- 22 -
Quân Anh-Ấn từ Sài Gòn kéo lên phía Bắc, chiếm Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Bộ đội ta đóng ở hai thị xã này đụng đầu quân Đồng minh, lúng túng hết sức, phải rút ra ngoại ô, tức điên lên khi thấy lính Pháp từ đằng sau nhào tới trước, hối hả lập đồn lũy và kéo cờ tam tài lên. Máy bay Anh rải truyền đơn ký tên “Quan Tổng tư lịnh đạo quân Đồng minh Anh-cát-lợi”, ra lệnh giới nghiêm khắp nơi và kêu gọi “dân chúng Nam Kỳ hãy giúp cho quân đội của ta làm tròn phận sự tước khí giới quân đội Nhựt Bổn một cách dễ dàng và mau lẹ”. Quân Nhật không bị tước bớt một viên đạn nào cả, cứ bị đẩy đi “giữ trật tự” ở các thành thị treo cờ Pháp. Một số tướng tá Nhật lừng khừng nhưng không muốn làm bia thịt cho Pháp đã bị quân Anh bắt nhốt xà-lim, hình như cả tên thống chế Nhật Tê-ra-u-chi tư lệnh Đông Nam Á cũng vào tù.
Đại đội của Năm Chò cầm cự thêm một trận nữa ở mạn bắc thị xã Biên Hòa thì hết sạch đạn và gạo, còn phải khiêng theo bốn chục thương binh cả cũ lẫn mới. Con đường mạch máu mé sau lưng bị chặn ngang Nha Trang, mọi thứ tiếp tế tắc cứng ngoài kia. Lại thêm một mớ lính quái quỷ nào chạy dạt vào hàng ngũ, tự xưng là quân Đệ tứ sư đoàn của ngài tư lịnh Lý Huê Vinh, hầu hết chỉ cầm mã tấu và giáo gậy, nghe súng nổ là chạy nhưng xông vào các làng tản cư để cướp trâu bò heo gà thì nhanh như chớp. Những viên đạn cuối cùng của đại đội phải dùng để bắn dọa xua bọn thổ phỉ mới.
Khốn đốn nhất là không sao kiếm được một viên đạn ĐAM lắp cho vừa súng mút và anh-đô của đại đội, quân địch dùng toàn súng Anh, Nhật, súng trường Mát của Pháp mới chế sau này, hoàn toàn khác kiểu và khác cỡ đạn. Lựu đạn phóng trom-lông V.B không còn quả nào, các ống phóng lắp đầu súng trường đều tháo cất. Lựu đạn ném còn mỗi tiểu đội vài quả, bị thối chừng một nửa, còn may là anh em diệt một xe tải của Nhật lấy được mấy thùng lựu đạn đập hình lọ mực còn tốt, chưa đến nỗi đánh bằng báng súng và đá cục.
Nguồn gạo từ đồng bằng sông Cửu Long bị tắc hẳn. Tin dội ra Biên Hòa ngày càng dữ: quân viễn chinh Pháp dùng tàu đổ bộ và máy bay của Anh đánh thông thốc các hướng, chiếm liên tiếp các thành phố lớn nhỏ khắp Nam Bộ. Một đoàn xe thiết giáp chọc lên Tây Ninh, quân Cao Đài ở đấy đầu hàng. Anh-Ấn-Nhật đã chiếm Ô cấp (Vũng Tàu), giữ chắc vùng Sài Gòn - Thủ Dầu Một - Biên Hòa - Ô Cấp làm hậu cứ và lá chắn ở cửa ngõ vào Nam Bộ, để cho Pháp tha hồ bắn giết đốt phá vùng đất giàu có tuyệt vời trong kia. Địch đang rập rình chực đổ bộ vào Phan Thiết, Phan Rang, gài thêm một loạt chốt chắc cứng sau lưng các chi đội và đại đội Nam tiến đã kiệt sức nhưng vẫn cố chặn bước chúng ở Đông Nam Bộ. Mé trên núi, chúng sẽ khóa đường lui sau khi làm chủ đường 14 đến Ban Mê Thuột, đường 20 đến Đà Lạt. Lọt vào hai gọng kìm khổng lồ kẹp siết cả khu vực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên, các đơn vị mạnh nhất của nước cộng hòa mới hơn hai tháng tuổi sẽ ngừng tồn tại.
Một nhóm bốn người cưỡi ngựa cho chạy nước kiệu trên đường Một từ phía Phan Thiết đến thị trấn Xuân Lộc. Càng gần đến Xuân Lộc, những hố sâu cắt ngang đường với rất nhiều cọc gỗ và chông tre cắm dưới đáy càng dày và rộng hơn, họ phải rẽ sang các vườn cao-su trồng ngay hàng thẳng lôi hai bên, cho ngựa đi thong thả trước khi quay trỏ ra đường nhựa.
Một người gác chợt nhô ra san bụi rậm ở mé rừng cao-su:
- Ai? Đứng lại!
- Tham mưu Mặt trận. Ban chỉ huy chi đội ở đâu?
Người gác lúng túng đưa tay trái lên gãi mang tai:
- Báo cáo các anh, tui không biết...Chẳng nghe chi đội mô hết, nghe kêu đại đội thôi. Mấy anh lại chỗ gò kia hỏi anh Năm thử coi...
- Anh Năm nào hở? Đồng chí không biết tên chỉ huy à?
- Dạ, là anh Năm Phi Đao đó mà, ảnh chỉ huy tụi tui...
Người đi đầu gò cương, quay lại hỏi người sát bên mình:
- Hay là gặp bọn Đệ nhị sư đoàn của Đại Việt?
- Anh để em xem. Bọn Đệ tứ sư đoàn chạy về đây cũng nhiều, rối mù. Coi chừng chúng nó phản.
Người đốc gác chạy đến vừa kịp nghe loáng thoáng những lời bàn vội. Anh ta rập chân quát to, đưa tay chào kiểu chính quy:
- Báo cáo, chúng tôi là đại đội Nam tiến của tỉnh Quảng Nam, thuộc về Quân đội quốc gia Việt Nam!
- Ai chỉ huy?
- Báo cáo, đồng chí Nguyễn Văn Chò, thay thế đại đội trưởng mới chết bom. Đồng chí đóng chỗ gò gần đường, dưới gốc cây to kia.
Nhóm người ngựa vừa đi khỏi, người gác bỗng giật mình hỏi đốc gác:
- Nè, nói ào vậy, có chắc là bộ đội mình không?
Người đốc gác ngẩn ra, bây giờ đến lượt anh gãi tai lóng ngóng vì quên hỏi giấy tờ. Có chìa giấy ra thì cả hai đều không đọc được, và cấp trên luôn luôn nhắc phải đề phòng giấy tờ giả với những con dấu khắc bằng củ khoai. Anh xốc cây súng mút chỉ còn ba viên đạn bên trong, định chạy theo tới chỗ anh Năm xem thật giả ra sao, lại dừng khi thấy anh Năm lồm ngồm nhỏm dậy chỗ gốc cây. Chắc mấy ông chỉ huy biết mặt nhau, khỏi lo. Anh đứng trông chừng từ xa, bàn tay như cái máy moi từng nhúm bắp rang trong túi quần ra vỗ vào miệng, nhai thong thả, đánh lừa cơn đói bụng cồn cào. Cậu gác nuốt nước bọt, năn nỉ:
- Cho tau một nắm, túi tau lủng, rớt mất nửa lon hồi đêm, gần tới đây mới biết.
- Đưa đây vài viên đạn, tau biết mi còn giấu cả mớ.
Người gác nói lúng búng trong miệng, rồi cúi xuống móc trong cái tay nải bên chân mình, rút từ trong ruột ra hai viên đạn đồng được lau chùi sáng bóng. Cậu đốc gác cười xòa, móc trong bao đạn ra hai hai nắm bắp rang đưa cho bạn:
- Tau biết mi xấu chứng đói, thử chơi chớ ai thèm đạn của mi. Ngốn rài rài cho đủ chịu tới mai nghe!
Nhóm cưỡi ngựa đến chỗ gốc cây to gần đường theo lời chỉ, thấy một cái lều làm bằng tấm vải cao-su chiến lợi phẩm, bên dưới có một người đang ngủ li bì, nằm ngay trên mặt cỏ. Người ấy mặc một quần dài đã dứt ngang hai gối và xé làm quần soóc, cởi trần, phơi bộ ngực xăm chàm chằng chịt, thêm hai bắp tay cũng trổ đầy những hình quái gở gì bằng chàm cứ thỉnh thoảng co giật trên bụng và ngực. Nhìn lên bộ mặt thấy lùi xùi đến chối mắt: tóc xõa rậm rì xuống trán và phủ hai tai, râu lởm chởm chẳng ra kiểu gì hết cứ đâm tua tủa như một vạt tranh vừa cháy vừa bị cắt trên đồi hoang. Thân thể rất khó gọi là vạm vỡ hay suy nhược, bởi các bắp thịt nổi vồng lên trong khi lớp da đen trũi nhăn nheo lại hiện rõ từng nét trong buổi sáng tạnh mưa. Bên cạnh người ngủ say có một chú nhỏ ngồi quạt thong thả bằng tàu lá cọ đã rứt bớt những sợi đuôi cho đỡ quệt mặt.
Thấy những người cưỡi ngựa dừng bên lều, chú nhỏ lay gọi người ngủ:
- Dậy đi anh Năm, có khách!
- Hử? ừ hừ...
- Chắc thượng cấp tới đó, dậy đi anh.
- Anh Nông về rồi hả... mẹ cha, thiệt anh Nông chớ?
Năm Chò chồm dậy, dụi mắt nhìn quanh ngơ ngác. Chẳng thấy anh Nông nào cả, chỉ có một cậu con trai mặt bấm ra sữa từ lưng ngựa bước xuống, đứng chống nạnh hai tay, gọi rất xẵng:
- Đồng chí Nguyễn Văn Chò đâu, chuẩn bị báo cáo!
Năm Chò chưa tỉnh hẳn sau giấc ngủ hai tiếng. Suốt đêm qua anh dẫn một tiểu đội bơi lặn tìm xác đồng chí Nông Quyết Thắng.
Một đồng chí trong Quân giải phóng từ chiến khu Việt Bắc cử về Quảng Nam chỉ huy đại đội, nói tiếng Kinh đang ngọng nhưng rất giỏi đánh du kích, rất dũng cảm, rất thương lính và được lính thương ngay từ buổi đầu gặp mặt. Trung ương cử về một đồng chí vậy đó, dẫn đầu anh em Quảng Nam đi giết giặc cứu nước, khi qua Xuân Lộc lại để anh ấy trúng bom rớt xuống sông, mãi tới bây giờ cũng chưa tìm được xác để chôn cất đàng hoàng, báo tin về cho vợ con... Cả đại đội Quảng Nam quên rằng mình đã chôn tám mươi đồng đội dọc đường từ Sài Gòn lui về khỏi Xuân Lộc, chỉ còn nhớ nỗi đau xé lòng chiều qua khi mất anh chỉ huy người Thổ Cao Bằng. Anh em mình cùng quê hương, về gặp gia đình an ủi dễ thôi. Anh Nông ở tận giáp giới bên Tàu, là người dân tộc khác, qua nhiều năm đánh giặc trước mình, lại xung phong vô tận đây để bày dạy cho lớp lính trẻ, vậy mà cả ba trăm bộ đội Quảng Nam không giữ nổi người chỉ huy của mình, nhục chao ôi là nhục...
Trước mặt Năm Chò là một gã nào đó đứng nghênh ngang, mặc ka-ki chưa phai màu, đội mũ nhựa Mỹ, đi ủng da ngắn mới, đang hoạnh họe cái gì chưa nghe rõ. Năm quay lại hỏi Sáu Cam:
- Anh em kiếm gạo về chưa?
- Không thấy.
- Còn số tìm xác?
- Cũng chưa về.
- Lôi thôi đây. Hôm qua mưa to còn đỡ, bữa nay nắng ráo, địch dám nhào tới lắm...Áo tao đâu?
- Chưa khô đâu anh.
Năm Chò mặc cái áo lính Bảo an rách hai cùi tay, thắt nịt súng ngắn, xỏ chân vào đôi giày da bắt đầu há miệng, chụp lên cái đầu mũ sắt Pháp kiểu cổ có mào trên đỉnh. anh nhìn lướt qua bốn người đi ngựa, thấy một người chừa râu mép lớn tuổi hơn cả đang xoay ống dòm nhìn quanh, đeo súng ngắn và xắc-cốt da, đoán là ông thượng cấp trong nhóm. Anh bước tới, rập gót đưa tay lên mũ chào:
- Báo cáo, tôi là Nguyễn Văn Chò, đại đội phó có mặt.
Người râu mép buông ống dòm treo trên ngực, từ trên lưng ngựa nhìn xuống bằng cặp mắt nheo khinh khỉnh:
- Sai động tác. Chào lại.
Năm Chò thả tay xuống, chào lần nữa, vẫn theo kiểu vênh ngửa bàn tay của lính Tây ngày xưa. Anh không để ý xem đồng chí Nông Quyết Thắng chào ra sao, từ ngày gặp nhau chỉ có hành quân và đánh giặc liên miên.
- Vẫn sai. Đại đội phó gì xoàng thế! Về học chào đi!
Một luồng máu chạy thốc lên mặt Năm, nén xuống không nổi. Anh nhìn con người khá to béo và sang trọng trước mặt, nghĩ đến những thằng ca-pi-ten ngồi trên ngựa quất roi vào mặt lính ngày xưa. Anh đã đi tù vì tát tai một thằng như thế. Từ đó anh khôn ra, tập đối phó với bọn sĩ quan bằng lý sự, nét mặt, giọng nói, không chèn vào một cử chỉ hay câu chữ nào có thể bị bắt vạ khi ghi vào biên bản.
- Đứng ngây ra thế à? Báo cáo tình hình đơn vị đi!
Năm Chò nhận ra giọng nói người kia lơ lớ rất lạ tai, tuy đã quen vừa nghe vừa đoán khi sống với anh Nông. Kiểu lơ lớ này giống như người Tàu nói tiếng Việt chưa sõi. Càng nghi con người ấy, anh càng thấy khác xa tất cả những cán bộ quân sự lâu nay thường gặp. Từ bực tức chuyển sang nghi ngờ, Năm Chò nói to cho mấy anh em trong đại đội bộ cùng nghe rõ:
- Đề nghị đồng chí cho biết họ tên, chức vụ.
- Lát nữa đã. Chấp hành lệnh tôi ngay!
- Lệnh của Bộ chỉ huy Mặt trận: cấm những người lạ mặt đi vô khu vực tác chiến, dòm ngó bộ đội hỏi dò bí mật quân sự. Ai trái lệnh cấm, chỉ huy đơn vị có quyền bắt giữ.
- Ái chà, dám dọa bắt cả tham mưu phó Mặt trận kia đấy! Bộ đội gì mà như một lũ cướp, chỉ huy chẳng khác tướng cướp...
Người trẻ nhất có khuôn mặt học trò, lúc này đã lên ngựa, vừa bật cười bỗng nín ngay, tái mặt. Người râu mép chụp tay lên bao súng ngắn, kêu hổn hển:
- Chúng mày... làm loạn hở? Vệ binh đâu, bắt ngay thằng đầu sỏ! Tất cả hạ súng xuống lập tức! Kìa, vệ binh đâu?
Tiểu đội trinh sát đã chồm tới, đạn rong róc nhảy vào nòng, có người hết sạch đạn cũng rút lưỡi lê cắm lên đầu súng. Hai người cưỡi ngựa đứng sau mặc quân phục vá nhiều miếng ở đầu gối và vai, vẫn để súng sau lưng không động đậy, chỉ nhìn nhau lắc đầu. Đột ngột, người râu mép giật cương ngựa rẽ sang phải, thúc gót ủng da vào hông cho ngựa vọt đi. Người trẻ hơn bị con ngựa chồm đứng lên suýt lộn cổ, rồi cũng đuổi theo được. Hai cậu vệ binh lặng lẽ bước xuống đất. Một người nói lớn để lộ hai hàm răng đen:
- Thôi để họ cút, anh em đừng bắn. Chúng tớ cũng thoát lạn. Anh Năm không nhận ra chúng em à? Vệ binh của anh Hồng Nong đây mà!
Năm Chò cũng vừa nhớ ra hai khuôn mặt quen đã gặp ở Mặt trận bộ. Anh tươi mặt, bắt tay hai anh “bộ đội thuốc lào”, nhắc tiểu đội trinh sát tháo đạn ra.
Thì ra người râu mép kia đúng là tham mưu phó Mặt trận thật, tên là Lý Đằng, từ Hà Nội mới vào. Anh em vệ binh nghe lỏm được câu chuyện giữa anh Hồng Long, chỉ huy trưởng Mặt trận, với người mới đến có nhiều nét kỳ quặc này. Anh ta là con một nhà buôn người Việt ở thành phố Côn Minh, học trường Tàu từ nhỏ đến lớn, học tiếp trường võ bị Hoàng Phố, làm đến lục quân thiếu hiệu[1] trong quân đội Tưởng, chỉ huy một đoàn[2] thuộc quân đoàn 60 tỉnh Vân Nam sang miền Bắc nước ta. Nghe lời cha mẹ thúc giục và bạn bè khuyên, anh xin giải ngũ và chuyển sang quân đội ta, được đưa gấp vào Nam, đến Mặt trận bộ mới mươi ngày mà đã đánh lính hai lượt, đòi cách chức năm cán bộ phân đội và trung đội, mức ăn gấp ba bốn lần chỉ huy trưởng mà vẫn kêu không đủ chất bổ. Mặt khác, cán bộ nói với nhau anh này khá thạo công tác tham mưu, nên cố giữ mà dùng rồi sẽ uốn nắn sau. Người trẻ tuổi cùng đi là một học sinh người Hoa ở Hà Nội, bà con phía vợ anh, làm nhiệm vụ thông ngôn vì anh quên tiếng Việt quá nhiều. Lắm lúc anh ấp úng nói tiếng Việt chợt xổ luôn một tràng tiếng Tàu, chỉ một mình anh Hồng Long hoạt động ở bên ấy nhiều năm hiểu nổi, còn tất cả lại che miệng cười đợi dịch.
Năm Chò chép miệng trách tiểu đội trinh sát:
- Làm kiểu tụi bay, cầm chắc tao ra tòa án binh quá!
- Lão ta chửi xa xả cả chỉ huy, cả đơn vị, tụi em đổ điên...
- Tao cũng máu Trương Phi lắm chớ, có điều để cho lão trái lý trước tao mới trị cho chừa...
Từ xa vẳng đến tiếng nổ trầm sâu của một quả đại bác rời nòng. Tiếng hú vừa kéo ra hơi dài, mọi người đã không để ý đến nó nữa, biết đạn không rơi gần. Anh em tản đi chia nhau mấy chục cân gạo mới lùng mua được trong các làng xa đường, túm vào trong mấy cái quần chưa rách vác về. Lại kiếm được đến sáu con chó trói cứng khiêng theo. Đồng bào được lệnh giết hết chó cho du kích đánh đêm khỏi lộ, phần lớn không nỡ tự tay giết, chỉ gọi bộ đội đến biếu mang đi. Các đơn vị “răng đen, thuốc lào” chén đẫy thịt chó, trong khi anh em từ Huế trở vào mới dần dà tập ăn, còn dân làng thì chưa dám nếm món “cờ tây”.
Bốn khẩu 105 bắn vào mé tây đường nhựa chừng năm chục quả thì im, Năm Chò cho nổi hiệu còi sừng trâu báo động dè chừng đại bác đổi hướng bắn.
Cái còi này của ông Tư Chua tặng anh em Linh Lâm ngày họ được chọn vào Giải phóng quân, có lá mía cắt bằng tre gắn ở hông chứ không lắp vào đầu nhọn, khi thổi ra hay hút vào đều phát ra tiếng. Sáu Cam căng hết hơi phổi, vừa thổi vừa từ từ xoay người tại chỗ cho còi vang đều bốn phía: húúút hooo, húúút hooo... Khắp vùng trung du và rừng núi của Quảng Nam, tiếng còi hai giọng ấy nổi lên bao giờ cũng giục người con trai chụp lấy một thứ giáo mác nào sẵn sàng nhất, lao tới chỗ đóng lưới lùa thú vào mà đâm chém, tất cả chó lớn nhỏ thuộc nòi săn nhảy chồm chồm lên như hóa dại, những ông già buông tay cuốc và kể lại một chuyến săn nào đó mà con cháu và hàng xóm đã thuộc lòng. Tiếng còi theo vào đây, gọi trai tráng đất Quảng nhào lên chống loài thú đã giết nhiều người nhất trên trái đất.
Thế nhưng pháo không bắn tiếp. Tiếng ù ù của máy bay dội to dầu. Bốn chiếc Xpít-phai từ phía Xuân Lộc bay đến theo đường nhựa làm cữ, xếp hình chữ nhật lệch, cánh quạt xoáy nắng thành đĩa trắng lóa, những quả bom như chúc đầu xuống tìm thịt. Chúng quần hai vòng trên khu rừng cao-su đang nín hơi. Tiếng rống đè xuống gáy người, nạo dọc xương sống như con rết to tướng ngàn chân bò tìm chỗ cắm nọc. Ba trăm con người nằm ép xuống đáy những hố đào vội, ôm cây súng đói đạn, ôm cả cài bụng réo sủi đòi cơm, chờ bom rơi. Đến vòng thứ ba chúng rướn lên cao, chuyển sang hàng dọc.
Năm Chò với Sáu Cam núp chung hố. Thấy thằng em run giật từng hồi, Năm phát mạnh vào mông nó, nó nẩy bật lên và dứt run. Anh khẽ cười, ngoái tay sang kéo tấm chăn cho phủ thật kín cây súng máy Bơ-ren-Chút hỏa lực cuối cùng của đại đội chỉ còn dựa vào nó với hơn chục cây súng trường Anh lấy được của Chà chóp ở ngoại ô Sài Gòn, chia nhau ba trăm viên đạn Anh, còn ăn hết nhịn.
Chiếc máy bay dẫn đầu chúi xuống. Hai quả bom rời cánh, từ hình trái chuối đổi sang hình tròn, phình nhanh. Năm Chò trống tay ép người xuống đáy hố, hít vào một hơi dài, nín thở.
Bom nổ quá gần không còn nghe thấy tiếng. Nền đất dưới ngực Năm nẩy bật hai lần. Mắt thấy vô số đốm xòe lên dưới mí, ngực và họng tắc cứng, thân thể nhẹ bỗng như rơi mãi không tới đáy. Một thác đất sỏi trút ào ào xuống lưng. Năm ngóc nhanh lên tránh đất lấp đầu, quờ hai tay hai bên tìm Sáu Cam và súng máy, trong mươi giây cảm thấy tay mình cứ tự nó run không cưỡng được. Cam lồm ngồm nhỏm lên, thấy Năm chỉ lên trời lại nhào sấp xuống, bịt kín hai tai.
Hai quả nữa rơi xa hơn, nghe rõ tiếng nổ, chém hàng loạt cây cao-su ngã lảo đảo trong khói đen đặc phòi ra và dưới mưa đất đá tưới xuống. Chiếc thứ ba trút bom xuống con hào mới đào hiện rõ nét chữ chi đỏ loét dưới chân đồi, anh em chỉ chạy xuống đấy khi chặn địch trên đường nhựa. Chiếc cuối đánh bên kia đường. Chúng lại rướn lên cao và quần tròn xem lại các chỗ trúng bom trước khi bắn súng máy.
Năm Chò đào bới vội, lấy cây Bơ-ren lên. Nó vẫn sạch sẽ nhờ trùm chăn. Anh đứng thẳng, vành tay làm loa hét to:
- Truyền đi: các trung đội coi lại người với súng, sẵn sàng đánh quân bộ.
Máy bay lại lao xuống, phụt khói hai bên cánh. Rừng cao-su dậy lêu tiếng nổ kép của đạn 12 ly 7, một chuỗi pùng pùng trên trời, một chuỗi bốp bốp bốp dưới đất. Có chiếc xuống thấp như sắp chặt đứt ngọn cây, bóng cánh sạt qua rừng. Năm Chò ngửa mặt trông chừng, cố đoán xem trận bom này mở đường cho quân bộ đánh lên hay chỉ nhằm che chở cho một đoàn xe từ Ô Cấp chạy qua Xuân Lộc về Biên Hòa, Sài Gòn. Và tại sao những trận trước máy bay đánh xong mới đến lượt đại bác bắn qua đầu mở đường cho bộ binh tiến, hôm nay chúng đổi thứ tự? Anh mải nghĩ đến nỗi chỉ kịp thụt xuống sau khi một luồng đạn rạch dài qua sát miệng hố như một đường may máy giết người, tóe lửa và mảnh.
Máy bay đảo một vòng nữa, bỏ đi. Mặt đất vắng tanh bỗng mọc lên rất nhiều đầu và thân người, nhìn quanh gọi nhau, tìm xẻng moi các hầm xụp. Năm Chò cởi áo ra lau cây Bờ-ren thật sạch, gọi tiểu đội trinh sát:
- Mỗi đứa đi một trung, lệnh cho anh em ăn tạm gạo rang chờ đánh lính bộ. Mỗi trung một cán bộ tới báo cáo.
Cận Huynh thấp lùn và rất khỏe cõng ba-lô đạn ngồi bên súng máy, vỗ mãi cặp tai ù. Sáu Cam đập phủi mớ đồ đạc mới moi lên, đến bấm khẽ Năm Chò một cái, lặng lẽ chìa cái bi-đông. Năm Chò làm một hớp, lắc thử, do dự, đưa lên nhấp thêm một ngụm nhỏ nữa.
Cán bộ các trung lần lượt đến. Chỉ một người bị vùi ngất đang cấp cứu, ba người tức ngực, một mút-cơ-tông gãy báng. Thế là may. Nhưng mặt Năm Chò vẫn sa sầm. Anh ho liền trước khi nói nặng nề:
- Hai tay vệ binh hồi nãy mang lệnh của anh Hồng Long. Đại đội mình sẽ cầm cự tới sáu giờ tối, sau đó hành quân dọc quốc lộ... đường xa đó... bảo đảm khiêng hết thương binh...
- Đánh lấy lại Biên Hòa hả anh?
- Rút lui.. tới Phan Thiết... tôi đang xin lệnh viết chính thức...,
Tất cả ngồi lặng cả đi mấy tích tắc. Trung đội phó Sanh đầu quấn băng trắng trừng mắt quát:
- Lui! Lui nữa! Lui tới đâu dân réo bộ đội chửi tới đó, tôi hết chỗ chịu rồi!
Bốn năm người cùng nhao nhao, không ai nghe ai:
- Mới hôm qua bà già cột con chó trước cổng, nói to cho tụi tôi nghe: tội nghiệp, mày ăn cơm nhà còn biết giữ nhà, chẳng phải như cái bọn ăn no cắp đuôi mà chạy...
- Ông già tản cư chỗ cầu gỗ hỏi: trong mười lời thề của các anh có cái lời thề bỏ dân trốn giặc không vậy?
- Mấy cô du kích gặp sáng nay nữa, xỉa xói là súng to súng nhỏ chạy ráo trọi, nhường chỗ cho gậy tầm vông!
- Ra đi không trở về! Đứa nào sợ chết cứ rút, đứa nào gan lì ở lại đánh với tao!
Câu nói cuối cùng của trung đội trưởng Lung quất vào mặt Năm Chò như một bó lạt dang. Anh chồm người tới trước, gầm lên:
- Câm họng! Lung, mày nói ai sợ, ai gan?
Lung há miệng định cãi, chỉ mấp máy miệng không ra tiếng, mặt hơi tái đi nhưng mắt gườm gườm.
- Tao dốt nát, không nói hay như mấy ông chánh trị, tao nói kiểu con nhà cầm súng thôi, nghe đây Lung! Mày muôn giơ ngực ra cản đạn thằng Tây, tao cho mày tự do, không cấm. Mà tao cấm mày không được làm mất súng của đại đội, không được kéo anh em non trẻ chết chùm với mày. Bây giờ mày trả cây Xi-ten lại đây, cởi ngay lập tức, hai trái lựu đạn Nhựt thì tao tặng mày. Đi luôn theo du kích đi, tao không nói mày đào ngũ đâu, mày chết tao báo về vợ con làng xóm thiệt tốt cho người ta cúng lễ mày đàng hoàng. Mày cởi súng ra, đi một mình, đi đi!
Chung quanh lại lắng xuống một lát, rồi ồn ồn:
- Thôi anh Năm, nó nói khùng nói bậy...
- Năm, mày đừng giận nó, tụi mình với nhau mà!
- Thằng Lung, nhận lỗi với đồng chí đi, bướng hoài!
- Mày uống nước không chừa cặn đó Lung!
Tiểu đội trưởng trinh sát chạy đến, hổn hển:
- Báo cáo các anh, quân bộ tới!
Năm Chò lừ lừ quay đầu lại, gằn giọng:
- Thở một chút, nói thiệt rõ nghe coi.
Trinh sát trên điểm cao mé trước trông thấy một đội quân địch chừng bảy tám chục tên đi hàng dọc hai bên lề đường nhựa, rất chậm chạp, không có xe tăng hay xe bọc thép mở đường, không có máy bay Mo-ran quần trêu đầu. Năm Chò cau mày:
- Màu áo quần ra sao?
- Màu vàng đất sét, như tụi Nhựt. Ra chỗ bìa rừng ngó thấy.
Năm kéo cả nhóm cán bộ ra mé rừng.
Những chấm lúc lắc hai bên đường nhựa còn rất xa, có ống dòm tốt mới nhận ra được quân nào. Nếu chúng cứ vừa tiến vừa dò đường thế này, ít nhất phải nửa giờ chúng mới đến châu đồi. Tim Năm đập nhanh dần. Anh không dám nói ngay, sợ mừng hụt, chỉ nhắc anh em nhìn thật kỹ trong khi anh cố nghĩ một cách đánh nào lợi nhất, ăn chắc nhất.
Tháng trước chi đội Ba Tơ của Quảng Ngãi đã gặp dịp may lạ lùng: một đơn vị quân Nhật bị tụi Anh ném đi dò đường mà không cho xe tăng hay máy bay theo giúp. Tiếc rằng lần ấy ta chỉ có một phân đội tại chỗ, giết hơn chục tên mà không lấy được súng. Dường như dịp may ấy đang diễn lại trước mắt Năm.
Cầu Xuân Lộc bị phá, thuyền bè không có, tụi Pháp nhờ bọn chỉ huy Anh cho sục sạo quãng quốc lộ ra Phan Thiết. Ba thứ quân ráp lại lụp chụp, ắt đánh lộn xộn. Máy bay Anh chưa sẵn sàng thì đại bác Pháp cứ bắn trước, đủ số đạn là ngừng. Quân Nhật thù ghét Anh và khinh Pháp ra mặt, chán cầm súng mà cứ phải đánh thay cho lũ quỷ trắng, ra trận với điệu bộ muốn nôn mửa. Tụi Anh không dám cho máy bay và thiết giáp đi chung với Nhật, bởi đã lắm phen ăn những viên đạn trường Nhật cỡ nhỏ xíu mà không truy ra ai bắn. Anh Hồng Long nhiều lần giảng về các mâu thuẫn trong hàng ngũ địch. Lúc này Năm Chò sẵn sàng quỳ gối xuống lạy tất cả các thứ thần phật ma quỷ sao cho mâu thuẫn ấy hiện hình trong chốc lát để đại đội anh kiếm được mấy chục cây súng có đạn mà đánh tiếp ít lâu nữa.
Sán Cam kên the thé trên lưng chừng cây:
- Tụi nó cắm lá trên mình, anh Năm!
- Coi kỹ màu áo...
- Đúng tụi Nhựt rồi. Trên mũ sắt cũng gài lá.
Năm Chò quay lại nhìn nhóm cán bộ trung đội:
- Hỏi thiệt nghen, tụi bay có nhứt trí tao chỉ huy thay anh Nông chưa? Ai không đồng ý nói phứt đi.
Trung đội trưởng Ba Dĩnh ngoài bốn mươi tuổi, phu khuân vác ở cảng Đà Nẵng, vẫn được coi như ông lão làng trong đại đội. Anh nói thật dõng dạc:
- Hỏi gì lạ vậy Năm? Họp từ tiểu đội trưởng trở lên, tao chủ tọa, bầu mày không thiếu một phiếu nào. Thằng nào trái lệnh, mày cứ... cứ trói ké lại cho anh em xử. Thằng Lung chịu lỗi rồi đó, mày đừng để bụng.
- Ờ, vậy tao kế hoạch đây. Tao bắn cây Bơ-ren chặn đầu với tiểu đội trinh sát. Thằng Sanh cho tiểu đội trường Anh cúp đằng đuôi. Khúc giữa xung phong đâm lê cướp súng, cho phép mỗi đứa bắn một phát thôi, nói rõ là cấm bắn hai viên...
Nhìn những cặp mắt năn nỉ được đánh, Năm Chò đắn đo một phút, rồi xiêu lòng trước vẻ đau khổ của Lung:
- Trung đội thằng Huỳnh dự bị...
- Ồ...
- Không ồ à gì hết. Lính thằng Lung rải đằng đầu, cho thằng Sanh khúc cuối. Bố trí cách đường nhựa chừng vài chục thước, nghi trang thiệt kỹ. Cấm lên đạn trước khi tao nổ súng máy, hễ cướp cò lộ chỗ phục kích là bị đuổi về hậu phương, dặn rõ rồi nghen. Ai ý kiến gì nói mau.
Nhóm cán bộ nhìn nhau rồi nhìn Năm. Vẫn ông lão làng nói dõng dạc:
- Đề nghị đại đội trưởng cho trung đội tôi chỗ bố trí.
- Chút nữa quên. Cụ cho một phân đội tới chỗ gò của trinh sát, nằm im đó cho địch qua, nổ súng rồi sẽ nhào ra hốt sạch bọn lính sẩy cho tôi, đừng để sót thằng nào. Còn hai phân đội, cụ lắp nối vô quân thằng Sanh.
- Tuân lệnh!
Năm Chò buột miệng: “Không dám”, ông Ba Dĩnh là đảng viên có khác, ổng nguyên tắc ghê ghớm mà không ai trách gì được.
Cán bộ các trung hộc tốc chạy về đơn vị mình, chỉ còn Lung đứng tần ngần trước mặt Năm. Năm bật cười, đấm nhẹ vào vai bạn:
- Thôi, xi xái bồ lái bồ khự[3]. Xung phong thiệt bảnh, tao cho mày một đều. Chạy mau đi!
Năm gọi tiểu đội trinh sát theo mình, chỉ để lại hai người ở vọng gác. Anh nắm quai xách cây bờ-ren nhấc nó lên, đi vội xuống bìa rừng cao-su. Huynh và Cam chạy theo. Họ vơ vội lá khô cành gẫy thành đống to bên đường, vùi mình vào đấy, vạch một chỗ hở vừa đủ nhìn phía trước. Hai trung đội của Lung và Sanh cũng hối hả xếp chỗ núp sau các gốc cao-su. Năm Chò chạy lom khom qua các bụi rậm bên kia đường, xem kỹ trận, địa phục kích, gật gù ưng ý. Anh bò thấp qua mặt đường, chui vào chỗ mình trong ổ lá vun trên đầu dốc, trong khi cán bộ trung đội và phân đội lần lượt biến khỏi mặt đất. Quân cụ Dĩnh lót chặn đuôi dưới xa kia thì khỏi lo, cụ còn kỹ tính hơn cả anh Nông Quyết Thắng.
Năm Chò và Huynh nằm vã mồ hôi khá lâu dưới tấm chăn phủ chung hai người và cây Bờ-ren, bọn Nhật mới chịu dẫn xác đến.
Lính Thiên hoàng đã đầu hàng mà còn bị ép ra trận có dáng đi thật lạ mắt, vừa lê chân thiển não vừa pha những nét ngông nghênh sót lại.
Dưới những mũ vải ba rèm là những cặp mắt lấc láo và gườm gườm, sẵn sàng giết người cho mình sống sót, đầy hăm dọa và tuyệt vọng. Đi chính giữa đường nhựa là ba tên cầm súng máy nhẹ, rỉa từng loạt ngắn vào hai bên đường, xới thử những chỗ có vết đất mới đào đỏ tươi.
- Huynh, lật chăn!
Tấm chăn tung lên. Lá khô rơi lả tả. Cây Bờ-ren nòng trắng gầm nhức óc, nẩy bần bật trên hai chân, giật rung nửa thân người bắn. Luồng đạn của Năm Chò quật nhào ngay tổ dẫn đầu, quét xâu táo hàng quân đi bên trái. Khoảng chục tên đổ gục trước khi địch biết bị đánh. Huynh đâm băng mới. Đạn địch bắt đầu nổ lốp đốp, chiu chiu trên đầu. Nửa băng thứ hai quét vào hàng quân bên phải đã nhào sấp đang loay hoay ngắm bắn. Chúng nằm hàng dọc, vướng nhau, vướng xác đồng đội, khó bắn trả vào họng súng máy xổ đạn thẳng trục đường.
Thằng chỉ huy đeo kính trắng tuốt nhanh cây gươm dài thượt, cúi lom khom, gào rất to: “Riu-đan! Su-riu-đan”[4]. Nhiều tên nằm gần hắn nghiêng người, quài tay sau lưng rút đạn. Năm Chò lấy lại đường ngắm, trút nửa băng còn lại vào thằng sĩ quan và cụm lính dồn cục. Anh ôm ghì cây Bờ-ren nóng rực vào lòng, kéo gập chân súng nghiến răng lăn mạnh mấy vòng trên mặt nhựa, rơi bịch xuống chỗ trũng bên đường. Huynh chạy ào theo. Ba bốn quả lựu đạn nổ liên tiếp quanh chỗ họ vừa nằm, tung mảnh veo véo.
Trên sườn dốc, các gốc cây phụt khói gần như cùng loạt, đạn bắn cách vài chục thước xóc túi bụi vào hông bọn Nhật đang cố diệt ổ súng máy chặn đầu. Chúng gào rú lạc giọng, xoay trở không kịp.
- Xung phooong!
Hai trăm con người từ lòng đất vọt ra, hét như sấm, xốc súng lao xuống. Hai trăm cái bóng rách rưới nhào theo mũi lê hình cạnh khế sáng lóe. Hai trăm thân hình gầy rộc đói khát ném hết sức nặng còn lại vào phát đâm đổi mạng dữ dội. Lưỡi lê lúc này nóng hơn đạn lửa, nóng như đầu người.
Quân Nhật vỡ tan, rã chạy. Những thằng cố bắn trả đã lăn lộn ôm vết đâm trên ngực hay lưng. Nhiều lưỡi lê xóc quá mạnh, xuyên qua thịt trúng mặt đường gãy rắc. Loáng thoáng những bóng lính vất súng quỳ gối giơ tay lẩy bẩy. Mươi đứa đằng đuôi túm dây súng kéo lê chạy thục mạng, húc vào phân đội của Dĩnh tràn ra chặn, lăn gô giãy giụa dưới trận mưa súng bắn, lê đâm, báng súng nện xuống gáy. Cụ Dĩnh đuổi theo hai tên cuối cùng dọc đường về Xuân Lộc, vẩy hết sáu viên đạn súng ngắn ru-lô. Chúng lăn quay. Người đuổi cũng ngã vật, quá đói. Anh em tới sau xốc nách dìu Dĩnh trở lại trận, địa đang tưng bừng giữa những phút tuyệt vời nhất trong đời người lính cách mạng là khi thu dọn chiến trường.
Tám mươi tên lính Nhật đã bị giết và bắt sạch trụi trong sáu phút. Trung đội phó Sanh, người duy nhất có đồng hồ đeo tay trong đại đội, mặt đỏ bừng, vừa đi vừa thét như điên: “Tất cả hết sáu phút! Sáááu phúúút!”
Bộ đội bắt đầu lượm súng, thân nịt đạn, cởi mũ sắt địch.
Năm Chò bị một hòn đá nhọn xóc vào hông đau nhoi nhói khi lăn xuông hố tránh lựu đạn. Anh nín thở chặn cơn đau, chống hai tay quỳ hai gối xuống mặt đường, ghé tai sát mặt trung Lung bị một loạt đạn xé nát bụng. Lung thều thào:
- Năm... hết giận tao chưa?
- Không, không, tao thương mày. Tao khiêng về, mày sống...
- Đừng... chôn đây... khỏi mệt anh em... nói giùm với...
Lung bỗng quẫy mạnh. Bắp thịt trên mặt co giật dồn dập như tập diễn kịch trước gương. Thân anh vặn cong lại như vỏ đỗ, hai mắt mỏ trừng, hai bàn tay cào cấu mặt đường nhựa đổi sang run giật khi ngực anh ngừng thở.
Năm Chò hộc lên một tiếng đau xé trong họng, úp mặt trên ngực bạn. Nhiều bàn tay túm vai và tay lôi anh dậy. Anh đưa nắm tay đập vào đầu, buộc mình phải tỉnh lại, tỉnh ngay.
Sáu Cam kêu lanh lảnh sát bên tai:
- Có lệnh thượng cấp, anh Năm! Giấy tới kia!
Năm Chò lảo đảo bưóc vào chỗ đất trống bên đường, ngồi phệt xuống, tay xoa nắn chỗ đau cạnh sườn. Cái áo cuối cùng trên thân đứt sạch cúc, bộ ngực trổ đầy bùa chàm phơi trần. Cán bộ các trung đội xúm lại. Cụ Dĩnh vừa được anh em dìu đến, cầm một miếng đường đen cắn nhai hối hả cho đỡ đói. Một người nào đó từ trên ngựa bước xuống, đứng nghiêm chào. Năm Chò giật mình co tay định chào lại, sực nhớ mình đang ngồi, buông tay nói ấp úng:
- Xin khuyết điểm nghen, tôi mệt quá... anh nói đi...
- Báo cáo đổng chí, tôi chuyển mệnh lệnh viết của Bộ chỉ huy Mặt trận.
- Tôi không biết chữ, anh đọc giùm.
Anh phái viên tham mưu trịnh trọng xé phong bì giơ trước mắt mọi người một tờ giấy đánh máy đóng dấu đỏ, sau đó mới rập gót giày và đọc to. Lệnh viết rằng đại đội Quảng Nam thuộc lực lượng Nam tiến sẽ rút về trấn giữ ngã ba từ quốc lộ số Một xuống thị xã Phan Thiết ngay đêm nay. Đại đội phó Nguyễn Văn Chò phải bàn giao đơn vị cho trung đội trưởng Lê Dĩnh về Mặt trận bộ lập tức sau khi nhận lệnh. Người ký là La Giang, chỉ huy phó Mặt trận. Anh phái viên trao tờ lệnh cho Năm, chào rất đúng động tác trước khi vọt lên ngựa, phóng di.
Năm Chò vuốt tay lên mặt, thong thả nhỏm dậy, cười gượng:
- Nghe rõ hết rồi nghen. Cụ Dĩnh lo giùm đại đội, tôi đi liền bây giờ.
- Tầm bậy, mày ở đây, tội vạ chịu chung...
- Đừng, cứ y lệnh mà làm, không các ổng lại ghép thêm cho tôi là phản động, phá hoại... Nè mấy cha, rán khiêng hết anh em bị thương theo, cùng quê hương bổn quán đi đánh giặc với nhau. Nhắc bộ đội lượm vỏ đạn đem về, quân giới nhận vỏ mới chịu cấp đạn. Mọi thứ chuyện trong đại đội thì các cha biết hết rồi, chẳng có gì phải bàn giao.
- Thì mày cũng phải chào anh em...
- Anh em đang mừng thắng trận, để họ vui xả láng một lát, cụ Dĩnh cho biết sau cũng được. Ô-voa hết bà con nghen!
Năm Chò đứng ngẩn ra mươi giây nữa, tay đưa lên ngực tìm cúc cáo đã bay sạch. Rồi anh lẳng lặng bỏ đi theo đường nhựa, hai vai gò xuống như cõng nặng, kéo lê đôi giày lính đã há miệng. Sáu Cam xốc vội cái bao rách lên lưng, cung cúc chạy theo con người thương nó và được nó thương nhất trên đời.
Chú thích:
[1] Tương đương thiếu tá.
[2] Tương đương trung đoàn.
[3] Xí xóa, không nói đi nói lại!
[4] Lựu đạn! Lựu đạn tay!