trong khu Đông Dương học xá mé Bạch Mai là nơi anh em nghèo nay chia năm xẻ bảy. Vào Vệ quốc đoàn có. Làm cán bộ các ngành trong chính quyền có. Về quê giữ của cho bố mẹ có. Đưa bằng tú tài ra xin một chân thầy giác có. Buôn lậu kiếm lãi như điên có. Tiêu tiền nhà đi lang thang chửi đổng có. Nhảy vào Việt Quốc, Việt Cách[3], viết báo và truyền đơn chửi Việt Minh có. Mặc áo Tàu phù đi ám sát, bắt cóc, tống tiền, nổ súng bắn lại công an có.
Quái gở, sao con người có thể biến đổi đến thế nhỉ?
Thằng Sang cùng lớp với Khánh nổi tiếng lù đù, nay lại lừng danh trong giới bờ lờ. Hắn gặp Khánh khi vừa được món bở, kéo đi chén một trận rất mẹ kiếp với hai gà bốn chim kèm một chai vang cũ Boóc-đô còn nguyên mạng nhện, tuyên bố rằng hắn chỉ tôn thờ ông thần Tài, chủ nghĩa Xìn, đạo Kim Ngân. Những đứa thích tồ nghệch quých quýnh, xin cứ việc! Nhưng dù say nghiêng ngả, hắn vẫn không cho Khánh biết địa chỉ. Ranh thế!
Thằng Tùng con quan bố chính không chịu về nhà quê làm cóc vàng. Hắn chiếm cái vi-la của ông via, đón một lũ quỉ đực quỉ cái về tha hồ quấy, đã tháo bán đến cả cửa chớp và cửa kính, đang đợi bố chết để bán luôn cả nhà đất.
Thằng Liễu ngược lại, nghiêm mặt nhìn Khánh như đang truy đứa em hư: “Mày cứ tiểu tư sản mãi đến bao giờ? Thân nam nhi là phải da ngựa bọc thây, xương phơi chiến địa, mày lại cố học thứ chữ nghĩa vô dụng làm cái cóc khô gì? Chán ốm!”. Hắn tỏ chí tang bồng hồ thỉ thế nhưng lại kèm trẻ mỗi ngày ba lớp cho nhà giàu và chỉ nói lảng khi Khánh nhờ xếp một chỗ cùng dạy tư. Sinh viên lúc này lao vào kèm trẻ nhiều. Bởi các trường trung tiểu học hầu hết đóng cửa tránh bom đạn sau đảo chính, những nhà khá giả ngại con chơi lêu lổng và quên hết bài vở.
Riêng thằng Sĩ Ca có biệt hiệu là Ca Sừng hay Si-ca-gô, Khánh gặp lại vào lúc ít ngờ nhất. Anh đang ngồi uống nước chè chén trong quán vỉa hè trên đường Quan Thánh, thấy một chiếc xe du lịch sơn đen đỗ xịch mé bên kia, phía số lẻ. Trên nóc xe có hai người nằm, kê một súng máy hai chân. Hai bên chắn bùn trước có hai lính nữa đứng níu tay vào cửa, tay kia kẹp một cây súng máy nhẹ toàn bằng sắt, có hộp đạn lắp đâm ngang. Từ trên xe bước xuống ba người, đứng đợi trong khi một lính cầm giấy đến chìa qua cái lỗ vuông nhỏ xíu trên cổng sắt đóng kín. Một ông râu ba chòm, mặc gấm lam đội khăn xếp chỉ thiếu cái bài ngà. Một người to béo đóng com-lê cà-vạt nguyên bộ tùy trời nóng. Người thứ ba đúng là Sĩ Ca, không lầm được tuy hắn chừa râu quai nón và râu mép rậm rì khiến cho bộ mặt sạm nắng trông càng dữ tướng. Là võ sĩ quyền anh khá nổi tiếng ỏ Nam Định, hắn hay khoe rằng nhiều đối thủ nhác thấy bộ mặt nát người ấy đã bủn rủn chờ hắn đấm nốc-ao. Hắn mặc áo quần ka-ki cùng mầu lam y của quân Tưởng nhưng may kiểu sĩ quan Pháp, chân đi dày da nâu có cổ và có ghệt gắn liền vào lên đến nửa bắp chân, thít bằng hai khóa mạ kền. Ngang lưng hắn đeo sề sệ một thắt lưng vải rộng bản rất nhiều lỗ của quân Mỹ, móc bao súng ngắn to kềnh vào đấy. Khi hắn quay nhìn ra phố, Khánh thấy trên mũ lưỡi trai có đính một phù hiệu tròn thêu ngôi sao trắng trên nền xanh trời, chung quanh viền đỏ. Giữa câu chuyện thì thào, hắn hay nhìn một vòng từ đầu đến cuối phố, tay mân mê bao súng.
Khánh hỏi ông cụ hàng nước:
- Bộ đội nào thế cụ, trông sang ghê.
- Suỵt, khẽ chứ. Cậu ở tỉnh xa mới đến à?... Nhà ấy là trụ sở của Việt cách, quân kia là quân Việt quốc. Họ đóng khối nơi ở Hà Nội, sao cậu không gặp?
- Cháu cứ lẫn với Tầu...
- Ra thế. Muốn nghe họ tuyên truyền thì lên quá tí nữa, ngang Hàng Bún trên. Hay là chỗ số nhà tám mươi phố này, loa điện ầm ầm suốt ngày đêm. Họ sắp ra báo đấy.
Ông cụ nói lơ lửng như kể một tin vỉa hè trong khi rót cho Khánh thêm chén nữa. Rồi bỗng đột ngột nổi khùng, cụ văng một câu chửi rất tục, tiếp luôn:
- Tôi có nhời khuyên cậu đừng dây vào lũ đầu trâu mặt ngựa ấy. Thằng Tầu đã bẩn, bám đít thằng Tầu còn bẩn đến đâu. Nơi nào chúng nó gác cổng, cậu vòng tránh xa xa tí, nhỡ sinh sự bị chúng nó lôi vào bên trong thì cứ là mất xác mất giỗ!
Cổng đã mở cho xe vào. Khánh thoáng thấy nhiều tên lam y qua lại sau những tường thấp chất bằng bao cát, trước cửa ngôi nhà chính cũng có bình phong bằng bao cát. Một chiếc xe quân sự nhỏ của Nhật sơn màu đất sét đậu giữa sân quay đầu ra ngoài, cắm cờ thanh thiên bạch nhật của Tưởng. Cổng sập lại rất nhanh. Dáng điệu của những kẻ trong ngôi nhà hai tầng lớn bên kia có gì đấy thật lạ, pha lẫn huênh hoang và lén lút, hung tợn và sợ sệt. Khánh chưa hiểu nổi vì sao.
Chú thích:
[1] Tiếng Trung quốc: Tên Nhật Bản!
[2] Tiếng Pháp. Bibliothèque: Thư viện.
[3] Việt Nam quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội.