← Quay lại trang sách

- 21 -

Trèo lên ghế sau xe hơi xong, Cả Chanh ngồi nép vào góc sát cửa, rướn cổ soi mặt mình vào cái gương lắp bên phải người lái. Mặt gương in hình một người tạm gọi là coi được, với cặp mắt xếch không quá hõm sâu, vết nẻ trên cằm đã đầy lên, còn da thì... ai nằm bệnh viện ra mà chẳng xanh xao!

Anh Bảy Quý đang nói tiếp với anh Tô Xáng một câu chuyện dở dang nào đó. Chanh gật gật đầu, rất vui khi thấy bóng mình gật trả trong gương. Ra khỏi nhà thương rồi. Trở lại làm con người như tất cả mọi người rồi. Ta hay chia loài người ra nhiều giới, tầng lớp, giai cấp, dân tộc, chủng tộc, chắc hẳn nay phải thêm một cách chia mới giữa người ốm và người khỏe!

Chanh bị gục nhào ngay trong cuộc họp ở Đà Nẵng, khi xứ ủy giao hàng loạt việc mới cho tỉnh ủy Quảng Nam và thành ủy Đà Nẵng. Sau hai tiếng đau bụng vừa sức chịu, trong dạ dày anh bỗng chồm lên một con mèo điên vừa cào cấu vừa lăn lộn. Anh cố gượng đút sổ tay vào túi, gài bút máy, bước ra thật thản nhiên, thoát khỏi cửa mới vịn tay men tường đi vào một góc vắng nhất, có lẽ trước kia dành, cho anh loong-toong trong sở tây này ngồi ngủ gật đợi sai vặt. Anh nằm vật xuống tấm ván kê sẵn, ôm bụng quằn quại, nôn ra thứ nước chua quen vị giữa nền nhà gạch hoa, thoáng thấy những đốm đỏ giữa nước xanh trước khi lịm đi.

Nhiều tiếng nói đánh thức anh dậy.

Anh Quí xoa cằm như tiếc bộ râu dài mới cạo, gắt gỏng:

- Cháy nhà ra mặt chuột, nó đau dạ dày mà giấu miết... Chở vô nhà thương lập tức!

Chanh há miệng muốn cãi rằng đau bụng là sự thường, lát nữa sẽ hết. Nhưng một mũi dùi lửa từ dưới thuôn lên óc khiến anh không thốt ra tiếng, mê luôn.

Anh mở mắt hồi lâu mới nhận ra mình nằm ở nơi lạ, trên nệm trắng và gối trắng. Một ông có râu mép và một cô trẻ đều mặc áo choàng trắng đứng bên trái giường. Bên phải là mấy khuôn mặt thân quen đang nhìn anh và nhìn nhau. Những lời họ nói lọt vào tai anh khó khăn như phải khoan lỗ.

-...Tù về, nhào vô liền...

- …Phải chi nó chịu nói để mình sắp đặt...

-... Kiếm đâu được pê-ni-xi-lin, bác sĩ mới dám mổ...

Chanh cố nói to nhưng chỉ phều phào:

- Hơi đâu mà lo, các anh! Nghỉ ít bữa là khỏe thôi!

- Ngó coi đứa chết nó cãi thằng khiêng! Vô đây là phải theo lệnh thầy thuốc, không ý kiến ý cò lôi thôi!

Anh Xáng giống cai lục lộ với áo ka-ki ngắn tay và chòm râu mép, khi cố sừng sộ lại giống cả giọng nói.

Họ kéo nhau ra ngoài. Cô y tá tiêm liên tiếp hai phát, một vào mạch tay trái, một vào bắp đùi bên phải. Chanh quen nếp người thợ rề-pa-ra-tơ, dấu phấn gạch chéo đâu thì cứ đấy mà chữa đầu máy hay toa xe, vâng lời rất ngoan. Một chị lớn tuổi cầm cái túi nhuộm đen giơ trước mặt anh, hỏi:

- Đồ của anh đây phải không?

Chanh gật đầu. Nhưng chị này cẩn thận rút từng thứ ra, hỏi cặn kẽ hơn.

- Một bộ đồ ta đã vá nhiều. Một quần đùi. Hai cuốn sổ. Tôi ghi luôn có một đồng hồ đeo tay, một cây viết máy Pi-ỉốt...

- Còn súng ngắn với cái nịt...

- Các ông nhận giữ rồi. Anh sót thứ gì nữa không?

Chanh lắc đầu, thấy mình đang vào một nhà giam mới. Có gì đâu mà truy. Anh đi lấy huyện tỉnh với túi nhờ Năm Bưởi may vội bằng tấm đồ của đồng bào Thượng xé ra, cùng mấy thứ của Hai Khánh cho mượn trước khi lên đường, một ngày mưa ở chợ Huề Bình.

Anh Bảy Quí bước vào, tay vẫn sờ cằm do tật vuốt râu, nói như đang gọi loa:

- Mày ra Huế với tao. Ngoài đó sẵn thuốc hơn, mau lành.

Chanh giật mình, cãi gượng giữa cơn đau mới:

- Đây được rồi... Đang bộn bề quá anh ơi...

- Mày là dân Quảng Nam, mắc cái bệnh hay cãi. Ý thức tổ chức bỏ đâu hả? Tao nói rồi đó: các đồng chí Quảng Nam không được phép bố trí công tác cho đồng chí Phan Chanh trước khi có giấy của bác sĩ chứng nhận lành bệnh. Hễ chết thì chịu trách nhiệm trước xứ ủy. Mấy cha chịu rồi. Đây thiếu thuốc, tụi Nhựt vét hết. Ra Huế đỡ hơn Chanh à, ngoài đó vua chúa nhiều, Nhựt nó để lại thuốc men khá lắn. Cần thì tao đưa mấy ông quan ngự y tới chữa bệnh cho mày, thằng qủi sứ!

Chanh liếc thấy nét mặt hốt hoảng của hai cô y tá lớn và nhỏ đang nhìn nhau, suýt bật cười. Mới lập chính quyền vài ngày, có lẽ đây là lần đầu họ đến gần mấy ông Việt Minh đầu tỉnh, lại nghe họ nói với nhau bằng giọng nạt nộ đến khiếp, chẳng biết với dân đen họ sẽ hách đến đâu!

Chiếc xe du lịch chạy cồn không leo nổi các dốc cao của đèo Hải Vân. Anh Quí, chị y tá, cậu bảo vệ xuống xe đẩy hì hụi. Chanh nằm dài trên ghế sau, bực với mình không thể tả. Mình làm phiền nhiều người quá mất, cứ như quan huyện nằm cáng cho người ta khiêng! Qua khỏi đèo, anh Quí lại lên ngồi lên gói tài liệu kê bên đầu Chanh và chị y tá ngồi ghé vào nệm xe phía chân anh cứ xoa mãi trên ngực và bụng Chanh, vài phút lại hỏi xem đỡ chưa. Thên một phát moc-phin nữa tiêm dưới da bụng, cơn đau đã dịu hẳn, Chanh giữ tay anh lại.

- Khỏe rồi anh ơi, anh nghỉ đi.

Anh Quý nói khẽ, giọng bùi ngùi:

- Hồi ở tù, mày thức đấm bóp cho tao đêm này qua đêm khác thì sao. Thằng Xáng nó vò đầu bứt tai hoài, ai lại mày mới vượt núi từ Kom Tum về mà quên không hỏi mày bệnh tật ra sao, đưa tuốt mày lên xứ núi Linh Lâm xây dựng du kích. Mỗi lần gặp nhau, phê bình chỉ trích một mớ, giao công tác mới một đống...

- Hồi đó làm sao chữa bệnh được anh!

- Sao không được? Kiếm đủ giấy tờ, đưa mày ra Huế gởi vô nhà mấy ông thầy thuốc bắc cảm tình Việt Minh đó, hay là ở thành phố chữa bác sĩ tư. Có điều mày sốt ruột, tụi tao cũng quá tham công tiếc việc. Thôi nghen, chịu khó chữa thiệt lành, có nhấp nhổm ra sớm cũng chẳng ai dám phân công cho mày.

- Tôi có nghề sửa xe lửa, chẳng thất nghiệp đâu...

- Ừ, mày giỏi. Tìm thằng chủ nào có đầu máy xe lửa tư nhân mà sửa, đừng vô hỏa xa của chánh phủ nghen!

Cả hai cùng cười. Chị y tá cười theo rinh rích. Mấy ông Việt Minh cỡ to này vui tính ghê đi. Đáng lẽ nhắc bệnh nhân nằm im, chị cứ để mặc họ tán với nhau cho khuây khỏa. Nhưng anh Quí lại nhớ ra trước:

- Thầy thuốc dặn mày đừng cựa quậy nói năng gì, tao lại cà rà hoài. Ông già Cửa Đợi bây giờ sinh chứng hay nói rồi, lão lại đái tật rồi. Đỡ đau thì rán ngủ đi Chanh. Anh rướn cổ xì mũi hai lần qua cửa sổ ô-tô, ngồi ngửa đầu lim dim, từng lúc đưa tay vuốt cái cằm trụi râu đến hôm nay vẫn chưa hết vẻ buồn cười. Anh có rất nhiều tên, nhưng khi mãn hạn ra tù năm 1943 thì quay trở về cùng cái tên cúng cơm là Ông Ích Quí, hình, như thuộc dòng dõi Ông Ích Khiêm sao đó. “Tụi mật thám quen mặt tao rồi, khai tên gì nó cũng nhận ra lão Quí, cộng sản râu. Tao cứ để tên cũ nó lại đỡ nghi”. Trong các thư mật anh chỉ ký bằng con số 07, vì anh thứ Bảy. Có lần Sở mật thám Pháp lấy được một thư công tác để gửi anh Quý, chúng lại không hề nghi anh tù cũ này vì cộng sản chẳng điên gì dùng tên trong hồ sơ gốc.

Cả Chanh nằm bệnh viện chẳng khác nằm trong bàn chông.

Hình như tất cả những biến động long trời lở đất cứ rủ nhau diễn ra trong khi anh nằm bẹp một chỗ cùng trêu tức cái vào ngoác miệng gào ăn trong khi anh cố nuốt vào bụng cả một cốc nước quấy bột trắng để đứng trước máy chiếu điện cho các thầy thuốc nhìn vào ruột gan. Phái bộ Ăng-lê chiếm Nam Bộ phủ, còn và cố đoán xem mỗi phút có bao nhiêu giọt tuôn vào mạch máu mình. Và anh vừa tự xoa bụng vừa đếm trong khi quân Pháp lâu nay bị cầm tù, được thả ra và trao súng, núp sau lưng Anh-Ấn-Nhật đã đánh chiếm Sài Gòn!

Còn may, các thầy thuốc chưa cần mổ bụng anh. Người khám chính thức là quan đốc Vĩnh Trượng có bằng bác sĩ chính hiệu, chủ nhà thương tư trương bảng hiệu Ancien inlerne des hôpilaux de PARIS, nay mỗi ngày đến xem bệnh vài giờ với bộ mặt khinh khỉnh trên thân thể béo phị, được các cô y tá giới thiệu thì thào là bác sĩ thân tín nhất của Nam Phương hoàng hậu. Người điều trị chính, là ông y sĩ Đông Dương gầy đét và râu quặp, luôn luôn có điệu bộ xoa tay gãi tai sợ hãi tuy còn tạm được gọi là quan đốc như xưa. Thấy cậu bệnh nhân bằng tuổi con ông là Cả Chanh thường có khách đến thăm - trong đó có ông chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng Trung Bộ, quyền ngang quan Khâm sứ Trung Kỳ trước đây - ông ta khom lưng vâng dạ trước mặt Chanh đến mức anh đâm ngượng, xếp Chanh nằm một buồng riêng rất sang và dặn dò y tá rằng đây là bệnh nhân đặc biệt, ai để ông ấy không ưng ý thì liệu hồn.

Chanh rất xấu hổ khi nằm ềnh ra cho người khác hầu hạ. Bao lần ốm đau trong nhà tù hay ở Linh Lâm, Qui Nhơn, anh cứ tự mình lướt qua bệnh tật mà rất ít nhờ bạn giúp. Đây là lần đầu thân thể anh phản lại ý chí, lần đầu anh cảm thấy sức mạnh tinh thần có giới hạn của nó. Xác anh đang thắng.

Còn may may một chút là anh không hoàn toàn vô dụng. Các đồng chí đem vào từng đống báo chí, bản tin, còn kể thêm rất nhiều chuyện râu ria về thời cuộc. Nhờ đó trong căn buồng xếp riêng mà anh vẫn miễn cưỡng phải nằm thường lắm bệnh nhân và thầy thuốc đến rỉ rả dài dài. Giữa cơn đại náo ngàn năm có một này, ai cũng sẵn vô vàn điều muốn hiểu thêm.

Có những sự thật rất giản dị mà Chanh tưởng ai nấy đều biết, nay vẫn nhiều người hỏi cặn kẽ. Quen sống từ lọt lòng trong dân thợ và dân cày, Chanh hình dung giới tri thức là những nhà thông thái, am tường hết trăm ban vạn sự, đối với họ chỉ có vấn đề dám hay không dám liều thân mà theo Cách mạng. Anh sửng sốt khi nghe ông cử nhân toán học dạy trường Khải Định bàn với cụ đồ nho rằng chớ nên nghe lời tuyên truyền của một đảng chính trị nào cả - chính trị là xấu, đảng phái xấu, tuyên truyền xấu - mà chỉ nên tuân theo lời giáo huấn của vị lãnh tụ tối cao là Cụ Hồ Chí Minh thôi. Bà y sĩ tóc ngả bạc lại tin rằng đã đổi đời thì mọi trật tự phải đảo ngược hết, người thấp kém nhất sẽ là người đầy quyền thế; bà tắc tị khi một cô y tá trẻ măng trêu rằng phải mời ngay những người ăn xin ở chợ Đông Ba làm bộ trưởng, và Chanh vừa cười vừa phân xử. Một ông tham tá lục lộ nằm theo dõi bệnh vài ngày giảng cho sư cụ giường bên rằng cộng hòa là góp hết của cải lại đem chia đều ra và sư cụ gật gù thấy làm thế mới đúng là thế giới đại đồng, chỉ nên ruộng nhà chùa nên để lại cho chùa.

Mất đúng một tháng rưỡi Chanh mới ra viện được.

Ông đốc tờ Trương to béo đã bớt ghét chế độ mới từ khi thấy cựu hoàng Vĩnh Thụy được mời làm tối cao cố vấn, chẳng phải như vua Lu-y thứ mười sáu hay vua Ni-cô-la đệ nhị trong cách mạng Pháp và Nga đều bị giết. Ông giữ Chanh trong phòng khám gần một giờ để thổ lộ hết nỗi niềm. Một tay ông Tôn Thất Thuyết ngày xưa đã dám phế tới ba vua, tới thằng Tây đưa luôn cả ba vua Hàm Nghi, Thành Thái với Duy Tân đi đày, bây giờ ông ta sợ Việt Minh cộng sản lên ngôi sẽ tru di tam tộc hết cả hoàng phái! Hóa ra Cụ Hồ là bậc thánh hiền, lấy đức dạy dân chứ không đa nghi đa sát, được một ngài như rứa thì Vĩnh Trượng nay xin bái phục làm tôi con cụ tới mãn kiếp! Nếu ông Phan Chanh được dịp bái yết Cụ, nhờ ông thưa giùm một câu rằng tất cả dòng dõi vua Gia Long ở xứ Huế này đều thần phục Cụ...

- Bác sĩ nói tất cả, chắc vậy không?

- Chà chà... thôi thì nhờ ông bẩm với Cụ đừng lẫn lộn kẻ xấu người tốt là đủ. Có ai bẻ thước mà đo lòng người!

Ông y sĩ râu quặp cũng chấp nhận không gọi là quan đốc nữa, mà được tôn lên là bác sĩ. Xứ Huế này nhiều quan đến nỗi ai cũng muốn được làm quan hay sao ấy! Ông cấp cho Chanh một số thuốc mang về đủ dùng cho mười người cùng bệnh, rỉ tai nhờ Chanh trình lại với quí vị trong ủy ban Trung Bộ khi nào mệt mỏi xin cứ vô đây để ông được phục dịch. Gần trọn đời hầu hạ các quan Tây quan Nam rồi, bây giờ góp sức chăm lo cho Tổ Quốc là ông thỏa dạ lắm rồi. Chanh ngồi nghe mà cứ ngớ ra: sao con người có lắm cách nghĩ khác nhau đến thế!

... Chiếc xe ngon trớn chạy vo vo trên đường Một. Từ Hương Thủy đến Phú Lộc. Chanh chỉ say sưa ngắm cảnh hai bên đường như hồi mới thoát nhà giam, không để ý mấy tới câu chuyện mà anh Quý với anh Xáng bàn thầm thì, hình như không muốn hai cậu lái xe và bảo vệ ngồi ghế trước nghe lọt tai. Chanh muốn hưởng hết cái hạnh phúc được làm người khỏe. Trên trái đất này người khỏe là người được quyền làm mọi việc ưa thích, càng làm nhiều càng được chung quanh ca ngợi, gắn cho vô vàn danh hiệu quý trọng. Còn người ốm thì, ôi thôi, luôn luôn bị chê trách là phạm quy định của bác sĩ, là phá sức, là quấy rối kế hoạch điều trị, là muốn kéo dài thời gian nằm bệnh viện để gây thêm khó khăn cho tổ chức!

Nhìn quang cảnh hai bên đường, với cặp mắt đã lùi xa phong trào khá lâu để còn tìm thấy những nét lạ đủ sức gây ngạc nhiên, Chanh lặng lẽ nghĩ và nghĩ...

Trong những ngày này người dân hô khẩu hiệu ít hơn. Mít-tinh biểu tình giảm đi để tăng giờ cuốc đất đập búa, lăn lê bò toài trên sân tập. Những cán bộ Việt Minh vác loa gọi đồng bào đi lấy huyện lấy tỉnh nay đang đổ mồ hôi hột trên giấy, học cách giữ chánh quyền và làm ra lúa khoai. Cảnh bộ đội đi đều diễu binh với kèn trống dẫn đầu nay vắng hẳn, nhường cho các đoàn tầu vang ầm tiếng hát đưa Vệ quốc quân vào Nam giết giặc, lớp này đến lớp khác. Không khí chung dương như trầm đi, lắng xuống, đọng lại, dường như cái đầu nóng rực đã nguội trong khi dạ dày đói nổi lên réo sủi sùng sục.

Nay đã đến lúc bọn chống cách mạng mừng khấp khởi: Việt Minh chỉ là lũ âm binh dậy non trong khi các đạo hùng binh chống cộng đã làm chủ phần bắc vĩ tuyến mười sáu cũng như đang tiến từ phía nam ra với những binh đoàn Anh-Ấn-Nhật-Pháp trừng trợn ghì cò xối đạn. Giờ cướp lại chính quyền đang điểm!

Quãng đồng bằng ven biển từ Hội An trở vào tạm thời đang vắng Tàu và Tây, chỉ có người Việt với nhau. Có những Ủy ban nhân dân dựng vội, những đơn vị bộ đội xộc xệch, những đoàn thể cứu quốc đánh trống ghi tên, những cán bộ chong đèn học bốn phép tính, ở đây cũng có bọn Quốc dân đảng rỉ tai tuyên truyền câu sấm Tam Long Vinh Bách Thế[1] cùng với những tư tưởng cao siêu trong sạch của Nhất Linh và Hoàng Đạo mà người đời chưa hiểu nổi, có gián điệp Pháp đi móc nối các cố đạo và quan lại để sắp đặt cho cuộc chiếm đóng tới gần, có những kẻ được cách mạng tha tội lại tưởng rằng Việt Minh không dám động tới mình và bắt đầu hạch sách chính quyền mới, có truyền đơn bôi xấu, áp-phích đòi lật đổ, súng dao ám sát, dần dà có thêm những vụ cháy kho, chìm thuyền, đổ xe lửa chở bộ đội Nam tiến.

Anh Xáng vỗ bốp vào đùi khiến Chanh giật thót:

- Tơ tưởng con gái Huế hả? Coi chừng, mấy cô Huế dễ thương mà khó cưới lắm nghen.

- Sao vậy anh?

- Nhiều cậu Quảng Nam rụng như sung rồi đó. Nghe nàng nói tánh em thích đồ nữ trang thì tai mắt bắt đầu ù. Nghe ông mai bà mối đọc ra đủ sáu cái lễ trong cuốn thọ Mai gia lễ là bủn rủn chân tay. Tới khi nhà gái thách cưới tới mây xanh thì chú rể ngất xỉu lăn đùng, phải chở vô nhà thương cấp cứu!

Anh Quí chen vào:

- Tụi tao giao tay “Bát Đập” cái phận sự phải cứu thế cho mày một cô được người được nết. Hắn máy móc cứ tìm quanh mấy cơ quan tỉnh, có hôm qua hỏi dò bên phụ nữ cứu quốc, các cô nổi bàn xôn xao là anh Xáng muốn bờm xờm, giàu đổi bạn sang đổi vợ...

Cả xe cùng cười ồ. Anh Quí cứ tỉnh như không:

- Tao bày cho hắn: cả nước đang Nam tiến thì cưới vợ cho thằng Chanh cũng phải hướng về phương Nam. Nên nhớ nó lớn lên ở Qui Nhơn, làm thợ và làm cách mạng ở đó, vượt ngục Kom Tum lại về móc nối ở đó, tới khi bị tụi mình kêu riết nó mới chịu về Quảng Nam. Tại sao biết không? Chanh, khai hết tao tha!

- Mô phật, tôi biết chi mô mà khai...

- Mày đóng kịch tao cho chết. Nằm trong buồng ông Hai Rề, sớm tối được cô Thùy cơm bưng nước rót, người ta đang sướng như tiên vậy mà lại bắt đi đày tới xứ núi Linh Lâm, người ta rầu quá bị nát ruột gan. Anh sầu tương tư anh hư nhan sắc, chớ bệnh, tật gì mà thuốc bắc thuốc nam...

Chanh thấy mặt mình nóng rực. Quái lạ, anh xứ ủy này là thổ thần hay ma xó mà cái gì cũng biết?

Anh Quí đắc thắng vuốt mãi cái cằm trụi râu từ khuya:

- Mày thua chưa? Cô Hai Thùy cứ xoắn tao hỏi miết tại sao Chanh trở về xứ Quảng là quên hết cơ sở trong Qui Nhơn. Tao vô cùng đốt, cứ nói toàn là lý sự của cách mạng nòi, khi thấy cô ta nổi lên thút thít sụt sịt tao mới biết dại tới chữ rồi. Cô Thùy chẳng cần anh lãnh đạo nào hết, thứ đó vơ đâu cũng đụng, cô ta đòi anh Chanh về xây dựng tổ với cô thôi. Tao ngắm thiệt kỹ, thấy ít nhứt phải bảy điểm trên mười, đó là tao già cũng hơi nghiệt ngã hơn lứa trẻ. Ông Hai được bầu làm trưởng ban lãnh đạo đề-pô xe lửa Qui Nhơn, cô Thùy vô chấp hành Phụ nữ cứu quốc thị xã. Đó, Xáng nghe chưa, tao giúp mày làm tròn trách nhiệm vụ với thằng Chanh chưa vợ. Phần thằng Chanh trả lời rành mạch đi nghe thử. Đã yêu thì nói rằng yêu, không yêu thì nói một điều cho xong. Đóng kịch với tao là sập tiệm!

Chanh úp khuôn mặt bốc lửa giữa hai bàn tay kê trên đùi. Không đùa bỡn để đánh trống lảng được nữa rồi. Mà giấu nhau làm gì nhỉ?

Từ anh Quí già đến cậu mười chín tuổi ngồi ghế trước, tất cả đều thương mình, mong cho mình với Thùy nên đôi lứa. Một quả bóng chứa đầy hơi ấm bỗng vỡ trong ngực Chanh, tỏa nóng đến mười đầu ngón tay chân. Anh muốn cười và muốn thổn thức, Muốn chối bay và muốn thú nhận, đến cuối cùng đối với Thùy.

Thùy ơi, sao chúng mình cứ hút nhau và đẩy nhau mãi thế em? Lỡ chạm tay nhau khi trao tài liệu, anh run rẩy rụt tay lại sợ em nghĩ anh thiếu đứng đắn, và em cũng co tay về bởi sợ anh coi là gái lẳng lơ. Khi chào nhau tạm biệt, em mỉm cười đi vội xuống bếp anh buồn vì em không coi anh ngang nồi cơm đang sôi, biết đâu lúc ấy em không bước vào chỗ vắng lau nước mắt một mình. Em tươi tỉnh xưng em như hồi còn nhỏ, còn anh cứ tôi với cô như người dưng nước lã dù đêm đêm anh trằn trọc vì mùi dầu chải tóc của em bốc trên gối, hương em lan khắp căn buồng nhỏ mà em nhường hẳn cho anh...

- Chanh nè, tao coi con nhỏ thương mày thiệt tình đó. Nó chẳng vừa đâu, mày làm bộ làm tịch thì nó đá bay vù về ngay Quảng Nam lập tức, con gái Bình Định múa roi đi quyền nổi danh cả nước rồi mà ông Hai Rề cũng khen mày là tuổi trẻ chí lớn, thanh niên như mày đáng là rường cột nhà. Tới khi tao nói mày là phó chủ tịch Ủy ban tỉnh Quảng Nam ổng ngửa đầu cười khà khá, rồi lại chậc lưỡi nói bây giờ muốn thăm thằng Chanh phải xin năm bảy cái giấy giới thiệu, chẳng như hồi nó nằm trong buồng con mình. Chắc có mò ra Quảng Nam thăm nó thì nó vừa tiếp vừa dòm đồng hồ!

Gắng gượng lắm Chanh mới hỏi được mấy tiếng:

- Anh gặp gia đình ông Hai hồi nào?

- Cách nửa tháng. Tao vô kiểm tra chuẩn bị chiến đấu trong Bình Định, nhờ anh em dẫn tới nhà... Nói thiệt đó Chanh, thương nhau thì cưới gấp đi, chờ tới khi thằng Tây đổ bộ Đà Nẵng Hội An thì lỡ mất thời cơ.

- Công tác bề bộn, mà Tây phá rối đang bị mình vây cứng trong Sài Gòn, chưa dám nghĩ chuyện riêng đâu anh!

Anh Quí lặng im, không cười giỡn nữa. Anh Xáng trở lên đăm chiêu, dặng hắng mấy lần rồi nói thong thả:

- Hồi nãy đón cậu ở bệnh viện, tính về họp tỉnh ủy ta bàn luôn, bây giờ báo trước sơ sơ... Quân viễn chinh lớn từ bên Pháp qua tới Sài Gòn rồi. Cách đây năm ngày ba chiến hạm trút quân lên bờ, tin báo ra có một đoàn xe thiết giáp, một đống lính nhảy dù, thủy quân lục chiến. Còn bốn tầu chiến lớn với một bầy tầu nhỏ nữa sắp tới nơi, cũng chỏ đầy lính, nghe đâu là lê dương với bộ binh thuộc địa. Tụi này mới vừa đánh nhau với Đức Ý suốt từ châu Phi đến châu Âu, đang hung hăng lắm, được Mỹ và Anh cấp cho võ khí loại bảnh...

Chanh mới nghe vài câu đầu đã cảm thấy một luồng gió lạnh lùa trên lưng. Khuôn mặt bầu bĩnh của Thùy vụt biến. Anh nín thở nghe tiếp. Hèn gì suốt tuần qua nhiều cán bộ được đón ra viện hối hả tuy chưa lành hẳn bệnh hay vết thương từ mặt trận phía nam mang về.

-..Sáng hôm qua, tụi nó đổ bộ Nha Trang rồi.

- Úi chà!

- Ta đang vây nó trong thành phố. Nó tính khóa đằng đuôi, không cho bộ đội Nam tiến vô tiếp sức mặt trận Sài Gòn, để trong đó nó tung quân chiếm hết Nam Bộ cái đã, rồi hốt Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, cả Lào Miên nữa. Liệu bề nuốt trôi nó lại khóa ngang Qui Nhơn, Đà Nẵng, lấy sạch từ vĩ tuyến 16 trở vô.

Tim Chanh đập dồn dập, tuôn khắp người anh một thứ máu nóng bỏng và sủi bọt. Vừa lúc ấy đồng chí lái xe cho xe dạt sang bên đường, dừng lại, tủm tỉm:

- Báo cáo các anh, như cũ!

Bốn người xuống hì hụi đẩy xe chạy cồn lên dốc Sau lưng họ, cách chừng năm chục thước, một chiếc xe tải than đã dừng từ khi con đường mới chớm ngoi lên đèo Hải Vân, sáu anh bộ đội mặc quân phục vải xi-ta nhảy xuống đẩy, nặng nhọc hơn nhiều. Khoảng cách giữa hai xe tăng dần. Chanh thấy lạ, hỏi:

- Xe lửa chạy được, sao anh em chở xe hơi cho cực?

Anh Quý lắc đầu:

- Xe lửa chạy dưới chân đèo, đây anh em đưa xi măng lên xây lô-cốt trên đỉnh đèo. Tụi Tầu vàng gác trên đó ban đầu gây sự không cho xây, về sau bán được súng đạn lấy vàng, lại được anh em mình tiếp tế heo bò tới đỉnh núi cho ăn, đâm ra ngọt ngào lắm. Thằng nào hỗn quá thì mình dọa bóng gió những sự đường trơn xe nhào xuống vực, nó sợ liền.

- Anh tiếp đi. Mình đánh ở Nha Trang ra sao?

- Đang vây chắc đánh tỉa. Khó nhứt là bị thằng Ăng-lê cho quân mở đường. Mày biết đó, sau đảo chánh tụi Nhựt dồn hết Pháp kiều ở Nam Trung Bộ tại Nha Trang, khi Nhựt hàng lại bị tụi Ăng-lê ra lệnh dồn về Nha Trang nữa. Vừa rồi nó lại làm trò gần giống như Sài Gòn: Liên quân Anh-Ấn đóng vai Đồng minh kéo tới, lính Pháp theo san, quân Nhựt tỏa ra giữ trật tự, kho võ khí mở ra phát cho Pháp kiều với lính thuộc địa bị tù, vậy là rầm rầm nổ súng khắp thành phố!

- Chà mẹ cố tổ nó...

- Có điều bây giờ anh em mình khôn hơn, súng đạn nhiều hơn, cứ oánh nhào đầu cả Ăng-lê. Chà chóp[2], Nhựt, Tây. Quân nào lấn tới là oánh, vậy là tụi Ăng-lê bắt đầu khiếp rồi, không dám vênh cái mặt Đồng minh dẫn Pháp đi chiếm lung tung nữa, sẽ đưa súng cho Pháp tự đi đánh thôi. Nhựt cũng quá ngán, đã đầu hàng xin sống sót rồi còn bị thúc sau lưng vô chỗ chết, mà lại chết thay cho lũ da trắng mà Thiên hoàng nói hoài không đội trời chung. Đồng sàng dị mộng một bầy ngựa chứng, về lâu về dài, trong Nam này mình với Pháp đụng đầu nhau là cái chắc.

Chiếc xe du lịch đã đến quãng dốc dài trên vùng đèo khuất khúc. Cận lái thò đầu ra mời lên. Xe đang rì rì leo thong thả chợt đằng sau có hai chiếc xe nhỏ vừa ấn còi vừa chạy vượt lên trước, cắm cờ quân Tưởng. Kiểu xe kia rất kì lạ, trông như cái hộp diêm đặt lùn tè trên mặt đường, sơn màu vằn vèo, tiếng máy êm không nghe nổ mà bon rất khỏe, chỉ phát ra tiếng rè rè của bánh xe ngoạm đường nhựa ngược dốc. Bọn ngồi trên hai chiếc xe lạ không mặc kiểu Tàu vàng. Áo quần chúng tuyền màu xám tro, đầu chúng đội mũ sắt xanh sẫm rất to chụp kín nửa mặt, tay trái đeo băng trắng có chữ Hán đỏ. Anh Quí hất hàm:

- Quân đoàn 53 chủ lực mới đưa qua. Đi xe Mỹ xài toàn đồ Mỹ. Số đeo băng chữ Sát là hiến binh. Lính thứ dữ của thằng Tưởng Giới Thạch, mới làm đảo chánh lật đổ lão Long Vân lãnh chúa Vân Nam, ào luôn qua bên mình kèm cứng thằng đại tướng Lư Hán trong dinh Toàn quyền ở Hà Nội. Bên Tàu sao mà nhiều sắc lính quá hè!

- Ra họp với thường vụ Trung ương, nghe nói tình hình một lát tao loạn ù lỗ tai, chẳng biết nước mình phải chống chọi với bao nhiêu thứ quân nữa, tao thức đêm đọc một đống tài liệu mật rồi hỏi thêm các ảnh, căng óc ra mà nhớ. Đếm thử coi nè. Mới nghe Nhựt đầu hàng, sư đoàn 62 nổi tiếng thổ phỉ ở biên giới nhào vô nước mình liền. Tiếp đó thằng Tưởng đưa nhập Việt tới năm quân đoàn của Trung ương với Vân Nam, mưu tính “diệt Cộng cầm Hồ” mà chưa làm nổi. Thằng tướng Chu Phúc Thành đem quân đoàn 53 qua thêm. Quân Tàu hồi này đang có bấy nhiêu. Phải tính cả bọn tàn binh Pháp chạy qua Tàu hồi đảo chánh cũng kéo về Đông Dương. Phản động phía bắc có lính Việt quốc của Vũ Hồng Khanh chiếm dọc đường sắt từ Lào Cai xuống tới Vĩnh Yên, lính Việt cách chiếm vùng Đông Bắc dựng lên Hải Ninh chánh phủ. Tụi nó lập trụ sở công khai có lính canh giữ từ Hà Nội tới Vinh rồi, sẽ dấn vô các tỉnh trong này... Phía Nam có Pháp Anh Ấn Nhựt đánh thốc ra tới Nha Trang, đang rập rình trút quân lên Qui Nhơn, Đà Nẵng, còn lính viễn chinh qua tiếp nữa, sắp sửa từ biển thọc lên, từ Lào đổ xuống.... Sơ sơ vậy để thấy dễ hay khó. Giở bản đồ coi thử tụi chống cộng còn bỏ sót chỗ nào cho chúng ta rút vô cố thủ hay không! Xưa nay phép nhà binh phải hết sức tránh lưỡng diện thọ địch, bây giờ mình lâm vô cái thế bốn bề hùm beo nhào vô xâu xé. Hà sướng chưa?

- Chỉ còn một đường thoát: đánh thí xác!

- Sai một li đi một dặm đó Chanh. Đánh giữ mạng chứ sao lại thí xác! Đánh cho khôn khéo thông minh, đánh cù cưa lâu dài, thằng Pháp nguy hiểm hơn ta đánh trước, thằng Tàu chưa dám gây sự ta xoa dịu để sau. Vừa gấp rút xây dựng lực lượng, vừa tung quân ra cản giặc, đợi nó kiệt sức là ta quật nhào... Bởi vậy ai đi trận cứ đi, ai dưỡng bệnh cưới vợ xin cứ tự nhiên!

Chanh cười phá lên. Ông già Cửa Đợi lúc nào cũng đùa tửng tửng được. Nhưng nhìn lại anh Quý, Chanh chẳng thấy anh có vẻ gì đang đùa cợt. Bộ mặt trụi râu vẫn nguyên vẻ đăm chiêu.

Trạm gác của quân Tưởng đặt ngay đỉnh đèo. Chỉ có một chòi tranh nhỏ đặt bên cây ngáng đường, với ba bốn tên soát giấy nằm ngồi ơ hờ, mặc kiểu Tàu vàng. Cậu lái xe ấn còi, thò đầu ra vẫy vẫy. Hình như đã quen nhau, hai tên lính tay không chạy tới, toét miệng cười cầu tài. Cậu bảo vệ nhấc cái giỏ bằng cói dưới chân có hai chai thò đầu với một gói bằng quả bưởi, hé cửa xe đưa cho chúng, cười cười:

- Bố thí cho bay đó. Tọng vô từ từ cho khỏi thương thực.

Chúng cảm ơn một tràng bằng thứ tiếng gì không giống Triều Châu hay Quan hỏa mà người Việt quen nghe, chắc là giọng Vân Nam. Một tên đứng đằng kia nới dây cho cây tre ngáng ngóc lên, đưa tay lên mũ chào. Bỗng có tiếng quát bật ra từ hai chiếc xe lùn như con cóc lúc này đang đậu gần trạm gác. Hai tên lái đeo băng chữ Sát rời xe mình đi đến chặn đầu tên Tàu vàng xách giỏ, vỗ bàn tay phải vào một khẩu súng gì vỏ gỗ to gấp ba lần súng ngắn đeo ở thắt lưng, tay kia giơ cao như sắp tát nói sừng sộ. Bốn tên cãi qua lại mấy câu, đứng cản trước mũi xe du lịch nhưng không để ý đến xe và người, rồi hai tên gác càu nhàu đưa cái giỏ cho Tàu áo tro, chỉ dám quay đi khạc nhổ vài lần cho đỡ tức. Một tên chữ Sát cười hô hố trong khi vạch giỏ ra xem rượu và thịt quay bánh hỏi. Tên kia quẹt một que diêm đầu đỏ vàng vào vỏ súng gỗ cho xòe lửa, châm thuốc hút, thổi khói thơm vào mặt cặp lính mất ăn, đủng đỉnh trở về xe mình, chân đi ủng gõ gót cồm cộp như dọa đá đít.

Trong khi cậu lái xe cho xe chạy chậm qua trạm, Chanh thoáng thấy hai cái lán to dựng mé sau chòi canh chừng trăm thước, có bốn năm chục tên lính đang xếp hàng trên sân, với mấy bóng áo tro dạo qua lại, chắc đang khám người và súng của đơn vị gác đèo.

Trừ Chanh ra, trong xe không ai tỏ vẻ ngạc nhiên trước cảnh lính Tàu cướp giật lẫn nhau, hẳn vì nó diễn ra khắp nơi. Anh Quý hỏi cậu bảo vệ:

- Thằng liên trưởng[3] Voòng bán mấy cây rồi?

- Dạ, bốn trường Nhựt, ba thất cửu. Nó hẹn sau đợt kiểm tra này bán thêm.

- Còn thằng gì dinh trưởng[4] ở Đà Nẵng?

- Dạ thằng Xùi. Nó bán toàn súng Pháp, tính giá vừa phải. Anh em chở đi được hai mươi hai cây mút với anh-đô rồi, thêm năm cây lơ-ben với khai hậu là nó cho không để lấy cái tình.

- Nghe cái giọng, biết có mấy chú Chệt buôn nòi làm quân sư. Lão Phước An Đường hay ai dính vô?

- Không ạ. Phước An Đường nhận mua thuốc Mỹ thôi, lão nói không rành súng đạn. Thằng Xùi lấy hai đứa con nhà Xương Ký ở phố Cuộc-bê làm môi giới, tụi nó vô Tam Thanh Đoàn hết... À, chú biết khinh cơ quân thương là thứ gì không?

- Để coi. Cứ duy danh định nghĩa thì nó là súng máy hạng nhẹ của quân đội. Mua được chưa?

- Anh Tư Cẩn coi trong thơ nó thấy đề là súng Tư-điếm, giá gấp đôi súng thất cửu. Hay là thứ pạc-hooc như tụi lính chữ Sát đeo hồi nãy? Anh thấy mắc quá, đang thỉnh thị chớ chưa dám đặt mua.

Anh Xáng giờ nghĩ chầm ngâm, bỗng buột nói:

- Tư điếm cơ thương là súng máy Xì-ten, băng đạn lắp ngang, báng sắt, đúng không? Cỡ đạn chín ly hả? Coi mẫu chưa?

- Dạ chưa. Tụi cháu đang chờ lệnh trên...

- Các cậu máy móc bỏ bà. Biểu nó đưa một cây chào hàng, đem bắn thử, thấy tốt thì mua cả mớ, kiểu dễ làm thì ta theo mẫu tự làm mà xài chớ!

- Báo cáo anh nó đòi mua thứ này phải tổ chức một trận giả phục kích cướp súng trên đèo như lần trước, không thì thượng cấp bắt nó đi tù...

- Tầm bậy. Nó muốn nhẹ xác, rồi thằng Lư Hán được dịp kiếm chuyện đòi ăn. Một thằng lính nó qua đò rớt súng xuống nước đâu có khó. Hay là cho xảy ra một vụ cháy kho, đạn nổ tơi bời không dám vô chữa. Dễ như hút ốc!

Từ nãy đến giờ Chanh thấy mình dốt quá. Nằm viện sáu tuần thôi mà lạc hậu ghê gớm, nghe gì thấy gì cũng ngớ mặt ra. Đợi họ bàn xong việc Chanh mới hỏi:

- Thường vụ định giao công tác cho gì cho tôi, anh Xáng?

Hai anh lớn tuổi nhìn nhau. Xáng ngập ngừng:

- Thì... cậu là phó chủ tịch chớ gì nữa.

- Tôi nghĩ rồi anh à. Tôi vô ủy ban khởi nghĩa còn được, việc đơn giản thôi, chớ làm hành chánh như bây giờ không kham nổi đâu anh.

- Cậu sẵn chữ nghĩa hơn tụi mình nhiều, ai cũng nói tự học như cậu bằng người ta ngồi ghế nhà trường bảy tám năm là ít. Cậu còn nghề rèn của ông già, nghề xe lửa...

- Đang cầm búa mà đổi qua cầm bút, gay go lắm!

- Thôi để ngày mốt họp tỉnh ủy ta bàn coi, Hai tháng trước chỉ một việc là nhào tồi giành chánh quyền, bây giờ đẻ ra cả trăm ngành mới lạ. Nghề đánh cá như mình hay thợ xếp chữ như anh Quý chưa dùng được mấy, chớ đập sắt với sửa xe thì rất nhiều nơi muốn rước!

Nghe giọng lừng khừng của anh Xáng và nhác thấy anh Quý cười tủm tỉm, Chanh biết các đồng chí định sắp xếp gì đó cho anh mà chưa tiện nói trên xe. Anh Quý dặng hắng:

- Với lại bệnh viện ghi trong giấy mày phải dưỡng bệnh hai tuần, làm việc nhẹ ba tháng...

- Trời đất, theo lời thầy thuốc thì từ Cụ Hồ trở xuống ai cũng phải nằm nhà thương hết! Hồi ở chiến khu nghe nói Bác mắc bệnh gần đất xa trời, mà tới nay Bác được nghỉ ngày nào đâu. Anh em mình trong Nam bao giờ mới nghỉ. Tôi nằm một tháng rưỡi mà cuồng chân cuồng tay hết cỡ rồi, càng dưỡng càng bệnh thêm thôi!

Chanh gạt đi thật dứt khoát để các ảnh khỏi bàn lui tới.

Về đến Đà Nẵng, anh Quý ghé thành ủy và cho xe đưa Xáng với Chanh vào Hội Au luôn, ngày mốt anh sẽ dự họp với tỉnh ủy Quảng Nam, gỡ nốt những vướng mắc trong việc nhập chung thành phố nhượng địa cũ vào tỉnh gốc của nó.

Xe chạy trên quốc lộ Một vài phút, họ gặp một chuyến tầu Nam tiến đang tăng tốc độ sau khi rời ga Đà Nẵng, sắp theo đường sắt tách xa dần đường nhựa. Tất cả xe chạy ngược chiều trên quốc lộ đều dừng lại để bà con vung mũ nón lên chào bộ đội, trong khi dòng xe xuôi chiều lại cố rượt theo gọi hoan hô. Cậu lái của anh Quý cho xe vượt nhanh lên khỏi đầu máy, dừng ngay chỗ đường sắt tách về phía tây, hãm xe. Chanh bật cửa chạy nhào xuống sát hàng rào xi-măng rướn cổ ngắm không chớp mắt đơn vị Nam tiến đầu tiên mà anh trông thấy. Các cửa sổ chi chít những khuôn mặt đã rám nắng hay còn măng tơ dưới mũ sắt, ca-lô, mũ cối vành dày. Vô số cánh tay thò ra vẫy. Bộ đội đang hát. Mỗi toa hát một bài, trút xuống người Chanh từng cơn mưa rào nhạc và lời ngắt quãng như những làn mưa trong chiều mùa hạ, giữ nhịp bằng tiếng vỗ tay, dẫm chân, bằng những hàm răng trắng cùng một lần lóe lên hay khép lại.

… Tiếng súng vang sông núi miền Nam, ầm đất nước Việt Nam. Tiếng súng vang lừng khắp non sông...

… Bầu trời Việt mênh mông, hồn người Việt anh dũng, núi dài sông ớn khí hùng thiêng...

... Đồng bào tuốt gươm vùng lên. Đã đến ngày trả mối thù chung. Diệt phát-xít...

... Thề phục quốc, tiến lên Việt Nam! Lập quyền dân, tiến lên Việt Nam. Đài hạnh phúc đắp xây…

Các toa bộ đội đã qua hết. Mặt người trên khung cửa biến đi, chỉ còn những bàn tay ló ra vẫy và tiếng hát nhồi chung lại thành một khối cuộn rền rền xa dần. Toa đen cũng đứt, người xe-rơ-phanh ngồi trên toa con cuối đoàn tàu vẫy tay chào quốc lộ Một cùng tất cả những người tiễn đưa trước khi rẽ về phía tây, vòng khá xa thị xã Hội An, nơi quân Nam tiến không hề đi qua một lần để bà con được đón.

Anh Tô Xáng đập vào vai Chanh, gọi đi tiếp. Chanh đưa tay vuốt mặt, thấy gió thổi lạnh trên má. Khỉ thật, mình chảy nước mắt hồi nào chẳng rõ, người bệnh mới lành dễ xúc động, anh em lại cười cho. Anh Xáng đứng bên Chanh bỗng xì mũi liên tiếp, thì thào:

- Mỗi lần tiễn bộ đội, mình rầu quá Chanh à. Kêu gọi anh em trẻ tuổi xả thân vì nước, còn thằng già này cứ ở lại đằng sau nói đi nói lại như cái đĩa hát cùn. Phải chi Đảng cho mình phanh ngực đi trước đám con cháu cho đúng hai chữ gương mẫu. Phải chi mình đừng bị giao làm phó bí thơ tỉnh ủy, một đống trách nhiệm đặt trên lưng, mình xin theo tụi nó... Đầu óc nhẹ biết mấy, chỉ còn lo giết giặc cứu nước. Ông Quý dứt khoát không chịu, ổng tính giao cậu chỉ huy vận chuyển đường sắt cho bộ đội vô Nam trong khu vực từ Huế tới hết Trung Bộ, khúc này cậu quen, nghề xe lửa cũng quen. Tụi mình cãi cù cưa xin cậu ở lại Quảng Nam, rốt cuộc phải để chờ cậu lành bệnh về sẽ hay... Thôi, làm sao đó làm, mặc kệ mày!

Sau câu nói xẵng đột ngột, anh Xáng trở về xe, Chanh thong thả theo sau. Mỗi tỉnh ủy viên đã nhận được một thông báo về những việc phải giải quyết trong cuộc họp sắp tới. Cả một đống câu đố hóc búa, những dấu hỏi nếu đem móc vào nhau sẽ đủ tạo nên một sợi xích kéo neo tàu thủy loại lớn, trong khi hai phần ba số đồng chí trong tỉnh ủy đã báo cáo xin vào Nam đánh giặc. Chanh góp thêm một lá thư đòi đi hay không?

Đến cây số Một mé trên Hội An, Chanh xuống xe. Anh đi bộ vào xóm nhà lá, nơi cậu bạn đánh xe ngựa của Năm Chò đã đón nhận cả ba anh em từ Qui Nhơn trở về đất Quảng sau đảo chính. Theo lời nhắn khẩn khoản của Chanh, Năm Chò đã gửi Sáu Cam ở trọ tại đấy và xếp cho học tư với một cậu học trò nghèo cùng xóm trong khi các trường chưa mở lại. Cam thề thốt với anh sẽ chăm học chăm làm, chậm nhất phải đọc thông viết thạo và làm được bốn phép tính trong vòng sáu tháng.

Chị chủ nhà vừa cho con bú vừa lạnh lùng báo cho biết thằng Cam đã đi lính cách đây năm sáu ngày gì đó, gửi lại một gói sách vở, ai lấy thì chị đưa. Chị tiếp một tràng kể lể khổ cực khi vợ đẻ, chồng ham nhậu, ngựa yếu xe hư, Năm Phi Đao chỉ đưa được chục bạc rồi biến mất, thằng Cam gánh nước thuê được mấy ngày thì trời đổ mưa dầm chẳng ai mướn nữa. Thằng nhỏ đưa thêm được ba đồng. Giữa hồi thóc cao gạo kém này, ba đồng bạc ho một tiếng là bay kết...

Chanh ngồi chống cằm nghe chị nói dây cà ra dây muống chỉ thấy buồn tê tái. Anh không ngạc nhiên chút nào khi nghe thằng em bỏ học đi bộ đội, biết chắc nó đã vật nài anh em Nam tiến cho nó bám theo, nhưng anh không chịu nổi ý nghĩa nó thất vọng chán ngán vì bị bỏ rơi. Bị túm tay lôi trở về quê, rồi một lần nữa bị bỏ rơi. Đứa bé mười ba tuổi gầy khẳng kheo, giọng chớm vỡ và mặt bắt đầu lang đã sớm lầm lì, đa nghi, hay tủi thân, mất lòng tin ở cha và anh ruột. Sức vóc bao lăm mà nó đi gánh nước thuê kiếm tiền cơm trọ? Và nó phải chịu hao nhiêu lần rỉa róc đay nghiến?

Năm Chò được cử làm đại đội phó đại đội Nam tiến đầu tiên của tỉnh[5], lên đường mươi hôm sau khi Pháp nổ súng ở Sài Gòn. Cậu ta nhờ người viết hộ, gửi ra Huế cho Chanh một thư khá dài, cho biết đã thu xếp cho thằng Cam rất là “ưu điểm”, khuyên “đại ca” yên bụng chữa trị, cậu bạn đánh xe ngựa là đứa trọng nghĩa khinh tài. Chanh biết Năm Chò thương Cam hết sức, nhưng có thể quá tin người chăng.

Trong túi Chanh còn nguyên ba chục đồng do tỉnh ủy cấp để bồi dưỡng sau khi ra viện. Anh cắt ngang câu chuyện quá dài của chị kia:

- Chị cho tôi nhận gói sách, còn thiếu bao nhiêu tiền cơm tháng để tôi đưa luôn.

- Tánh tui chẳng phải đứa tham lam, mà nghề đời ăn cho buôn so sao cho đằng hoàng. Như hồi cả ba anh em về đây đang còn bóng tối, tui cũng nuôi tử tế...

- Xin lỗi, Năm Chò với thằng Cam đi làm kiếm tiền, khi trả chị cũng chịu là có dư chớ không thiếu, chính chị nhận với tôi vậy đó.

- Ờ, ờ là nói sự phải quấy thôi, tui không đòi thêm...Thằng Cam ở đây một tháng sáu ngày, tui lấy tiền ăn thôi, dầu đèn hay tiền nhà tui ủng hộ, mỗi ngày trả một đồng là rẻ nhứt rồi, cả xóm đây chẳng ai như tui. Ba mươi sáu đồng, mới trả mười ba...

Tiếng vó ngựa chợt nổi lên lộc cộc, tiếp một tràng tiếng róc róc của cán roi kê vào nan hoa dùng thay chuông. Chiếc xe ngựa lách qua ngõ, dừng trước sân. Anh đánh xe nhảy xuống đất, quờ tay lên chỗ ngồi túm đuôi một con cá thu chừng năm cân, ném bịch trên thềm, cười ồn ào:

- Mụ Chín chưa sẵn tiền, trả công một con đây. Đem luộc mau cho tươi, mày! Ai như anh Cả Trà trong nhà... Ôi trời ơi, anh Cả chớ ai nữa mà lầm, tưởng anh rẻ rúng nhà em không thèm tới!

Chanh lặng lẽ bắt tay anh đánh xe. Chị vợ đặt con xuống giường, cũng lặng lẽ đi làm cá. Anh kia hối hả chúi đầu dưới gầm bàn thờ, lôi ra một chai rượu, nhấc vội khay ấm chén trên bàn thờ đặt trước mặt Chanh, cười hoang hoác:

- Thằng Cam đi đánh Tây rồi. Máu nhà cách mạng gốc cũng khác người ta, mới nhỏ xíu mà nghe Tây khởi hấn là chồm chồm như ngựa chứng. Mần trước vài ly đã anh Cả... Tội nghiệp Năm Phi Đao, bữa nó ra đi thiệt tình em cạn túi, mượn cùng xóm được một chục đưa nó. Bữa nay khá rồi, anh biết nó ở đâu gởi giùm em chút ít cho nó nhậu, nó ra đi vì nước mà em vướng vợ đẻ còn ở hậu phương, trước sau em cũng theo nó ra sa trường thôi... Được một thằng con đực rựa kia, anh thấy chưa?

Chanh gật đầu. Anh không dám tin ở lòng tốt của vợ chồng này nữa. Anh chồng rút ra một xấp giấy bạc, liếm ngón tay đếm vội, đẩy tới trước mặt Chanh một tập giấy mười đồng:

- Anh Cả đưa giùm cho Năm Phi Đao một trăm, em để dành cho nó lâu nay. Nó nhậu nhẹt đôi chút thì anh Cả tha tội nó, bụng tốt như vàng mà cái miệng ưa cay... Ủa, sao coi anh cả rầu quá vậy? Đánh Tây vài ba tháng là cùng, Tây thua rồi anh em nó về đây, ta cụng ly với nhau cho sướng…

Chanh không chịu nổi nữa, nói thẳng thừng:

- Anh gởi cho Năm Chò bao nhiêu để đó đã. Bây giờ tôi trả tiền cơm tháng thằng Cam. Chị đâu rồi?

- Anh Cả nói gì lạ quá. Cơm tháng nào?

- Hồi nãy tôi đang tính. Khi trước ba đứa chúng tôi về ở nhà này, Năm Chò đã trả đủ, chị bằng lòng rồi. Bây giờ tôi trả tiếp tiền cơm tháng của thằng Cam. Ba mươi sáu đồng, trả được mười ba, còn thiếu...

Người đánh xe ngựa chồm tới, chụp cái roi ngựa ném trên bàn, gầm lên một tiếng không nghe rõ, chạy nhào xuống bếp. Lửa đang cháy dưới nồi nhưng chị vợ biến đâu mất. Chanh đuổi theo chụp được cậu kia khi sắp vọt qua hàng rào sau nhà. Chật vật lắm Chanh mới lôi được người chồng tức điên vào gian trước. Cậu ta nằm vật xuống giường dưới chân đứa con đang ngủ, đấm đấm hai nắm tay vào trán, nói như khóc:

- Thôi em lạy anh trăm lạy, con quỷ cái nó hại em...

- Anh bình tĩnh đi, vợ chồng có gì nói với nhau trong nhà, đừng ồn ào.

- Em còn mặt mũi nào ngó thấy anh với thằng Năm nữa. Không chừng thằng Cam bỏ đi cũng tại nó mắng nhiếc. Em đánh xe cả ngày chẳng biết gì... Em đi lính đóng xa, ở nhà nó có nhơn tình, đẻ với thằng kia một đứa con riêng gửi cho mẹ nó. Thằng kia đâm người ở tù, mới được cách mạng xá tội cho về. Em đưa bao nhiêu nó cũng kêu thiếu, nó còn moi của anh với thằng Năm, là để nuôi chồng riêng con riêng. Thôi, đời thằng khố xanh khố đỏ này coi như hết, hết trụi trơn. Mỗi đứa cho một lát dao, phần em một lát nữa là xong!

Chanh hoảng hồn, trách mình đã ấn trúng một vết thương thầm kín. Anh nhấc ghế đến ngồi bên, dỗ dành người chồng khốn khổ kia rất lâu, lại nhờ anh ta đánh xe ngựa đưa mình xuống phố và hóng mát lang thang dọc bờ sông.

- Lâu ngày gặp nhau, ta vô quán lai rai chút đỉnh chớ!

- Em xấu hổ quá, không dám mở miệng mời anh. Hễ đại ca không coi em là đứa lừa thầy phản bạn thì...

- Tào lao hoài. Cột ngựa gốc cây kia, ta vô làm ít tô cao lầu Hội An coi còn được như xưa không. Nhưng mà thứ cay mày phải để tao rót, vừa đủ đô thì tốp lại. Ừ nghen?

Anh vỗ bốp vào lưng cậu đánh xe, vui thích khi cậu này tươi mặt và dạ một tiếng giòn tan.

Chú thích:

[1] “Ba con rồng vinh hiển trăm đời”. Trong số anh chị em của Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) và Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo) có năm người được đặt tên gốc Hán như trên. Quốc dân đảng lợi dụng biến thành câu sấm truyền nhằm mê hoặc những người lạc hậu.

[2] Từ nhân dân miền Nam quen gọi là lính Ấn Độ trong quân đội Anh lúc ấy (Chà- và đội mũ chóp).

[3] Tương đương đại đội trưởng.

[4] Tương đương tiểu đoàn trưởng.

[5] Hồi ấy các đơn vị phân đội, trung đội, đại đội, chi đội tương đương trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn sau này.