- 23 -
Bốn tháng đầy biến động trôi qua sau tổng khởi nghĩa.
Một chàng trai cao lớn, mặc sơ-mi ngắn tay tuy trời se se lạnh, quần dài tím than ống rộng theo kiểu đương thời, đi giày vải bát-két, tóc cắt cao cũng theo kiểu thể thao đang thịnh hành, đến bấm chuông và gõ cửa nhà bà Mỹ Duyên.
Đến mươi phút mới có một ông cụ ra mở cửa. Cụ nặng tai và hơi lẫn. Hỏi mãi tên và nghề của khách xong, cụ mới kéo Hai Khánh vào nhà, bỏ đấy đi lập cập pha nước. Cụ nói rất dài rằng con cháu cụ mới quyên tiền nuôi tự vệ dạo trước, hũ gạo “đồng tâm” giúp đồng bào Bắc Bộ đã có giới phụ nữ đến trút mang đi, ai chứ cụ thì hết mình yểm hộ chánh phủ Cụ Hồ. Mất đúng nửa giờ Khánh mới rứt ra được, chỉ biết thêm rằng ba gia đình đã thuê chung ngôi nhà này sau khi Mỹ Duyên bỏ đi. Ông cụ nghe không nói gì về người thuê trước.
Khánh xem lại lá thư đã mòn các cạnh xếp, nhẩm thuộc địa chỉ cô người ở cũ của Mỹ Duyên mãi trên làng Thanh Khê. Duyên hẹn sẽ viết thư về đấy để chuyển lại cho kín đáo. Dắt xe đạp hỏi đường khá lâu qua các xóm. Khánh mới lội cát đến xóm Biển, vào nhà cô Tư Thóa tức cô Sen.
Ban đầu Mỹ Duyên đổi tên Thóa ra Sen để kêu cho ra nhà sang. Nhưng cô Sen lại rất thích cái tên mới nghe thơm tho mà hiền lành, không hiểu ngoài Bắc con sen chỉ có nghĩa là con ở. Sen bỏ nhà đi vì bị gả ép chứ không quá nghèo túng, sống với nhau trong căn nhà rộng vắng, Duyên với Sen dần dà gắn bó, ăn ngủ chung như chị em, và Sen cố che đậy tất cả những vụ bê bối của cô chủ mà Sen thấy là tính nết khùng khùng nhưng rất tốt bụng. Chỉ mỗi lần phủ Đỉnh tới Sen mới “thưa bà” và rút xuống tầng dưới.
Lúc này Sen đã lớn lên thành một cô gái đẫy người, da nâu, vừa đi tập tự vệ ngoài bãi biển về, mồ hôi chưa khô hẳn trên áo bà ba màu gụ. Nhác thấy Khánh, cô đã chạy ào đến:
- Anh Hai, chị Duyên về chưa?
- Ơ, anh đến hỏi Sen có tin gì không!
Sen đứng thừ ra, bỗng sụt sịt:
- Khổ chưa, vậy là mắc kẹt trong Sè-goòng rồi! Em can chỉ đừng có đi, muốn bỏ lão chồng già thì về ở đây với em, rau cháo xong thôi. Chỉ thêu đan có hoa tay, biết nghề may máy, học chữ nhiều, ném đâu cũng sống được đàng hoàng. Vậy mà chỉ cứ kêu buồn quá, chán đời lắm, về gặp má với em ít bữa rồi trở ra liền tay hà. Chỉ đi được nửa tháng, em nghe loa kêu bọn Tây trong Sè-goòng làm hỗn, từ đó tới giờ đánh miết, em cứ xửng lửng như mất hồn...
Vẫn đứng giữa sân với cây súng gỗ khoác sau lưng, Sen khóc rấm rứt rồi bật gắt qua tiếng nấc:
- Mà sao... anh kỳ cục lắm... anh không cản... anh cản nhứt định chỉ ở lại...
- Anh ở tít Hà Nội, thư về không kịp. Sen có nhận được thư anh gửi nhờ chuyển cho chị không?
- Được hai lá, còn cất nguyên đó.
Trước khi đi Duyên bán đồ đạc, cho Sen rất nhiều thứ, riêng áo quần thì Sen không lấy vì to béo hơn cô chủ. Duyên gửi một hòm áo quần, nói nửa đùa nửa thật khiến Sen lạnh buốt xương sống:
- Cho chị gởi đúng một năm thôi. Quá hạn đó coi như chị không cần nữa, em bán hay dùng cứ tự do nghen.
Thấy Sen tái mặt vì câu nói gở, Duyên chữa vội:
- Tới đó chị mập ú như em rồi, đồ này xài sao được!
Khánh từ chối không ở lại ăn cơm cũng không ăn bánh tráng nhúng nước cuốn với cá khô mà nhà chài lưới nào cũng sẵn. Anh mở miệng nói còn khó khăn, làm sao nuốt được. Dắt xe trở ra đến con đường đá, Khánh leo lên đạp, thấy tay lái loạng choạng không ghìm nổi. Được chừng trăm thước anh phải xuống xe, ngồi dựa gốc cây phi lao bên đường, nhắm mắt cho đỡ choáng váng. Một bàn tay sắt nào đó cứ bóp mãi trên gáy và hai thái dương anh. Ước sao có thể khóc dễ dàng như cô Sen kia cho nhẹ người...
Khánh biết Duyên chưa tròn hai năm.
Sau một lần về Qui Nhơn vội vã trong dịp Tết để xin tiền mẹ, theo lời năn nỉ của mẹ, Khánh phải ghé ngang phủ Thăng Bình, chào ông bố dượng trên đường ra Hà Nội học tiếp. Anh gặp cô gái nhảy khét tiếng phá của và ngoa ngoắt này trong phủ, chỉ lạnh lùng chào dì Ba với ánh mắt khinh bỉ và giận dữ. Phủ Đỉnh không muốn rầy rà, giúi cho anh một phong bì khá dày, anh buộc mình phải nhận vì học phí trường Luật rất nặng. Tất cả bắt đầu từ mùa hè tiếp đấy, Khánh ghé qua Đà Nẵng, tò mò đến xem nhà Duyên mà anh gọi thầm là cái tổ quỷ của phủ Đỉnh. Trót nhận lời thách, Khánh phải chở dì Ba di thăm núi Non Nước và tắm biển bằng chiếc mô-tô do Duyên mượn của một tay bạn trai nào đó. “Gớm, tưởng ai cũng mết cô lắm! Đây lõi đời hơn cô chán vạn, còn khuya mới làm đỉa bám gái ca-ve!”.
Ngày ấy qua như giấc chiêm bao, đêm ấy hai người thức trắng với nhau. Ngày mê đêm tỉnh, Khánh không hiểu nổi mình nữa, và Duyên cứ rít trong tay Khánh: “Em điên quá rồi, làm sao anh, làm sao...”.
Đôi lần Khánh nhặt được trên đầu giường các bạn sinh viên những cuốn gọi là diễm tình tâm lý xã hội, trong đó các ả con gái lười chảy thây và thèm khát ăn chơi được tô vẽ thành những nàng Kiều đầy tài sắc phải bán mình chuộc cha. Anh lật nhanh mấy trang, cười khẩy:
- Chọn nghề đĩ điếm thì quyết chí theo nghề cho luôn, giả vờ rên siết não nùng làm gì! Người ta làm ăn còng lưng mửa mật, cánh mình chong đèn học đến ho lao, còn các nàng bán trôn nuôi miệng thì vào nằm chềnh ềnh trong tiểu thuyết! Bọn văn sĩ nghiện oặt xà lai này chuyên viết bên bàn đèn, có gái nhà thổ tiêm thuốc phiện tì tì, mua sách phí tiền!
Với nếp nghĩ trăm phần trăm duy lý của nhà luật sư, Khánh vẫn không thoát nổi cô gái bao quý phái mà anh phải gọi bằng dì.
Khánh trở về nhà trọ trong một hẻm đường Gam-bét-ta, vừa đổi thành Lê Lợi, nơi chủ nhà quen nhắm mắt trước mọi cuộc hò hẹn trai gái nhưng tính giá gấp đôi cho những khách có người đến ngủ chung. Anh gài chốt cửa buồng xong lăn ngay ra giường, vòng hai tay lên đè trên mắt và trán, cố ngủ nhưng không sao ngủ được. Em ơi, Duyên ơi, con quỷ và nàng tiên của anh ơi, em có thể là bạn trăm năm hay hay chỉ là cô gái lẳng lơ tìm thêm dấm ớt, em sẽ đi luôn hay trở về, em sẽ là dì Ba hay vợ anh?
Ông Tây đen nằm trong cái bồ
Có muốn oánh thì là oánh lô tô
Tiếng hát say mèm từ buồng bên đánh thức Hai Khánh dậy. Điện đường Đà Nẵng đã tháo chao đèn phòng thủ hắt qua cửa sổ, in bóng những chấn song phình to trên tường. Một tổ phát thanh nào ngoài đầu hẻm đang đọc bản tin của Đài Tiếng nói Việt Nam chép theo lời đọc chậm. Thằng say bên kia vách ván vẫn không ngớt miệng lè nhè:
Giây phút này đắm say ái tình
Con chó xù cắn con chó vàng
Con chó vàng cắn con chó xù
A a á a a a à à...
Khánh tức điên, nhảy xuống đất, đá mạnh vào lớp ván ngăn:
- Câm đi không? Tao báo Công an tới nắm đầu bây giờ!
Bài hát ma-cà-bông dứt ngay. Mấy câu thì thào không nghe rõ. Có tiếng lạch cạch mở cửa. Câu dọa báo Công an đã đánh trúng chỗ yếu nhất của những đứa nhậu nhẹt bên kia.
Khánh quay trở về giường, nằm sấp xuống, vòng hai tay ôm gối, chợt hít phải mùi chua lòm của trăm thứ mồ hôi ngấm trong ruột bông. Anh vung tay ném cái gối văng bịch vào tường.
Anh đã bỏ cơm trưa, cơm tối, lúc này vẫn không thấy đói, chỉ thấy mình rã rời như quả bóng cao su bị chích xì hết hơi thành một dúm bèo nhèo.
Người hùng Ung Viết Khánh tức Hăng-ri Khánh, đã từng nuôi mộng làm một Na-pô-lê-ông trong cách mạng Việt Nam, muốn đạp chân trên đỉnh làn sóng khởi nghĩa để nhảy lên ngôi, lúc này chỉ còn là người định chơi nước cờ cao lại lâm thế bí, còn quân còn đường mà tắc hẳn các lối đi.
Trong mấy tháng lang thang không việc làm tại Hà Nội, nơi những luồng tư tưởng và hành động trái ngược va vào nhau sùng sục, Khánh đã nghe thấy tất cả các tiếng chuông đến từ mọi phía, càng nghe càng thấy ù tai rối óc.
Nhiều bạn cũ tin chắc rằng chàng trai con quan tri phủ, với dáng người và lối cư xử quý phái, chăm học và học giỏi, chỉ có thể ngả theo Việt quốc, Việt cách, hay đóng vai trí thức trung lập mà thôi. Họ lôi Khánh đi nghe ông Vũ Hồng Khanh cao lớn bệ vệ trong bộ âu phục loại sang, chửi cộng sản như sấm sét trong ngôi nhà 21 Hàng Bún Trên. Họ rủ anh cũng đóng vai đại biểu sinh viên đến ra mắt cụ Nguyễn Hải Thần ở nhà 23 Quan Thánh, nghe cụ nói líu lô nửa Việt nửa Tàu về quá khứ vị lai, đúng cái giọng của vị “Nam Hải chân nhân, mãi văn toán mệnh” treo biển vải ở chợ Quảng Châu. Khánh bỏ hai đêm đàm đạo với một trung ương ủy viên Quốc dân đảng tóc hoa râm trong một tiệm hút kín đáo ở ngõ Phất Lộc, mỗi lần phải tốn ba bốn chục viên bi. Bi là những viên xái tẩm nhựa thuốc phiện đen lánh, mỗi viên một đồng chỉ bằng hạt ngô, bọc trong dải giấy kính dài vặn xoắn như chuỗi hạt. Lão ta thích tán và tán rất tài những chuyện vui buồn voi chó về mười năm lưu lạc ở Côn Minh, Liễu Châu, Trùng Khánh, Quế Lâm, phải cái chỉ bốc hứng sau vài chục khói. Và tuy không hề thề thốt trước gươm súng để vào Việt quốc, anh vẫn được bí thư trưởng Nguyễn Tường Tam viết thư cộp ấn giới thiệu anh với đảng bộ Việt quốc tỉnh Quảng Nam!
Trong khi ấy, các bạn Việt Minh Hoàng Diệu vẫn nhớ anh là người cùng hoạt động bí mật với họ, dám gan góc tìm cách móc nối với sĩ quan Nhật để mua súng đạn chuyển lên chiến khu và sửa soạn khởi nghĩa. Lá thư của Việt Minh tỉnh Trần Cao Vân cũng xác nhận những công tác mà Khánh đã làm: xuất tiền nhà mua vũ khí tặng du kích, vận động hiến thóc, nắm tình hình chính quyền bù nhìn, kêu gọi binh lính địch. Bạn nào cũng muốn kéo Khánh cùng làm việc với mình, ấn vào tay anh một nhiệm vụ nào đấy, ngạc nhiên và hậm hực khi Khánh từ chối khéo, viện cơ sắp trở về miền Nam để đánh giặc giữ quê.
Người ồn ào nhất là anh bạn cùng với Khánh mua súng qua trung úy Ta-kê-đa, nay là đồng chí Thạch Sơn trong Ban chỉ huy tự vệ Hà Nội. Anh ta nhất quyết bắt Khánh giúp một tay xây dựng “đoàn quân sao vuông” của thủ đô:
- Tớ biết, cậu đang định học tiếp, trường Luật nghỉ thì sang ngành khác. Cơ mà lúc này xâm lăng nội phản rối mù, cậu phải xếp bút nghiên lên đường tránh đấu cái đã. Trước kia cậu tham gia cách mạng theo kiểu hướng đạo sinh làm việc thiện, kiểu học sinh giúp dân khi cắm trại hè. Bây giờ phải liều mình dấn thân trăm phần trăm, toàn tâm toàn ý, hiểu chưa? Đừng có lừng khừng nước đôi nữa, hiểu chưa? Mới đấy mà cậu với tớ đã thuộc lớp cựu trào rồi, anh em trẻ họ hăng mà non ghê đi!
Hà Nội lúc ấy có vô số lớp học ngắn ngày, ngành nào cũng mở, học ngày hay học đêm đều sẵn, chỉ ra một điều kiện là học viên tự lo khoản ăn ở. Cách mạng nghèo quá, lắm cán bộ làm việc ngày mười hai tiếng cũng chỉ dựa vào cơm nhà áo vợ. Nể lời Thạch Sơn, Khánh ghi tên dự một lớp đào tạo cấp tốc cán bộ thông tin tuyên truyền trong ba tuần, học thất thường mà vẫn được cấp giấy tốt nghiệp. Khi xếp công tác, anh lại lựa lời từ chối khéo. Thạch Sơn nói đúng, Khánh chỉ muốn dính vào cách mạng như trước đây đi sinh hoạt. Hướng đạo chiều chủ nhật, đi dạy Truyền bá quốc ngữ mỗi tuần vài đêm, hay như hiện nay đi nghe nói chuyện chính trị ở các câu lạc bộ. Anh chưa muốn hiến thân cho một lý tưởng nào, vì lẽ đơn giản là chưa tin ở lý tưởng nào cho thật sâu đậm.
Khánh định tìm việc làm tạm để kiếm cơm, nhưng Hà Nội quá nhiều người thất nghiệp mà anh lại chẳng thạo nghề gì. Xoay xở mai anh mới được bạn chia phần mỗi tuần hai tối dạy tiếng Anh cho mấy chục nhân viên bán hàng tư chỉ học những câu chào mời và tính tiền, mỗi tối được trả bốn đồng. Anh bạn cho ở nhờ làm gương soi được lãi kha khá nhưng trong nhà đã đầy những họ hàng chạy đói ra phụ việc lấy miếng chín, không lương.
Thư trong Nam dạo này ra nhanh và ít bị mất hơn trước. Khánh mới đến Hà Nội mươi hôm đã được thư Mỹ Duyên báo tin sẽ thu xếp vào Sài Gòn thăm mẹ và em, bây giờ ngớt bom đạn đi dễ thôi. Từ ấy trở đi vắng luôn tin Duyên. Nàng bị tắc đường ở lại trong ấy, hay đã về Đà Nẵng nhưng lên cơn hờn dỗi?
Me và thằng em Rô-be Chương gửi thư đều, nhưng không có tiền để gửi. Phủ Đỉnh, đúng như Duyên đoán, đã bán chiếc ô-tô và con ngựa Tía, vào ẩn thân trên gác cửa hiệu Lợi Thịnh, ăn mâm riêng rất sang nhưng chi tiền “rất sòng phẳng theo giá cả ba năm trước”, tiền chợ riêng lão chiếm một nửa các khoản tiêu cho cả nhà. Mỗi lần các con phàn nàn, me lại khóc, Chương lại vác đàn đi ở nhà bạn mỗi nơi vài ngày.
Khánh biết mình không thể về Qui Nhơn nhìn mặt lão bố dượng ranh ma và bà mẹ yếu đuối nữa. Anh viết thư kính cẩn báo cho mẹ con bà Cả ở Linh Lâm rằng đã tìm ra tông tích của cha, nhưng biết họ sẽ không mắc lừa và bỏ thêm xu nào. Chỉ còn Mỹ Duyên. Cô Xi-mo-nét ấy nối liền với Khánh bằng sợi cao-su khi căng khi chùng, chưa hề đứt. Nhưng thư của anh gửi cho cô Sen nhờ chuyển không hề được hồi âm...
Những người bạn tốt bụng không lôi kéo được Khánh và quá bận, vắng bóng dần. Người kiên nhẫn nhất là Thạch Sơn bỗng dưng biến mất, giữa lúc Khánh rất cần gặp. Trong một cơn buồn chán, Khánh xộc thẳng đến hỏi chỉ huy trưởng tự vệ Thành mới biết Thạch Sơn được điều đi Công an xung phong trong vùng Quốc dân đảng chiếm dọc đường sắt từ Vĩnh Yên lên Lao Cai, anh không gặp được nữa.
Một lá thư từ Quảng Nam gửi ra khiến Khánh bồi hồi xúc động. Đồng chí Phan Chanh, phó chủ tịch tỉnh rồi đấy, vẫn tưởng Khánh ra làm cách mạng ở Trung ương, nhờ Khánh tìm hộ cho một số thợ nguội giỏi nghề để lập các binh công xưởng trong tỉnh, cho vào càng sớm càng hay. Anh định gửi trả Khánh súng ngắn, đồng hồ, bút máy, nhưng sợ lạc nên đang giữ tạm. Anh thợ xe lửa ấy tốt bụng và thật thà đến nỗi Khánh không dám làm anh thất vọng, chỉ viết thư hứa chung chung sẽ cố gắng. Ôn lại những ngày sôi nổi ở Linh Lâm, tất cả những kỷ niệm của Khánh được đúc lại chung quanh con người tầm thước có đôi mày nét mác trên mắt xếch và cái cằm nẻ đôi. Chỉ học trong tù thôi mà Cả Chanh viết chữ khá đẹp, rất đúng chính tả, không lẫn lộn cả dấu hỏi ngã, n và ng, c và t ở cuối chữ, ấy là điều hiếm thấy ở người miền Nam. Khi buộc phải dùng tiếng Pháp, anh cũng viết rất đúng những từ chuyên môn. Đọc xong lá thư lần thứ hai, Khánh nghĩ rằng nếu có một ai gần gũi mà anh có thể phục cả tư cách lẫn trí thông minh, đó chỉ có thể là anh cán bộ Việt Minh đau dạ dày kinh niên kia.
Bạn bè của Khánh ở phía đối địch không chối cãi rằng Cộng sản có một đội ngũ đảng viên vững mạnh, được dân tin yêu, đáng làm gương cho các đảng phái quốc gia noi theo. Nhưng không phải vì thế mà chủ nghĩa cộng sản là chân lý!
Một hôm lang thang trên đường Cổ Ngư, Khánh gập một người béo lùn, khá to bụng, đeo kính râm và đội mũ phớt úp tận mắt, ngồi trên ghế xi-măng quay sang phía trường Bưởi và khu thủy phi cơ của Pháp trước kia trên hồ Tây. Anh ngờ ngợ một lát mới nhận ra anh Tô Trọng Huân, thư ký tòa Khâm ở Huế, đoàn trưởng đoàn Hướng đạo sinh Ngô Tòng Châu, năm 1942 bỗng dưng biến mất và sau đó bị Pháp truy nã vì tội “hội kín”. Mừng quá, Khánh đến ngồi sát bên cạnh:
- Anh Huân, quên em rồi à? Huynh trưởng nhận ra đoàn sinh Ung Viết Khánh chưa?
Người kia giật mình, thọc nhanh tay vào túi áo bờ-lu-dông, rồi khẽ bật cười rút tay ra, dựng ba ngón kín đáo chào kiểu Hướng đạo:
- Quên ai chớ không quên Khánh đâu. Học giỏi, bơi giỏi, diễn kịch giỏi, nổi tiếng Khải Định mà. Giờ em học ở đâu, làm gì?
Anh Huân hỏi rất nhiều mà chỉ nói về mình vài câu vắn tắt. Anh ngẫm nghĩ lâu trước khi dặn Khánh chiều mai đến thăm anh tại nhà một cụ Bá trong khu Ngũ Xã, phía đông hồ Trúc Bạch. Khánh trố mắt:
- Nghe nói khu ấy lập chính quyền Việt quốc, tuyên bố tự trị phải không anh?
- Khắc đến, khắc biết. Ai hỏi, em nói là anh Trọng Béo bảo đến.
Hôm sau Khánh mượn xe đạp lên Ngũ Xã đúng hẹn. Qua khỏi cây cầu gỗ đi vào cái làng đảo lắm thợ đúc đồng này, Khánh chợt nghe tiếng lên đạn róc róc và tiếng quát hung dữ:
- Đứng lại! Giơ tay lên! Quay đằng sau!
Anh thả xe đạp ngã vào bờ rào, làm theo lệnh. Ai đó đứng sau lưng anh vuốt nắn từ đầu đến chân tìm vũ khí. Mặc xác mày. Thế nhưng khi chiếc ví trong túi quần sau bị moi ra, Khánh bắt đầu tức:
- Trong ví có bao nhiên tiền, tôi đếm rồi đấy.
- Câm ngay, ông cho một phát bây giờ! Quay lại! Giấy giới thiệu đâu?
- Không có. Anh Trọng béo bảo đến nhà cụ Bá.
Khánh cố ý kiểm lại ví để chọc tức hai người gác, một cầm súng thất cửu và một đeo gươm Nhật, đều mặc sơ-mi và nói giọng du côn như nhau.
Cụ Bá chỉ là mật hiệu của trụ sở Việt quốc, đặt ngay trong đình làng. Cờ sao trắng trên nền xanh treo giữa, bên dưới có ảnh ông Nguyễn Thái Học trong khung bài vị, với một súng trường và một thanh gươm dài dựng chéo như giá đỡ. Hai bên chính điện treo hai băng vải đỏ dán chữ giấy trắng: “Tự do dâu chủ, công bằng xã hội”, và “Đả đảo Việt Minh độc tài cộng sản”.
Khánh khóa xe xong, bước vào đầu nhà bái đường, đứng nhìn quanh bằng cặp mắt ngờ vực và cáu kỉnh, sẵn sàng cự bọn này một mẻ và ra về. Trong đình kê năm cái bàn nhưng chỉ hai bàn có người, một đánh máy cò mổ và một cặp đang đếm tiền, không ai ngửng lên. Một người gác nữa ngồi trên ghế bành kê ngoài hiên đang ngoẹo đầu ngủ say, cây trường Nhật cắm lưỡi lê hình gươm dựng vào khung cửa.
- Khánh đấy à? Sang bên này!
Anh Huân đứng ngoài sân sau lưng Khánh vừa gọi. Khánh ngạc nhiên thêm một lần nữa: Anh Huân mặc một bộ đồ đồng phục giống hệt thằng Sĩ Ca tức Si-ca-gô mà Khánh trông thấy hôm mới đến Hà Nội, ông cụ hàng nước gọi đấy là lính Việt Quốc. Hoàn toàn không phải như hôm qua anh đóng vai thám tử vẽ trên bìa sách.
- Chắc là đang cáu với lũ trẻ vọng gác phải không? Công an Việt Minh xộc vào bắt người nhiều lần, chúng nó khiếp, soát người đến ngấy tận cổ. Đi với mình!
Khánh theo anh Huân lách qua năm sáu lớp hàng rào vườn, đến một ngôi nhà ngói cổ. Nhà đóng kín cửa trước, họ vào đằng cửa ngang khép hờ. Mươi người ngồi chung quanh hai cái bàn kê nối nhau đang nói chuyện rì rầm, có già và trẻ, có âu phục sang và áo the khăn xếp, có hai cậu sơ-mi soóc như mấy nhóc gác ngoài kia. Cửa sổ mở rộng nhìn ra hồ Trúc Bạch nước xanh màu gỉ đồng và tanh mùi đồng.
Anh Huân kéo ghế mời Khánh ngồi, lại quay trở ra. Khánh nhìn quanh, thấy toàn những bộ mặt lạ, không muốn chào ai và cũng chẳng ai bắt chuyện với anh. Trên bàn đặt mấy chai rượu cô-nhắc Mác-ten, mới nhìn đã thấy ngay là hàng giả bởi cái nhãn bắt chước in quá vụng, mấy đĩa lạc rang húng lìu, hai bộ ấm chén. Khánh tự rót uống liền hai chén nước trong khi chờ đợi. Cái gì sẽ diễn ra trong khung cảnh chán ngấy này? Dưới nhà ngang vẳng lên những tiếng thì thào, và mũi Khánh chợt bắt mùi khói thuốc phiện hôi và beo béo.
Anh Huân đưa vào một vị khách nữa, mặc sơ-mi trắng bỏ ngoài quần, mặt đỏ bừng, nói to khi bước qua ngưỡng cửa: “Chào các đồng nghiệp yêu dấu!”. Vài người khẽ gật đầu chào lại, dáng hờ hững. Ai là đồng nghiệp của ai?
Từ nhà ngang bước lên ba người mặc âu, vừa đi vừa vuốt lại áo vet-tông hay nắn sửa ca-vat, rõ ra mới rời bàn đèn. Họ đến ngồi xuống các ghế chừa trống ở một đầu bàn, anh Huân cũng ghé đến bên người ngồi ở chỗ chủ tọa:
- Báo cáo anh, các vị mời đã đủ, xin anh khai mạc.
Anh Huân ngoảnh nhìn cử tọa, nói dõng dạc:
- Kính thưa quý vị nhân sĩ trí thức! Thành đảng bộ Hà Nội của Việt Nam Quốc dân đảng vô cùng cảm kích trước thịnh tình của quý vị đã hưởng ứng lời mời, quá bước đến cho chúng tôi được hầu tiếp vài chén rượu nhạt. Trước tiên, xin trân trọng giới thiệu văn sĩ Khái Hưng, nhà đại văn hào đã từng làm say mê hàng triệu độc giả nước ta, thay mặt tòa soạn báo Việt Nam thưa chuyện cùng quý vị.
Người ngồi đầu bàn đứng dậy, dặng hắng, bắt đầu nói khàn khàn. Khánh biết Khái Hưng chỉ qua cuốn “Hồn bướm mơ tiên” đọc vội, nhưng đã nghe nhiều bạn học trầm trồ khen văn sĩ này. Anh ta có hàm răng hơi vẩu, mái tóc chừa dài phủ nửa tai, thỉnh thoảng đưa tay lên vuốt. Khánh chú ý nhất đến cặp môi loang lổ đậm nhạt của người nghiện thuốc phiện. Cái núm cổ nhọn chạy lên xuống dọc cái cổ gầy cũng của người nghiện trong khi anh ta nói.
-... Chúng tôi xin lỗi, không dám giới thiệu quý tính phương danh cùng trọng trách của quý vị, bởi vì chưa biết quý vị sẽ chọn bút danh nào khi cộng tác với báo chúng tôi, tờ báo duy nhất dám nói lên sự thật trần trụi dưới chế độ độc tài cộng sản. Chúng tôi cũng xin quý vị miễn chấp đã đón tiếp quý vị ở nơi thôn dã thuộc ngoại ô Hà Nội, sau khi vài vị tỏ ý dè dặt chưa muốn đến trụ sở báo Việt Nam ở số nhà 80 Quan Thánh, giáp phố Bua-ranh, nơi xưa kia các anh Nhất Linh, Hoàng Đạo đã cùng tôi hiến tất cả tinh hoa của đất nước trước khi thực dân Pháp ra tay khủng bố! Âu cũng là một dịp để quý vị chứng kiến tinh thần quật khởi của dân chúng đã biến khu Ngũ Xã này thành pháo đài bất khả xâm phạm của tự do dân chủ, bất chấp mọi sự hăm dọa phía Việt Minh cộng sản...
Thì ra đây là cuộc chiêu đãi của tòa soạn báo Việt Nam để mời cộng tác viên. Trong khi Khái Hưng đang nói, hai chú khách trú cởi trần phơi bụng phệ lễ mễ khiêng vào một cái mâm gỗ to bằng mặt bàn chữ nhật, có chân và bốn càng như băng-ca khiêng người ốm, xếp đầy những liễn, âu, đĩa, bát, chai, cốc. Một a múi mặc áo Thượng Hải không tay và xẻ dọc đùi giúp bày các món rất sang, được chở bằng thuyền từ hiệu cao lâu bên kia hồ tới đây, Khánh nhìn qua cửa sổ thấy họ cập bờ, khiêng mâm lên với vẻ rất quen thạo.
Anh chàng đến cuối cùng đã say ngất ngưởng. Anh ta đứng vọt dậy, lắc lư cái đầu đỏ tận gáy, ngắt lời diễn giả:
- Thưa hiền huynh...hiền huynh trô xong thả cửa, đàn em đây đang chịu cực hình của Tăng-ta-lơ với bàn cỗ bày dưới mũi thế này. Xin cho đệ tóm tắt: các huynh cứ ra đề, chúng đệ chấp bút, chửi ai khen ai xin chiều lòng trăm phần trăm, cúi mong các lãnh tụ chi tiền Đông Dương kha khá vào, đừng giúi cho một nắm quan kim. Ai ý kiến ý cò gì xin để chốc nữa, không cái ăn nguội cả!
Khái Hưng sầm mặt cười gượng, vẫn giơ hai tay ra hiệu mời chung trong khi mọi người che miệng cười.
Quan khách cầm đũa lúc ba giờ chiều, một thời điểm trái khoáy, cũng trái khoáy như nơi mời đến và cách đón tiếp. Thế nhưng không ai làm khách, tất cả đều chén thật lực, và Khánh cũng chả buồn giữ ý gì với mấy tay đũa hăng hái bên cạnh. Cô a múi đi vòng rót rượu Mai quế lộ qua vai khách. Hai chú khách phơi bụng và rốn bên trên cái thắt lưng da đeo ví tiền và bao kính tiếp thêm các món gà luộc, vịt khô Triều Châu, lợn quay sơn đỏ, nói bô bô rằng món cá chép chưng mộc nhĩ ăn nóng và món hải sâm chỉ có mỗi người một suất thôi.
Một giờ sau, mọi người đều say nghiêng ngửa, Khánh nhấp một hớp gọi là, lắng tai nghe khẩu khí của quý vị nhân sĩ trí thức, tinh hoa của đất nước.
- Mẹ bố nó chứ, ông viết mửa mật ra, nó ký tên đồng tác giả mà đòi chia năm mươi năm mươi, ông gí vào!
- Đểu nhất vẫn là thằng xuất bản Hiện Đại. Nó khai in năm nghìn với I.P.P. hồi Tây, nó thì cho tớ nhuận bút một nghìn, bốn nghìn bán giấy chợ đen. Tớ dọa kiện, nó chịu vất cho tớ hai trăm nữa, dè xẻn mới hút đủ một tuần lễ.
- Ăn đong, tao chủ trương ăn đong thôi. Tao sẽ ký hai bút danh, một thằng chửi một thằng bênh, tao cãi vã với tao!
- Mình dặn lũ đàn em rồi đấy: động vào ai chứ đừng chạm vào Cụ Hồ, gái hàng hoa hay trẻ đánh giầy cũng xúm vào nện cho vỡ cái chỗ đội mũ.
- Khái Hưng nó ranh tổ mẹ, sắp viết thuê cho Việt quốc, nó còn đi xin phép Việt Minh. Xem đấy, nó về Nam Định chơi thoải mái, Ty tuyên truyền đưa nó đi trô đi hốc, còn cho xe đưa về Quan Thánh.
Người ngồi bên Khánh đã lột ca-vát nhét vào túi vét-tông, lột vét-tông vắt trên lưng tràng kỷ, phà hơi thở hôi nồng vào mặt Khánh:
- Toa viết cho ai? Làm như moa đi, viết cho cả hai bên, báo Cứu Quốc có bài của moa đấy nhá. Nhưng toa nhớ đụng dính vào cái khoản bắt cóc, tống tiền, ám sát, cũng đừng viết kêu gọi đình công, bãi thị, biểu tình cướp chính quyền. Sau này Việt Minh xách cổ ra tòa còn đường mà chối!
Chắc hẳn Khánh còn đủ kiên nhẫn để nghe thêm một lát nữa nếu anh Tô Trọng Huân không cầm cốc rượu ghé ngồi trên chiếc ghế trống bên cạnh. Khánh trông thấy anh thì thào vào tai mấy vị có vẻ tai to mặt lớn, sững sờ khi nhận ra dáng bộ xun xoe của anh thư ký tòa Khâm hiện quá rõ. Anh dấn thân đi làm hội kín là hi sinh vì nước kia mà, một người dám liều mạng sao còn giữ cái vẻ nịnh bợ kỳ quặc thế kia. Nhân lúc anh ngà ngà, Khánh hỏi:
- Hồi năm bốn mươi hai, anh Huân đi đâu mất?
Anh cười xòa, uống một hơi cạn nửa ly, gật gà:
- Anh đi học lớp tiếng Nhật. Tây nó dọa ghê quá, anh nhảy luôn vào trại Nhật, anh Chu Bá Phượng đưa vào Đại Việt. Bây giờ Vũ Hồng Khanh đang đắc thế nhờ quân Tàu kéo vào, nhưng anh Nhất Linh đang lèo lái. Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào em ạ. Cụ Nguyễn Hải Thần đang kéo anh, không mất lạng nào anh cũng lên tỉnh trưởng như chơi, đợi mà xem, chẳng chịu làm thằng cạo giấy như xưa đâu. Khánh chịu khó phò tá anh nhé, vài năm là lên tỉnh phó ngon ơ.
Anh túm vai Khánh, thấp giọng lè nhè:
- Tin mới toanh. Cụ Hồ phải chịu lập chính phủ liên hiệp rồi, cụ Nguyễn làm phó chủ tịch nước. Phó chủ tịch tỉnh bổ ghế tỉnh trưởng khó quái gì. Lão Đinh Bưởi bỏ ra mấy mươi lạng được cụ phong sẵn làm bộ trưởng Tài chính rồi, chắc còn phải nộp thêm. Ông Lạc Long hiến cái nhà chỗ 21 Hàng Bún Trên, cụ Nguyễn định cho cái cố vấn chính phủ, lão già rồi chả làm bộ trưởng được đâu. Hôm nào anh dẫn Khánh đến chào cụ Nguyễn ở 23 Quan Thánh, xem cụ nắm được gì thêm không...
Anh quay sang một ông lớn tuổi vừa gọi, vâng dạ hối hả, bỏ đi thu xếp bàn tĩnh và thuốc phiện chính hiệu anh điêng cho quý vị làng bẹp. Khánh kín đáo bước ra ngoài, nhìn kỹ những chỗ lách hàng rào, quay trở về đình lấy xe đạp. Trước thềm đình không còn người gác mà chỉ có một nhóm trẻ con đang rút bất ăn tiền. Gần chiếc cầu gỗ, một cặp trai gái ngồi tán gẫu trên bờ cỏ. Cái pháo đài bất khả xâm phạm của Việt quốc là thế này sao?
Từ đó Khánh, không quay trở về Ngũ Xã lần nào nữa.
Nhưng anh Huân không buông tha cậu đoàn sinh cũ. Anh ta tìm đến chỗ Khánh ngủ nhờ ở phố Hàng Lọng, kéo đi dự những buổi gặp mặt, tiếp đón, diễn giảng của phe chống đối, tuy biết Khánh đã dự lớp nửa tháng với Việt Minh Hà Nội. Hình như anh cố làm cho Khánh nhúng tay vào chàm để Việt Minh không dám tin dùng hay sao ấy.
Cậu bạn trường Luật cùng với vợ lạnh mặt hẳn đi với Khánh sau mấy lần anh Huân đi chung xe với lính chữ Sát đến đón Khánh. Rồi một tối vợ chồng đem con đi chơi, để ông bố vợ nói thẳng với Khánh là nhà ông chỉ biết làm ăn lương thiện chứ không dính dáng với Tây Tàu, xin mời Khánh nghỉ nơi khác tiện hơn.
Anh Huân đến tìm Khánh sáng hôm sau, ngạc nhiên khi Khánh xách va-li ra xe, nhờ chở luôn đến ga Hàng Cỏ để về Đà Nẵng. Anh hỏi dồn dập, Khánh chỉ nói bận việc nhà phải về gấp. Mặc kệ, xe cứ đưa Khánh về 80 Quan Thánh để các “anh trên” căn dặn thêm cái đã. Anh làm như Khánh đã cắt máu ăn thề vào Việt quốc và nhận làm đồ đệ của anh không bằng!
Ngôi nhà hai tầng mang số 80 ấy nằm ngay trên ngã tư, xây thụt vào trong, có khoảnh sân hình thước thợ bao mé ngoài. Tường hoa che phên, liếp kín mít. Chòi gác ngoài cổng xếp bao cát gần kín chung quanh, lính gác đeo súng máy Xi-ten và mặc quân phục giống như cậu Si-ca-gô dạo trước. Anh Huân rút đưa một tờ giấy to viết nửa chữ Hán nửa chữ quốc ngữ, đóng tới nắm cái ấn vuông đỏ.
Người được gọi là liên lạc chạy ra xem giấy, mở hé cổng sắt cho hai người vào trong khi xe chở ba tên lính Tàu chạy thẳng.
Bên trong tường hoa cũng chất đầy bao cát, chắn đạn cho một nhà dài cột gỗ mái tôn dựng cho đơn vị gác, chứa cả dãy mô-tô cùng hai chiếc ô-tô sơn màu đất sét. Chung quanh chân tường nhà chính xếp bao cát tới ngang đầu người, các cửa sổ và cửa ra vào đều có bình phong cát. Nhà tối om, thắp điện cả ban ngày. Tất cả những người mặc quân phục Việt quốc quân hay áo quần thường đi lại đều có vẻ mặt mệt mỏi, lo lắng, đầy nghi ngờ, không ai có nụ cười hay cử chỉ thân mật với ai.
Một người đeo kính trắng xem giấy kỹ hơn, trả lời dấm dẳng. Hỏi tên ai cũng bảo đi vắng. Muốn trình anh cả thì đợi đấy, nhưng phải tháo súng giao cho liên lạc, Khánh hỏi lại mới biết anh cả là lãnh tụ Nguyễn Tường Tam đang khai hội bên trường Đỗ Hữu Vị, lát nữa ghé qua đây.
Khánh tò mò nhìn quanh tầng dưới, thấy bày ba cái máy in, một máy xén, có bốn người thợ xếp chữ đang xếp uể oải bên các cửa sổ, hai bàn cho người chữa bản đồ nhưng bỏ vắng. Một bộ xa-lông tiếp khách đặt ở góc, có ấm trà thơm và gói thuốc lá Phi-líp Mo-rít màu tím bóc để sẵn. Ở đây không ai ăn đói mặc rách, nhà cửa xe cộ áo quần đều có thừa, chắc là tiền tiêu được trả hậu hĩ, mà ai cũng lừ đừ như lên cơn nghiện hút.
Có tiếng còi ô-tô ở cổng hậu, phía đường Bua-ranh. Giày da gõ lộp cộp trên cầu thang mé sau. Anh Huân hối hả chạy ra đấy. Chừng nửa giờ anh mới trở lại, hãnh diện đưa tờ giấy có mấy dòng viết tay nguệch ngoạc:
- Anh Cả tự tay chỉ thị cho đảng bộ Quảng Nam đây. Trong ấy anh Cả uy tín ghê ghớm. Để anh đóng ấn tín...
Nghĩa là Khánh chưa đáng gặp mặt cái ông lãnh tụ không rõ ai bầu kia, ông ta đi thẳng lên gác. Anh thư ký tòa Khâm lăng xăng gọi cậu kính trắng đang ngủ trong buồng ra cộp vào thư hai con dấu vuông đỏ khắc toàn chữ Hán, đi thu xếp một cuốc xe đưa Khánh đến ga. Khánh buồn cười: anh sẽ trở về quê với giấy giới thiệu của Việt Minh Hoàng Diệu và của bí thư trưởng Việt Quốc bỏ chung trong túi. Mặc kệ ông Trọng Béo đấy nhé. Khánh chỉ cảm thấy mỗi lúc một thêm ngạt thở trong khu nhà bịt bùng này, nó trái ngược một cách đáng tởm với cảnh sống ồn ào, hồ hởi, rối rít ở trụ sở Ban chỉ huy tự vệ thành Hà Nội, nơi người ta cười to, nói vội, đi như chạy, nhảy cầu thang ba bậc một, chia nhau những bát cơm gạo hẩm chan tiếng đùa quấy nhiều hơn canh rau muống loãng, từng giờ phút cố làm thêm một tí xíu gì đấy cho đất nước mình.
Mình là ai?
Câu hỏi ấy quá mênh mông. Hẵng tách nó ra từng vế nhỏ. Các câu trả lời tỉ mẩn ghép lại sẽ cho lời giải cuối cùng. Nào, ta bắt đầu từ chỗ bắt đầu.
Vì sao mình ra đời? Chúa tạo nên, định mệnh xui khiến, một linh hồn chưa thoát luân hồi phải đầu thai kiếp khác? Một sự chắp ghép của những nguyên tử hay tế bào mà khoa học chưa tìm ra quy luật nhưng hứa sẽ tìm ra? Buồn cười thật, mình lại rơi vào câu hỏi quả trứng có trước hay con gà có trước... Tắc tị ngay từ khởi điểm rồi, Khánh ơi!
Ngủ. Cương quyết ngủ. Một, hai, ba, bốn... không nhảy lung tung nhé... năm sáu bảy tám chín... gà đâu trong thành phố mà gáy sớm thế.. mười, mười một, mười hai... Tây chúa là kiêng con số mười ba, người mình cứ phớt bơ... mười bốn mười lăm... tao giết mày bằng được, con rệp quái quỷ, này, này...
Khánh đập bốn năm lần liền trên mặt chiếu, chỗ con rệp có thể chạy xuống sau khi đốt. Gà lại gáy, một con trống nào đó giọng chưa vỡ hẳn còn te te như còi nhựa trẻ con thổi. Khung cửa sổ chợt thong thả sáng hồng lên trong hừng đông nhất, mươi giây sau từ từ tối lại, như ông trời mở mắt ngái ngủ khi nghe gà gọi, lại nhắm mắt nằm lơ mơ thêm dăm phút nữa, khoảnh khắc thú vị nhất bởi cảm thấy chẳng ai có quyền dựng mình dậy, mình chỉ thức giấc khi muốn thức đấy thôi.
Mọi nhà trong hẻm nhỏ lần lượt bật đèn. Cái xóm buôn gánh bán bưng này bao giờ cũng sáng đèn trước hết chỗ bếp, nhen vội lên ngọn lửa than đá hoặc trấu vùi âm ỉ qua đêm, làm sôi gấp lên một nồi gì đấy mở đầu cho ngày kiếm ăn trên các hè phố, trong khi Khánh quen nằm ườn ra ngủ đến bảy tám giờ sáng, đợi Mỹ Duyên giả vờ đi chợ đến đánh thức tận buồng.
Gió bấc lùa mạnh qua cửa sổ xốc màn căng tròn như buồm. Khánh hất chăn, chỉ mặc cái áo may-ô in chữ ESEPIC trên ngực, đến ngồi bên cửa sổ mở toang cho gió lạnh châm kim vào mặt và thân, hai tay nắm hai chấn song run nhẹ từng lúc. Khánh đang thèm tự hành hạ mình, tự chà đạp chửi rủa, tự trừng phạt thật khắc nghiệt. Đã bỏ hai bữa cơm trưa và tối qua, thức trắng một đêm, bây giờ nếm mùi lạnh, chỉ tiếc cái lạnh Đà Nẵng chả thấm vào đâu... Khánh úp trán trên bắp tay, cười gằn: mình tạo ra bão táp trong một cốc nước, mình hèn nhát, mình là con sâu con sứa, mình tồi tệ nhất trong những đứa tồi tệ. Hãy dám xưng tội thử một lần xem nào...
Từ khi ra đời mình chỉ chuyên ăn bám đàn bà. Hồi nhỏ ăn bám mẹ cho tới khi ra Huế học hết trường Khải Định. Làm bộ cao thượng, người hùng ghét đàn bà, vẫn ăn bám Mỹ Duyên. Chuyến vừa rồi ra Hà Nội lại cố moi tiền của mẹ con bà cả, hai nghìn đồng mất giá nhưng vẫn là của đàn bà bố thí. Đúng, là mình chưa từng phè phỡn theo lũ con nhà quan, nhưng mình cũng chưa hề đổ mồ hôi sôi nước mắt làm ra xu nhỏ nào. Hãy xem con bé lên mười vừa ngáp vừa lê bước qua đây, mỗi nách tay nó ôm chồng ba chiếc ghế con, theo mẹ nó ra đầu hẻm bán khoai luộc với canh hến cho dân nghèo ăn sớm đi làm... Mình loay hoay với những câu hỏi triết lý từ thời Pla-tông với A-rít-xtốt, trong khi anh phu xe kéo hạ càng xe đái vào chân tường kia sắp ra ga hay bến ô-tô tìm khách, còn bác khuân vác vắt cái bao tải trên vai và bập bập điếu thuốc rê tổ bố đang tất tưởi xuống bến tàu đón những chuyến ghe bầu chở gạo từ Qui Nhơn ra. Mình vô dụng, vô dụng, vô dụng...
Cả Chanh nói theo cộng sản là theo luôn. Anh em du kích Linh Lâm gặp Việt Minh lập tức cầm giáo mác ná tên tuôn vào rừng. Cậu Thạch Sơn lao theo lý tưởng mới như phát đạn rời nòng. Cô Năm Bưởi giành cho được cây súng kỵ binh Nhật khi ấm ức trở về làng chỉ huy du kích. Và Mỹ Duyên nữa, cô gái nhảy mà Khánh đã nâng niu như một thức đồ chơi đắt tiền được pha tẩm thêm chất men say của trả thù và vụng trộm đối với lão bố dượng, Duyên yêu điên cuồng mà cũng dám cắt ngang quyết liệt khi trở về Sài Gòn và biến mất tăm luôn trong khói lửa...Chỉ còn trơ lại cái thằng Hai Khánh lừng khừng lơ láo này thôi, đóng vai trí giả chưa vội dấn thân, chỉ muốn đứng trên cuộc đời thấp kém, nay một mình trơ ra như người khách chậm chân khi chuyến phà rời bờ và không thèm quay lại. Đón chi một kẻ ăn xin ở bến đò!
Khi khóa cửa buồng ra đi, Khánh ngạc nhiên thấy mình lảo đảo, hai chân bước, khó nhọc. Vì đói, rét, mất ngủ? Vì một phần nghìn phần vạn trong những khổ cực của bộ đội Nam tiến? Hay vì chưa tìm được chỗ đứng trong xã hội ngày nay cho nên chỉ muốn ngồi và nằm, hỡi cái thằng tồi tệ kia?
Khánh đi thẳng xuống con đường ven sông Hàn trước dựng biển là đường A-mi-ran Cuốc-bê, nay đổi thành đường Bạch Đằng. Càng đến gần sông gió càng quất mạnh như búng vô vàn gai xương rồng vào da. Càng hay, khỏi phải quất roi trên thân như kẻ tu kín sám hối... Rồi Khánh bỗng giật mình, bước chậm, dừng lại: Lỡ mình ốm thì sao? Đầu và tim đang bệnh hoạn nếu cái xác phàm này gục xuống nốt thì biết vất nó vào đâu? Vào nhà thương làm phúc hay xuống sông Hàn? Tỉnh lại đi Khánh, mày đang tự hủy hoại đấy!
Bước gần như chạy, Khánh xộc vào một quán nhỏ bán xôi cháo nằm lọt trong chỗ đầu hẻm khuất gió, len đến ngồi cạnh bếp lò than đá, đón hơi nóng phả vào khuôn mặt tê dại và đôi cánh tay nổi da gà run rẩy. Chị bán quán trố mắt nhìn anh, kêu:
- Chu cha, gió bấc cóng xương mà thầy mặc áo lót!
Anh chồng nhìn kỹ những chữ in trên ngực áo dệt ngắn tay của Khánh, giảng cho vợ bằng giọng kính nể:
- Ổng là lực sĩ đó, sức vóc chẳng phải như mình đâu, có ông lựa ngày sóng to gió lớn mới nhảy xuống bơi qua lại cửa Hàn cả chục lần. Ê-dê-pich là trường dạy lực sĩ đâu trong Phan Thiết, ông nào ra cũng thành vô địch hết... Dạ, thầy mời thứ gì?
Khánh gọi cháo cá. Những thìa cháo nóng bỏng vừa thổi vừa húp trôi qua cổ tỏa ấm trong ngực và trong bụng, ngon đến đau cả những sợi gân hai bên quai hàm. Bát thứ hai ăn xong, Khánh vẫn còn thòm thèm. Đã lâu lắm Khánh chưa được ăn món cháo cá nào ngon đến thế, chắc là phải đắt tiền, mà tiền chẳng còn bao lăm. Anh gọi bát nữa và hỏi giá luôn. Chị bán quán nói như xin lỗi khách:
- Dạ, thứ gì cũng mắc quá thầy ơi, phải bán tới năm cắc. Ai muốn ăn hai ba cắc cũng múc. Thầy mới đi tập về, hay để thầy mời đĩa xôi thịt hèo một đồng cho chắc bụng.
Xôi đậu xanh ăn với thịt kho cũng ngon và rẻ như thế. Ly nước chè xanh cuối bữa thơm và chát rất vừa miệng. Tất cả chỉ tốn hai đồng, giá tiền của một tô phở xoàng. Khánh chợt thấy đắng trong họng khi nhớ lại cái lần vung tiền mua bi mang đến tiệm hút ở ngõ Phất Lộc, thết tay ủy viên Trung ương Quốc dân đảng để nghe lão kể ba hoa chuyện trên trời dưới biển bên bàn đèn.
Anh chủ quán bưng hai tay hai cốc đen đậm đến trước mặt Khánh, ngồi đối mặt, niềm nở:
- Cái này riêng tôi mời thầy. Trà đường đó, ở tiệm người ta quảng cáo là trà tàu với đường tây, thiệt ra là của xứ mình hết. Thầy khuấy cho tan... Chắc thầy ở bộ đội chớ?
Khánh cười cười, gật đầu. Quái lạ, sao ai cũng đánh giá mình cao hơn tốt hơn con người thực của mình thế nhỉ?
- Biết mà, coi tướng thầy tôi biết là chỉ huy trong bộ đội liền hà. Nhờ thầy nhắm giùm như tôi xin đi cầm súng đánh Tây, mấy ổng có nhận không?
Chị vợ đang đơm xôi cho khách, ném tới một câu dấm dẳn:
- Cả bầy con rồi, ai thèm nhận anh mà cà rà hỏi hoài!
- Thầy đừng nghe mụ tôi. Bữa đó chắc gặp anh chỉ huy khó tánh, ảnh cảm ơn biểu tôi về tăng gia nuôi bộ đội hay hơn. Có điều tôi tính đánh thắng thằng Tây cái đã, sau về lo lúa khoai cũng được. Chẳng dấu gì thầy, vợ chồng tôi ở nhà quê bị bè lũ thực dân phong kiến nó gian ác quá tay phải bỏ đi làm muối, làm chài, lưu lạc tới cái ngõ phu phen thợ thuyền này, chưa được một chút gì gọi là vì dân vì nước hết trơn. Vậy tôi mới trù tính đi đánh giặc ít năm, có xả thân nơi sa tràng thì con cháu cũng thơm lây, mụ tôi ở nhà đắp đổi nuôi bốn đứa nhỏ rau cháo xong thôi, cực mấy cũng hơn cái hồi còn Tây ngồi trên đầu mình. Thầy có quen mấy ông lựa lính, à quên, mấy ông tuyển quân đó thì nói giùm tôi một tiếng...
Đang nghe những lời khẩn khoản, Khánh bỗng mở to mắt nhìn phía cửa. Một cặp trai gái vừa bước vào quán, tần ngần nhìn quanh, rẽ vào chỗ góc vắng nhất. Anh chủ quán bước tới, nói qua lại với cô gái, trong khi Khánh trân trân ngắm anh con trai.
Anh này cao trung bình, mắt một mí và gò má gồ, da trắng, râu lún phún bọc nửa mặt dưới theo kiểu lười cạo chứ không cố ý chừa, dựa nghiêng vào cột tre, châm một điếu thuốc MIC và lim dim mắt nhả khói. Anh mặc bộ quân phục ka-ki vàng của lính Bảo an, đặt trên bàn cái mũ cối đính quân hiệu tròn nền đỏ sao vàng của bộ đội chủ lực, dận giày da dơ-cu-lơ mốt trai trẻ thành phố, thấp giọng thì thào những câu ngắn với cô cùng đi. Cô này mặc sơ-mi trứng sáo với áo len không tay màu boóc-đô phủ ngoài, quần lụa đen, có khuôn mặt tròn và môi bậu, dáng phúc hậu kiểu con nhà lành. Có thể gặp khắp nơi những cặp vợ chồng trẻ hay người yêu thăm nhau, tiễn đưa nhau như thế. Nhưng cặp này quả là đặc biệt: viên trung úy Nhật Ta-kê-đa cùng với cô thông ngôn Bích Thủy vì sao hiện ra trên phố Đà Nẵng?
Đợi anh chủ quán đặt xong hai đĩa xôi với hai phin cà-phê trước mặt khách và đi xuống bếp, Khánh bước tới cạnh bàn, cười khẽ:
- Kon-ni-chi-oa, mi-na-xan! Ô-nghen-ki đex ka?[1]
Annh con trai giật nẩy người, lắp bắp:
- Ghen-ki đex, a-ri-nga-tô...Ô ô ô ô, Khanh, Khanh-xan![2]
Anh chụp lấy bắp tay Khánh vừa ghé ngồi xuống tuôn một tràng dài tiếng Nhật. Khánh giơ hai tay lên nửa chừng làm bộ chịu thua:
- Oa-ta-si oa Nip-pông-ngô ô oa-ka-ri ma-xen. Ây-ngô ô ha-na-si-ma-sô![3]
Bích Thủy che miệng cười rúc rích trong khi họ chuyển sang tiếng Anh. Cô mừng đến sáng cả mắt và má, thỉnh thoảng chen vào một câu tiếng Việt với Khánh và tiếng Nhật với Ta-kê-đa.
Một nhóm thợ mộc trên đường đi làm ghé vào. Khánh nói vội:
- Mời các bạn ăn xong về nhà trọ của tôi, nói chuyện tiện hơn.
Nửa giờ sau, Khánh gài cửa buồng trọ, pha trà mời các bạn Hà Nội đã chia tay trước ngày tổng khởi nghĩa. Bích Thủy nhắc đến lần thứ mấy không nhớ:
- Phúc đức quá mất, lại vớ được anh Khánh ở đây. Bắt đền anh đấy nhá, tự dưng anh đùn việc mua súng cho Thủy, anh trốn biệt. Chúng em vào Nam cứ như chim chích vào rừng, đang lo phải trở ra Hà Nội, ngượng với bạn bè đến chết mất...
Câu chuyện tay ba bằng ba thứ tiếng lại tiếp tục, lần này Bích Thủy kể nhiều hơn.
Sau khi Khánh về Đà Nẵng, Ta-kê-đa vẫn làm trung gian để Việt Minh Hà Nội mua súng của Nhật. Mua được nhiều nhất và rẻ nhất là sau khi Nhật đầu hàng không điều kiện và quân Tàu chưa sang đến nơi, riêng Ta-kê-đa chuyển được tới năm trăm súng các loại. Tàu sang, anh vẫn làm tiếp, đường ô-tô bị kiểm soát thì chở bằng thuyền. Chẳng biết có thằng phản động nào báo tin mà bọn Tàu cho hàng trăm quân chặn trên sông Hồng, cả phục trên bờ lẫn dùng thuyền chở lính. Ta-kê-đa cùng một tiểu đội tự vệ đánh trả một trận rất dữ, ba thuyền súng đạn đều bị bắn chìm, anh bị bắt khi đang cố bơi vào bờ. Quân Tàu thu hết giấy tờ, nện một trận chí tử, giam trong điếm canh đê. Nửa đêm anh giỡ mái trốn thoát, nhằm hướng chạy về Hà Nội, nói ấp úng khi dân quân bắt: “Tôi Việt Minh... Cho tôi Việt Minh”.
Bị giải qua nhiều chặng nhiều cấp, rốt cuộc Việt Minh Hà Nội đón được anh về, đem giấu trên Sơn Tây. Thế nhưng bọn Lư Hán cay cú vì lính chết nhiều, đem giấy tờ của Ta-kê-đa ra bắt bọn tướng Nhật đền mạng. Tên đại tướng Txư-si-ha-si, tư lệnh Nhật toàn Đông Dương, phải tuyên án tử hình trung úy quân y Ta-kê-đa A-na-mi. Các đơn vị quân Tưởng nhận được ảnh phóng to và lệnh bắt hoặc giết Ta-kê-đa, lũ phản động người Việt muốn kiếm thưởng cũng rình mò khắp nơi.
Lánh né mãi đâm chán. Ta-kê-đa xin vào Nam làm công tác kêu gọi binh lính Nhật theo chính phủ Cụ Hồ. Bích Thủy xin cùng đi. Cả hai cùng nhập ngũ một lần, theo một đoàn quân Nam tiến, nhưng ấm ớ thế nào lại trúng chuyến tàu chỉ vào đến Đà Nẵng, nghĩa là chưa ra khỏi vùng đóng quân của bọn Tưởng. Họ nhờ Khánh kiếm tàu xe cho đi tiếp, ít nhất cũng vượt vĩ tuyến 16 vài chục cây số về phía Nam cái đã, sau đó sẽ tính.
Khánh cười xòa:
- Việc ấy quá dễ. Tôi sẽ đưa hai bạn đến thị xã Hội An, nhờ các anh em trong chính quyền thu xếp.
Bích Thủy vỗ tay reo như trẻ con, đôi mắt cô lại không nhìn Khánh mà đăm đắm vào mắt Ta-kê-đa. Rõ ràng cô vào chiến trường không phải trăm phần trăm vì nhiệm vụ.
Một giờ nữa qua. Chiếc xe ngựa do Khánh thuê bao đưa cả ba chạy bon bon trên quốc lộ Một vào Hội An, băng qua trạm gác Tàu phù cuối cùng mà không bị hỏi giấy, ở đây chúng nó nhũn nhùn nhùn sau khi mấy tên hăng cướp phá nhất lần lượt biến đi không để dấu vết.
Ta-ka-đa bóp mạnh bàn tay Khánh:
- Đối với anh, con đường đời hiện ra thẳng tắp hẳn anh khó hiểu được tâm trạng của những người Nhật như tôi. Người ta túm cổ tôi lôi ra khỏi phòng thí nghiệm, vất tôi vào chiến tranh, buộc tôi chết vì một ông Thiên hoàng vớ vẩn nào đó. Ở nhà bom đạn giết mẹ và hai em tôi, người tôi yêu bỏ đi lấy một lão già giàu tấy lên nhờ chiến tranh, người Nhật càng chết nhiều lão ta càng phát tài to. Và để thưởng cho bấy nhiêu hi sinh, người ta tặng tôi một án tử hình vắng mặt... Quân Tàu lùng bắt tôi, có nghĩa là tôi bị Đồng minh đang làm chủ thế giới này cố giết. Tôi không còn một chỗ đứng nào nữa trên trái đất, anh thấy chưa? Chỉ còn một nơi để sống, đó là vùng đất của chính phủ Hồ Chí Minh, đó là hàng ngũ Việt Minh. Tồi không hiểu gì về chính trị, về dân tộc Việt Nam, nhưng tôi biết chắc một điều là tôi sẽ sống nếu Cụ Hồ thắng, tôi sẽ chết nếu Cụ Hồ bại... Anh đừng tưởng tôi quá sợ chết. Tôi sẵn sàng chết khi đi kêu gọi lính Nhật buông súng, cái chết ấy sẽ làm cho dòng máu Nhật và Việt bớt chảy. Nhưng tôi sẽ không sao nhắm mắt nếu bọn châu chấu, bọn đỉa đói, bọn giun sán tự xưng là Đồng minh chiến thắng kia đem tôi ra treo cổ và cười ầm ỹ với nhau...Chắc anh thấy khó hiểu phải không?
- Tôi hoàn toàn hiểu anh, Ta-kê-đa!
Bích Thủy ngồi soi gương chải tóc, đến đây bỗng chen vào bằng tiếng Việt, đọc rời từng tiếng thật rõ:
- Anh Ta-kê-đa phải nói tiếng Việt, không được nói tiếng Anh nữa. Anh là bộ đội Việt Nam, phải học tiếng Việt. Hiểu không?
- Tôi xin lỗi bà...
- Sai rồi!
- Tôi xin lỗi cô Thủy. Tôi sẽ cố gắng nói với ông...
- Sao lại ông?
- Gô-men, gô-men[4]. Em Thủy thân mến, tôi sẽ..
Thủy bưng mặt cười ngặt nghẹo trong khi anh bạn Nhật nhíu mày nhăn trán, cố nhớ từ ngữ và những dấu uốn éo không hề có trong tiếng Nhật..
Xe dừng trước tòa sứ Hội An lúc mười một giờ. Khánh rủ đi ăn trưa vì đã thấy đói, bữa sáng no kềnh chưa đủ bù hai bữa nhịn hôm qua. Nhưng Bích Thủy rất lo bơ vơ, quyết gặp cho được cấp lãnh đạo của Quảng Nam càng sớm càng hay. Ba người chìa giấy cho bác thường trực ghi sổ, xin gặp đồng chí Phan Chanh phó chủ tịch tỉnh.
Họ ngồi đợi chỉ năm phút trong phòng khách thì Cả Chanh đã hấp tấp bước ra.
- Đâu, Khánh đâu? Ôi chao, chút xíu nữa mình hụt. Gói sẵn các thứ gởi ra cho cậu đây nè!
Anh giúi vào tay Khánh một gói khá nặng. Không kịp tháo ra xem, Khánh giới thiệu luôn hai bạn đồng hành. Chanh mở to mắt, há miệng:
- Các đồng chí... thiệt là trên trời rớt xuống!
- Sao thế anh?
- Mới có điện khẩn, biểu tụi tôi kiếm những người biết tiếng Nhựt, tiếng Pháp, tiếng Anh, gởi gấp vô mặt trận Nha Trang làm công tác địch vận. Địch có ba thứ quân nói ba thứ tiếng đó dồn cục ở Nha Trang đông vô số kể. Tụi lê dương còn thêm số lính Đức nữa, có rồi, một tay hàng binh chạy qua mình là người Đức biết tiếng Anh, đang ở Hội An đây. Cậu về đúng lúc quá Khánh ơi! Để lo cơm nước cái đã, chiều nay ta bàn công tác. Hà Nội vô tới đây, ai cũng kêu buồn ngủ hết!
Chanh tất tưởi chạy đi xếp chỗ ăn nghỉ. Khánh mở cái gói anh vừa trao, chợt thấy mắt mình cay xè: cây súng ngắn, đồng hồ, bút máy, gói đạn rời, những thứ Khánh cho mượn đi giành chính quyền được trả đủ, kèm theo một lá thứ cảm ơn và giục kiếm hộ thợ giỏi cho ngành quân giới Quảng Nam, “cần nhứt là thợ đúc với thợ tiện”. Con người tốt bụng kia nào biết Khánh đã lang thang chao đảo đến những nơi nào đâu, anh không thể hiểu được cho đến sáng nay Khánh còn vật vã ở Đà Nẵng như đứa mất hồn, anh tin ở Khánh đến cái độ không ai nỡ phụ lòng anh, anh cứ buộc Khánh phải lây đôi chút lòng yêu nước yêu dân của anh, sao mà thương quá chừng anh Chanh ơi!
Bữa cơm trưa được dọn ngay cạnh bếp và khá độc đáo. Bên cạnh những cái liễn và đĩa bằng sứ Xe-vơ-rơ in hoa chạy nét vàng lóng lánh của quan sứ Tây, đựng cơm gạo đỏ và rau muống luộc, có thêm những cái chén đất đĩa tre xấu xí mới sắm sau cách mạng. Sau khi họ cầm đũa, bác thường trực hối hả đem đến một gói lá chuối đựng chả lụa, thịt quay, tim gan luộc vừa mua ngoài phố. Chanh đóng vai chủ nhà niềm nở mời, nhưng anh ăn rất ít.
Chiều ấy, cuộc họp cán bộ địch vận có thêm cậu Lin-đoóc-phe hàng binh người Đức. Mọi người đều thấy Hai Khánh làm tổ trưởng tổ địch vận đi Nha Trang là khỏi cần bàn, chỉ bàn sôi nổi xem nên in truyền đơn ở đâu, kiếm loa điện hay dùng loa sắt tây, cần bao nhiêu vải để làm những băng cờ thật to căng trên phòng tuyến ta. Khánh và Bích Thủy thay nhau dịch cho đồng chí phó chủ tịch, và Chanh cũng bàn góp rất hăng.
Đêm ấy, khi ngả lưng trên tấm ván kê chân niễng trong nhà khách của ủy ban nhân dân, Khánh sực nhớ tới lá thư đóng hai con ấn chữ Tàu của lãnh tụ Nguyễn Tường Tam. Anh vén màn bước xuống, mượn bật lửa của Ta-kê-đa, châm đốt mảnh giấy mà lắm kẻ thèm có để làm bùa hộ mệnh một khi quân Tàu lật đổ chính phủ Cụ Hồ. Một thế kỷ đã trôi qua giữa Khánh sáng nay và Khánh tối nay. Anh ngủ thiếp đi như đứa trẻ được mẹ xoa rôm đều tay trên lưng.
Chú thích:
[1] Tiếng Nhật: Chào quý ông bà! Mạnh giỏi không?
[2] Tiếng Nhật: Mạnh giỏi, cám ơn... Ồ, Khánh, ông Khánh!
[3] Tiếng Nhật: Tôi không hiểu tiếng Nhật. Chúng ta hãy nói tiếng Anh!
[4] Tiếng Nhật: xin lỗi, xin lỗi.