- 24 -
Sau một trận cãi nhau khá găng giữa anh Bảy Quý trong thường vụ xứ ủy và anh Tô Xáng phó bí thư tỉnh ủy. Cả Chanh được phép vào lại Quảng Nam thêm hai tháng để góp sức xây dựng ngành quân giới và thành lập đại đội Nam tiến thứ hai của tỉnh, sau đó mới chuyển sang ngành đường sắt. Cãi nhau chán chê rồi anh Quý kéo Xáng và Chanh đi đánh một chầu mì Quảng không hạn chế để làm lành, tiếp đó anh Xáng lại kéo một nhóm anh em bạn tù cũ xuống chiếc đò của vợ con mình, ăn cháo cá trên sông Cửa Đại dưới trăng cho đầu óc đỡ căng.
Chanh, không tiếc hai tháng ở lại ấy. Anh chạy khắp nơi kiếm thợ, bòn vét tất cả các thứ máy có thể sản xuất ra võ khí, lập được ba binh công xưởng trên vùng núi, trong đó có xưởng Cao Thắng II đặt ngay trong làng Linh Lâm, chọn được mươi cán bộ đáng tin cậy để nắm các xưởng và Ban quân giới của tỉnh. Anh thúc giục ủy ban tỉnh mua vải xi-ta tốt và đặt may quân phục cả ngắn lẫn dài gửi gấp cho đại đội Nam tiến thứ nhất, cho người chở vào giao tận tay quyền đại đội trưởng Lê Dĩnh, thay Năm Chò đã bị cách chức và bỏ về Qui Nhơn ở với nhân tình. Trời chẳng phụ lòng người hay sao ấy, anh vớ được một kho đạn và lựu đạn bị bỏ quên, do Pháp chuyển lên một đồn binh vùng núi để chống Nhật, chất đống trong nhà ở của tên trung úy, cán bộ xã không biết là những hòm gì nên không báo cáo. Anh run lên khi đọc những chữ in đen trên những thùng đạn ĐAM, lựu đạn tấn công và phòng thủ, lựu đạn phóng, đạn súng cối 60 và 81. Vất tuột đi mươi cuộc hẹn gặp và hội họp, anh cùng hai cán bộ đem mọi thứ ra thử, tất cả còn tốt nguyên!
Nhờ đó, Chanh lên đường đi mặt trận Nha Trang cùng đại đội Nam tiến Hai với cái vốn rất đáng mừng: ngoài số súng đạn quần áo cấp đủ cho đại đội Hai, còn ba trăm bộ quân phục và bốn chục thùng đạn các cỡ mang cho đại đội Một đã sấp ngửa lên đường khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn, thiếu thốn đủ thứ, chịu cực như tất cả những người khai sơn phá thạch, lại còn phải chịu thêm lời chê trách của lớp người đi sau.
Dù nghĩ rất nhiều đến cô Thùy con ông Hai Rề trong những giờ ngửa người lim dim trên ghế xe lửa, Chanh vẫn cố gạt phút gặp gỡ riêng tư ấy đến ngày trở về. Trước hết phải đưa mọi thứ đến mặt trận cái đã, sau đó mới tự cho phép nghỉ xả hơi, thăm anh em thợ đề-pô xe lửa Qui Nhơn, thăm cô gái đã nuôi mình và ám ảnh mình bấy nhiêu lâu.
Một lần nữa anh gặp rủi và may cùng một lần.
Đoàn xe lửa đến ga Diêu Trì phải đổi đầu máy. Chiếc đầu máy thay thế vừa sửa xong tại Qui Nhơn lại trục trặc, phải đợi ít nhất sáu tiếng mới lên đường được. Cậu Bảy Tộ lái chiếc đầu máy nhỏ Cu-cu chạy con thoi từ Qui Nhơn lên Diêu Trì để lôi mấy toa hàng xuống cảng, nghe nói có anh Cả Chanh đi chuyến này, tất tưỏi chạy tìm và hét rầm rĩ:
- Anh Cả không xuống thăm đề-pô Qui Nhơn là anh em oán tới chết. Đi lập tức, đừng oong đơ gì hết, theo đầu máy mới trở lên chạy tiếp, không lỡ tàu đâu mà lo. Đang thừa một toa xe-phanh phải kéo xuống Qui Nhơn, anh muốn chất ai lên tùy ý!
Bộ đội đã tản vào các nhà chung quanh ga xin củi mượn nồi nấu cơm. Cả Chanh rủ tổ địch vận theo mình, đoán chắc Hai Khánh muốn về thăm mẹ và các em ở tiệm Lợi Thịnh, nếu kéo theo bộ ba Ta-kê-đa, Lin-đoóc-phe và Bích Thủy cũng chẳng phiền gì một bữa cơm trưa. Riêng anh cần tìm Năm Chò và gặp thoáng qua cha con ông Hai Rề mấy phút gọi là trông thấy nhau. Anh ngạc nhiên thấy Khánh ngần ngừ hơi lâu trước khi gọi tổ địch vận lên chiếc toa con móc cuối đoàn tàu ngắn của Bảy Tộ.
Riêng Chanh không lên đấy mà đứng chen bên Bảy Tộ trên đầu máy. Tộ không đợi hỏi, vừa cho đầu máy lui tới tháo toa móc toa theo hiệu còi, vừa kể huyên thiên những chuyện xảy ra từ khi Chanh rời Qui Nhơn, chòm râu mép rậm và ngắn của cậu nhảy nhót uốn éo trông rất hề, ngay cả khi kể những chuyện ít vui.
Đội tự vệ ngành Hỏa xa ra đời hai tháng trước tổng khởi nghĩa, thu góp lần hồi được tới ba chục súng và năm chục lựu đạn, đi giành chính quyền rất hăng. Sau đó bị lủng củng vì bỗng dưng Việt Minh hiện thành hai phe, phe này chửi phe kia là Việt Minh giả, cứ như là Tôn Ngộ Không với Bạch cốt tinh...
- Ông Hai Rề chẳng biết ai giả ai thiệt, biểu anh em cử đại biểu đi tìm cho được Cả Chanh vi-dít-tơ về, ảnh là cộng sản chánh hiệu con nai vàng, ảnh đứng phe nào mình theo phe nấy. Anh em hỏa xa đồng ý cái rốp, dân thợ không theo cộng sản thì còn biết theo ai! Tới khi hỏi ông Hai tìm anh Cả ở đâu thì ổng bí luôn. Em chọc ổng: hay là tìm trong buồng cô Thùy nhà bác? Ôi chao, ổng chửi em vuốt mặt không kịp!
Cả Chanh cười đến đau ruột trong khi Bảy Tộ cứ tỉnh khô, kéo còi hơi và mở ma-nét ga cho tàu chạy qua ghi, rẽ xuống Qui Nhơn.
- Mấy ông cán bộ cấp trên về xử, sau bộ đội kéo tới tước võ khí của nhóm thằng Tài. Thằng ranh ghê, mới nghe Việt Minh nổi dậy ở Quảng Ngãi, lấy hết tỉnh huyện rồi, vậy là cha nội kéo một mớ lăng nhăng đi kêu gọi đồng bào khởi nghĩa. Hồi đó bà con mình sùng sục quá, hễ ai phất cờ đỏ tự xưng là Việt Minh là rút dao phay rựa bờ chạy theo lập tức... Êm vụ đó rồi, tới vụ khác. Mấy ông tỉnh đến thăm hỏa xa, về đưa ra mấy cái giấy trái ngược nhau: ông quân sự lệnh cho hơn một trăm tự vệ hỏa xa nhập ngũ hết, ông hành chánh thì biểu anh em phải bám xe bám máy chớ không được đi đâu, tiếp tới ông quân giới quyết định chuyển một nửa số thợ nguội ở đềpô qua sản xuất võ khí cho chiến trường Nam Bộ. Kỳ cục một điều là nghe đọc cái giấy nào anh em cũng hoan hô, tại vì thấy việc gì cũng hay cũng cần. Sau ông Hiển chủ tịch tỉnh tới họp anh em lại, ổng giải thích hay mà giải quyết cũng hay. Nước mình ít công nhân quá, phải dùng cho đúng nghề, không được xài ẩu. Anh em là vốn quý thành thử ngành nào cũng muốn giành phần. Bây giờ việc thứ nhất là lo bảo đảm xe chạy đủ chuyến đúng giờ, tăng được càng hay, đưa bộ đội với đồ tiếp tế vô Nam, chở đồng bào tản cư ra. Thứ nhì là lấy thêm thợ mới vô, lập một xưởng võ khí ngay bên đềpô, chế súng đúc đạn anh em rán làm thêm giờ, sửa máy móc cũ mà dùng cho hết. Thứ ba là ai thiệt mạnh, đang làm các việc phụ thì lựa mươi người cho đi học lớp quân chính rồi đi chiến đấu... Ông Hiển xử sự vậy, đúng không anh Cả?
- Đúng quá đi chớ!
- Cũng chưa êm. Tới khi lựa người đi bộ đội, ổng nhận được hơn một trăm đơn, ai cũng khai đang làm việc phụ hết! Em cũng xin đi mà chưa được. Anh Cả có quen, nói giùm, một tiếng...
Cận lái xe lửa lúc này bỗng biến thành một anh nông dân thời cũ và với giọng nói van nài kèm bàn tay gãi gãi mang tai, cái đầu hơi cúi. Chanh đấm vào sườn Tộ:
- Mày tính bỏ cái Cucu này cho ai?
- Dạ trời sinh voi trời sinh cỏ chứ anh..
- Dân thợ máy mà nói như bà già trầu! Xin một thằng trẻ, lanh lợi, tinh thần cao, cho nó đi theo mày, đêm chịu khó dạy lý thuyết thiệt kỹ, nó lái được thì mày bàn giao!
Bảy Tộ thần mặt ra, đổi tay qua gãi gáy, nói rầu rĩ:
- Xong chừng nấy việc thì Tây chạy về nước hết rồi, em giao đầu máy để đi cuốc đất chớ ai cần bộ đội nữa...
- Mày không nghe Cụ Hồ kêu gọi trường kỳ kháng chiến à? Cụ tính phải đánh lâu, Cụ mới dạy tụi mình vậy chớ.
Bảy Tộ qua ga Tuy Phước chỉ tút còi và chạy chậm chứ không dừng, bởi không kéo toa chở khách. Cậu ta chuyển sang chuyện Năm Phi Đao lúc này đang ở Qui Nhơn cùng với Sáu Cam.
- Em tới chơi hai lần. Nó kể chuyện đánh Tây hay lắm, tối nào chòm xóm cũng qua nghe chật nhà, họ tưởng nó bị thương bị bệnh được về nghỉ nhà vợ là con Tư rượu lậu, tưởng thằng Cam là em nó thiệt. Ban ngày nó đi đánh cá, đi cất rớ, phần nhậu phần bán, kiếm khá tiền anh ơi. Nể em quen cũ nó mới nói thiệt là bị hạ tầng nhứt cấp xuống trung đội trưởng, trả trở về Quảng Nam, nó vừa tức vừa xấu hổ với bạn bè, bỏ hết về làm dân thôi. Ba đứa nó ăn ở với nhau cũng vui vẻ. Thằng Cam đi học tư một ngày hai buổi, có bàn riêng đèn riêng học bài ban đêm, sắm áo quần mới đàng hoàng. Em chê thằng Năm vô kỷ luật, nó nhăn răng cười, nhận hết, mà coi bộ chẳng muốn sửa đâu.
Mỗi khi nghĩ đến Cam, Cả Chanh lại buồn nhức nhối. Là con trưởng nam, anh được cha lo cho học chữ học nghề nhiều hơn, với hi vọng là đứa trước rước đứa sau, con béo kéo con gầy. Nhưng anh không giúp được gì cho em út cả. Anh nhận mà không trả, đúng hơn là chỉ trả cho Tổ quốc mà gần như bỏ mặc các em. Anh cố tìm thằng Cam đưa về quê, thu xếp cho ăn học, rốt cuộc nó bỏ đi với nỗi đau tủi của đứa trẻ gánh nước thuê không đủ trả tiền cơm trọ. Người duy nhất đã và đang đùm bọc nó là một anh cai khố đỏ chứ không phải người cha làm chủ tịch Linh Lâm hay ông anh làm phó chủ tịch tỉnh. Nó đã từng nghĩ rằng cha nó đem con bán cho lão phủ Đỉnh lấy tiền uống rượu, nó đang nghĩ về anh Cả nó chễm chện trong tòa sứ tỉnh Quảng Nam? Chao ôi, nó có hiểu cho anh rằng sau bấy nhiêu năm tra tấn tù đầy, đau dạ dày nôn ra máu, vẫn chỉ được hưởng mỗi ngày hai bữa cơm hẩm với rau luộc chấm nước muối?
Đưa thằng em trở về Quảng Nam, nó sẽ càng vất vưởng bởi Chanh đã chuyển sang ngành đường sắt, lang thang từ tỉnh này qua tỉnh khác với ba lô trên vai, quyền khá to đấy nhưng gặp cơn đói chỉ dám nhảy xuống ga, tìm chỗ vắng mua mấy củ khoai ăn tạm khi chưa có nơi dừng lại nấu cơm. Chanh đã đọc cả xấp đơn kiện hay mật báo về ngành đường sắt bán vé chợ đen, buôn lậu, ăn cắp máy móc dụng cụ bán cho các chủ xưởng tư, đủ cho anh sợ hãi và lẩn tránh mỗi khi được mời một bữa cơm sang hơn mức sinh hoạt phí mà anh trả rất sòng phẳng. Thà chết đói chứ không dây mình vào đồng tiền ma quỉ kia, để về sau há miệng mắc quai!
Thế nhưng thằng em lưu lạc ấy, anh làm sao biết được nó sẽ nhiễm những gì khi sống với cậu Năm Chò bất mãn cùng ả nhân tình buôn rượu lậu mà anh chưa hề gặp? Anh không sao quên được đôi mắt nó nhìn anh đầy đau khổ và hoài nghi khi mới gặp lại ở Qui Nhơn, nỗi mừng siết lòng của nó khi anh hứa cho đi học. Anh em cách nhau mười hai tuổi, nó coi anh gần như cha chú, nó vâng lời anh như theo một đồng chí lãnh đạo. Anh sẽ làm gì cho nó? Làm gì?
... Đến ga Qui Nhơn, Chanh chia tay với tổ địch vận, hẹn giờ gặp lại, xốc cái ba lô dính bụi than đi vào khu sửa chữa mà anh nhớ rõ từng mảng tường, lối rẽ, Bảy Tộ giao đầu máy xong, tất tưỏi chạy theo, giới thiệu những khuôn mặt lạ mà họ gặp dọc đường. Hầu hết là thợ mới, Chanh nhớ tên không xuể.
Tổ gác cửa vào đề pô, hai cậu tự vệ trẻ, nhất định không cho Chanh vào tuy Bảy Tộ giới thiệu anh là thợ cũ về thăm xưởng. “Thăm viếng ở nhà chớ không được vô chỗ làm việc. Các anh coi nội quy đây nè!”. Bảy Tộ bắt đầu sừng sộ trong khi Chanh rất vui thích. Công việc ở đây đã thật sự vào nề nếp. Anh phải chìa ra tờ giấy giới thiệu của Trung Bộ. Trong khi cậu gác vẫn cầm ngang cây súng anh-đo lắp lên chặn cửa, cậu đốc gác đọc to: “Đồng chí Phan Chanh, thanh tra ngành Hỏa xa toàn Trung Bộ, chỉ huy trưởng tuyến hỏa xa từ Đà Nẵng đến Phan Thiết. Nhân dạng: cao một mét sáu mươi, mắt hơi xếch, cằm nẻ đôi..”. Cậu ta nhìn Chanh từ đầu đến chân một lần nữa. Anh bộ đội mặc áo quần xi-ta xám và mang cái ba lô da trâu sống này giống người tả trong giấy, nhưng không có súng lục, gạc đờ co[1] hay xe ngựa gì hết, lại dính đầy than trên áo quần và dép cao-su đúc, có vẻ thợ đốt lò hơn là thanh tra. Cậu lễ phép mời Chanh đợi một lát, tất tưởi vào trong xưởng, trong khi Bảy Tộ mở to mắt nhìn Chanh.:
- Chà chà, anh Cả lên cấp cao vậy mà giấu em. Nãy giờ cứ tưởng anh là thợ đi lính, rủ anh về chơi Qui Nhơn thôi chớ!
- Thì tao theo mày về chơi vài tiếng đây nè. Tại cậu kia bắt trình giấy, tao sợ bị bắt mới đưa... Chết cha, hình như anh em tốp máy ngừng việc hay sao đó, nghe thử Bảy.
Tiếng búa gõ, máy rèn rẹt, hàn hơi xìn xịt thưa dần đi trong xưởng, thay vào là tiếng gọi nhau ý ới. Anh em thợ kéo ra từng tốp, vừa đi vừa lau tay. Chanh bị ngập rất nhanh trong đám người lọ lem, mặc áo quần xanh vá chằng vá đụp, cười nói oang oang bởi quen át tiếng máy:
- Tưởng mày chết nơi góc xó nào rồi, Chanh!
- Anh được đi bộ đội rồi hả anh Cả?
- Đừng bỏ nghề xe lửa nghe chú em. Cầm súng tí lâu rồi về cầm búa...
- Được thằng vi dít tơ kha khá, lại đi tù mất tiêu tới bây giờ...
Cả Chanh luống cuống trả lời những câu hú họa, cười nhiều, cố bắt cho hết những bàn tay nhem nhuốc chìa ra. Anh em còn nhớ mình, thương mình như thương nhớ người bạn thợ đi tù cộng sản năm xưa. Anh đưa tay áo quệt mắt rất nhanh, vừa lúc ông phó ga cũ người Việt đi tới, vẫn đội cái mũ cát két có phù hiệu CFI của sở hỏa xa Đông Dương ngày xưa, vẫn ưỡn cái bụng phệ vượt mặt chừng nửa tấc. Ông cầm tờ giấy giới thiệu của Chanh trên tay, vẫy vẫy gạt anh em tránh ra, nói dõng dạc:
- Hôm nay toàn thể công nhân viên chức chúng ta vô cùng hân hạnh được đón chào đồng chí Phan Chanh về thanh tra khu vực Qui Nhơn...
Ông đọc giấy giới thiệu của Chanh giữa những tiếng ồ và ngạc nhiên, rồi lật mũ cầm ngửa với điệu bộ trịnh trọng nhất:
- Đáng lẽ chúng tôi phải tiếp rước vị chỉ huy trưởng chu đáo hơn, nhưng mà anh em công nhân hâm mộ đồng chí từ lâu đã tự động ra nghênh tiếp. Xin mời đồng chí quá bộ vô thăm chỗ giai cấp công nhân đang lao động quên mình về nền độc lập của nước nhà...
Chanh nghe giọng nói quá dẻo ấy bỗng thấy gờm sợ. Lại thêm cả xưởng tốp máy kéo ra đón nữa, hại việc nhiều quá. Phải tìm lối thoát ngay. Chộp ngay một ý thoáng qua, anh nói với ông phó ga:
- Đề nghị bác cho tôi nói chuyện với anh em vài phút.
- Dạ, để anh em thay quần áo, rửa ráy sạch sẽ. Mời đồng chí vô phòng khách. Cũng tại bác Hai Rề nghe tin đồng chí tới, hào hứng chạy đi báo cả xưởng, chúng tôi không kịp tổ chức cuộc nghênh tiếp...
Chanh chán quá, đi thẳng vào trong xưởng, vành tay lên miệng kêu to:
- Mời anh em tới chỗ phờ lát phoọc số hai cho rộng rãi, tôi xin gặp một chút rồi phải đi gấp.
Bảy Tộ đã kể rằng các cuộc mít-tinh công nhân trong xưởng đều làm chỗ bãi bằng số hai. Chanh đi thẳng tới đó, thấy đặt sẵn một bục gỗ cao lắp lan can sắt, có thanh gỗ leo lên. Anh không thoát khỏi ông phó ga theo bén gót. Thợ từ các nhà bên vẫn tuôn qua các cửa vào nhà chính của đề pô, Chanh nhác thấy một nhóm chị em tóc dài mà trước kia ngành xe lửa không có. Chỉ sau năm phút, chỗ bãi bằng trong lòng xưởng sửa chữa đã ngập người, vẫn ông phó ga nhanh miệng hơn mở đầu mít-tinh bằng lối nói kiểu cách:
- Anh chị em công nhân thân ái! Hôm nay lực lượng công nhân trung kiên của nhà ga Qui Nhơn được vinh dự...
Trong khi ông ta đếm ra các chức vụ của Chanh, anh nhìn lướt rất nhanh những bộ mặt ngước lên chăm chú, thấy ông Hai Rề đứng chỗ góc nhà với các đầu ngửa ngửa theo thói quen từ xưa. Anh Quý xứ ủy nói ông được bầu làm trưởng ban lãnh đạo đề pô xe lửa ở đây kia mà, sao ông phó ga to bụng cứ một mình dẫn quả bóng khắp nơi? Và ông định làm mất thì giờ chung suốt buổi hay sao? Chanh nhẩm sẵn mấy câu mở đầu, rình chộp một chớp nhoáng sơ hở nào của ông để ngắt lời, nói ngắn, chuồn gấp.
Nghe xong một loạt lời ca tụng, công nhân vỗ tay rào rào. Thời cơ đã đến! Chanh giả vờ coi mình như được nhận bóng, khoát hai tay mời im lặng và nói luôn:
- Xin thành thật cảm ơn ông trưởng ga (anh đã kịp hỏi một người không quen đứng cạnh mình trên bục về ông phó cũ) và tất cả các đồng chí lãnh đạo ngành hỏa xa tỉnh Bình Định. Xin cảm ơn toàn thể anh chị em công nhân. Thiệt tình là tôi có được giao trách nhiệm thanh tra và chỉ huy trong khu vực. Nhưng tôi đi chuyến đầu tiên này để làm quen với công việc mới những người mới, coi thử tình hình chung ra sao. Mấy tiếng nữa tôi phải theo đoàn tàu Nam tiến vô Nha Trang đánh giặc. Tôi nhớ ga mình, anh chị em mình ở Qui Nhơn, chạy xẹt xuống đây thăm một chút cho đỡ nhớ (các khuôn mặt ngửng lên đều cười hỉ hả). Tôi quen các bác, các anh chị lâu năm ở ga mình, còn anh chị em mới thì chưa biết, thôi, trước lạ sau quen. Đi một tua vô trong kia, tới khi quay trở ra tôi xin hẹn ở lại lâu hơn, ta mặc sức tâm sự với nhau chuyện cũ chuyện mới. Tôi chỉ xin nhắc bà con mình chút xíu này thôi: Tổ quốc đang cần rất nhiều đoàn tàu tốt, súng đạn tốt. Tụi mình làm rán thêm một phút, đổ thêm một giọt mồ hôi, chiến trường trong kia bớt đổ một dòng máu tươi, đờn bà con nít sống thêm một mạng. Các đồng chí thấy đúng vậy không?
Đám đông kêu lên lộn xộn:
- Đúng rồi!
- Phải quá đi chớ!
- Hay! hay!
- Vì vậy, tôi rất ấy náy từ nãy tới giờ đã làm các đồng chí mất nhiều phút trong giờ làm việc. Xin đề nghị vầy nè: thằng thợ cũ về thăm bạn bè, mỗi người làm giúp cho nó mươi phút nữa để nó ra đi khỏi băn khoăn trong bụng. Đồng ý chưa?
Mấy trăm con người cùng kêu to “đồng ý”, bật cười ồn ào. Chanh biết mình được lòng anh chị em, họ đã coi anh như người cùng hội cùng thuyền.
Anh bắt chước cử chỉ của anh Quý, nắm hai bàn tay vào nhau đưa lên lắc mạnh, ra hiệu bắt tay chung tất cả, xong bước nhanh xuống khỏi khán đài.
Ông trưởng ga không kịp diễn thuyết nhiều hơn bởi công nhân đã ùn ùn kéo về chỗ làm việc của mình, cười nói râm ran, khác hẳn những cuộc mít tinh cực kỳ trang trọng kéo dài ba bốn tiếng trước đây. Ông túm lấy mấy cậu ở văn phòng, dặn sửa soạn bữa tiệc mời đồng chí thanh tra thật đàng hoàng, lái xe đổ thêm cồn để đưa đồng chí đi bất cứ đâu. Một viên thư ký hổn hển chạy tới:
- Báo cáo, ông Chanh đi rồi... ổng biểu thằng Bảy Tộ đèo xe đạp ra phố...
- Ổng đi đâu? Sao không mời lại?
- Dạ, ổng nói đi thăm xưởng cũ chớ chưa thanh tra. Đúng hai giờ ổng trở lại, theo đầu máy mới sửa lên Diêu Trì.
Ông trưởng ga đổi lệnh mới cho văn phòng đừng dọn tiệc mà gói thật nhiều thức ăn khô để biếu ông Chanh mang theo dọc đường, lái xe sẵn sàng đưa ông ấy lên Diêu Trì, không để ông ấy đứng hít bụi than cùng với thợ đốt lò. Ông trở về văn phòng với nỗi lo lắng kéo dài: có gì thất lễ khiến cho vị thanh tra bực tức bỏ đi đùng đùng như vậy? Lơ mơ là ông ấy cách tuột chức tước từ trưởng ga trở xuống...
Ra khỏi ga mấy trăm thước, Chanh chợt vỗ vào lưng Bảy Tộ:
- Dừng lại Bảy, tao hỏi chút... Mày còn việc gì ở đề pô không?
- Em còn vài tiếng ma nơ nữa là hết ca. Nhờ thằng bạn làm rồi, anh khỏi lo.
- Vậy mày cho tao mượn xe đạp. Mày trở lại ga đi, đừng để anh em hiểu lầm tao. Hai giờ chiều tao trả xe ở đề pô, được chưa?
Bảy Tô lại gãi tai:
- Em không đưa đón mới bị anh em hiểu lầm là đứa bạc bẽo. Thôi tùy ý anh Cả, dùng xong anh quăng xe vô chỗ gác cho em.
- Nè, ông Hai Rề với lũ trưởng ga sao coi bộ cách biệt quá vậy ta?
- Nói sao hè... Ông Hai tốt thiệt mà chẳng biết lãnh đạo là cái gì. Cha trưởng ga thì nửa nạc nửa mỡ, à quên, đến ba phần tư mỡ. Muốn được lòng xếp Tây, được lòng ủy ban mình, được lòng công nhân, còn công việc chung có bê trễ cũng mặc kệ. Cái đầu máy đang xộc xệch cũng ký giấy cho kéo tàu Nam tiến, ông Hai với tụi em phải tới bàn giấy chặn lại, bắt sửa kỹ, không thì chết cứng dưới chân đèo Cù Mông chớ chưa tới đất Phú Yên đâu!
- Mẹ cha, nguy hiểm vậy á?
Chanh rút cái đồng hồ quả quýt - quà tặng của tỉnh ủy Quảng Nam trước khi chia tay - xem giờ, tần ngần một tí rồi dặn:
- Mày nói giùm lão trưởng ga tao sẽ làm việc với lão từ một tới hai giờ chiều, mời cả các sếp a lơ li ê nữa... kêu bằng gì hè? Tao mới chuyển qua hỏa xa mà.
- Quản đốc phân xưởng. Có mít tinh công nhân không?
- Chết, đừng, để lần khác hẹn giờ nghỉ ta làm.
Cả Chanh chỉ còn hai tiếng nữa để tìm gặp một người bạn bất mãn, một đứa em mất lòng tin, một cô gái chưa hiểu bụng dạ ra sao.
Rút cầm tay mảnh giấy vẽ sơ đồ nhà chị Tư rượu lậu, tên đầy đủ là chị Trịnh Thị Toản, do một anh bạn ở ga Diêu Trì soạn sẵn, Chanh luồn lách rất lâu trong các xóm nhà lá mới tìm được một căn nhà mái tranh vách đất còn mới, dựng trên một gò cát gần biển, trông cũng khá gọn sạch.
Chị Tư đang nấu cơm dưới bếp, đon đả chào khách, mời lên nhà trên, rót nước, bày diêm thuốc. Bộ mặt nhiều tàn hương lấm tấm đổi sắc ngay khi Chanh xưng tên. Đôi mắt sắc lẻm nhìn xói vào mặt anh:
- Hóa ra ông là ông Cả Chanh đó. Hứ! Ông đã lên ngôi vua chưa mà trảm công thần liền tay vậy ông?
- Kìa, chị Tư...
- Tôi cũng khen ông khéo rủ rê đó. Anh Năm đang bị thương đi cà nhắc, tôi ra sức nuôi ảnh, thuốc men mắc mấy cũng chạy vạy cho đủ, ảnh nghe ông về Quảng Nam làm cách mạng, lên rừng cao núi thẳm đánh du kích, lại nghe lời ông đưa bộ đội vô tới Sài Gòn chọi với giặc, tử sanh chẳng nề. Vậy mà ông kiếm chuyện đuổi về ngang xương, coi như đồ Việt gian bán nước, tới thằng Cam là em ruột ông cũng tức xung điên, theo về luôn...
Chị càng nói càng hăng máu, tuôn xối xả như xay lúa những lời rỉa róc, hai gò má nhọn đỏ rựng và nhô cao hơn, hai hàm răng mọc lộn xộn buộc phải hở ra để nói trong khi chỉ muốn nghiến lại.
- Hai anh em bò về tới đây, coi tợ hồ hai cái xác chết trôi bị cá nhám gặm. Có thứ gì đáng tiền tôi bán hết, nuôi cả tháng mới nên hình ảnh, ảnh đi làm được, thằng nhỏ đi học được. Tôi trách là trách anh Năm không biết thân nhân lại cứ chơi trèo, là thằng cai khố đỏ dốt nát mà cứ ưng bắt chước ông cách mạng nòi, ông xịt đâu chạy đó, bây giờ ổng chán ổng đá đít là đáng đời hết sức chả kêu ca gì nữa.
Chanh bật kêu lên, khổ sở:
- Thì chị cũng để tôi nói câu chuyện với anh Năm cái đã.
- Tối nay cả nhà đông đủ, ông muốn nói gì cứ nói, thử coi có cù rủ anh Năm được nữa không. Chưa chắc thằng Cam nó chịu theo ông đâu nghen! Tôi có lời khuyên ông vầy cho gọn: vợ chồng con rượu lậu lấy thằng khố đỏ, nuôi giùm ông thằng em ở đầy tớ, xứng bộ với nhau quá rồi, để ông chủ tịch lo việc quan việc nước cho đáng mặt cao sang chớ...
Không sao chen nổi một câu phân trần vào giữa cái thác oán hận của chị con buôn lắm điều. Cũng khó hi vọng gặp được Năm Chò với Sáu Cam trong chốc lát ở lại Qui Nhơn giấc trưa này.
Chanh dắt xe đạp đi ra đường, cảm thấy mỏi khắp người như sắp lên cơn sốt rét rừng, khi ký sinh trung bắt đầu nhấm các khớp xương, sợi gân.
Mười lăm phút sau, Năm Chò cùng Sáu Cam về nhà.
Cam học lớp cấp tốc dành cho học sinh lớn tuổi, gần chỗ Năm đang xe gạch thuê cho chủ thầu làm nhà. Buổi nào tan học nó cũng ghé vào chỗ đang xây, đợi anh Năm xong chuyến cùng về với nhau.
Đó là lúc nó nói chuyện với anh Năm thoải mái nhất, còn ở nhà thì chị Tư giành nói hết, nó vào ngồi học một mình trong góc, xong bài nhà trường nó sẽ khảo anh Năm học chữ. Anh học kiểu ấy cũng đã đọc và viết được tàm tạm.
Chị Tư mặt còn bừng bừng, vừa bày mâm cơm vừa kể chuyện ông Cả Chanh cho hai anh em nghe chăm chú. Cơm xới xong, Năm Chò vẫn không cầm đũa, chỉ nhắc cộc lốc:
- Tiếp đi!
Chị Tư kể nữa, kể nữa. Anh Năm cứ tái mặt dần đi, Cam trông thấy nhưng chị Tư không để ý.
Anh đưa hai tay bưng trán, rồi bóp trán, buông một câu nặng nề:
- Vậy là hết tình nghĩa!
- Chớ sao nữa! Tình nghĩa gì với cái hạng đó.
- Không, tôi nói tình nghĩa tôi với cô.
- Anh... gì lạ vậy?
Năm Chò ngửng đầu lên, mắt anh đỏ ngầu:
- Cô nói đã ngán chưa? Có muốn nghe không, hay là đang ham nói thì xin mời.
Chị Tư há miệng nhưng không thốt ra tiếng, như người ăn khoai mắc nghẹn.
- Phải như hồi tôi còn là thằng khố đỏ, tôi là tống cho cô mấy trái đấm bể mặt. Tôi được anh Cả Chanh dạy dỗ miết mới chừa thói xấu. Cô gặp may đó. Cô nghe lỏm chuyện tôi nói với bạn bè, câu nọ xọ câu kia, cô hiểu theo kiểu riêng của cô. Mâm cơm thành nồi cháo heo, cô đem hắt vào mặt anh Cả, ảnh là người cao thượng không thèm bắt bẻ, cô được nước cứ chửi tới tới. Cô cứ nhất định làm con Tư rượu lậu, mặc ý cô, còn tôi là chiến sĩ Vệ quốc, tiệt nọc khố đỏ rồi. Thằng Cam cũng không ở đầy tớ cho ai nữa hết, nó vô du kích, theo bộ đội, bây giờ là học sinh. Chúng tôi không muốn ghép chung với cô Tư rượu lậu... Cam, mày ở hay đi với tao?
Cam đã nép vào góc nhà từ khi nghe anh Năm nói, bằng cái giọng gằn gằn dễ sợ. Khuôn mặt dài và gầy, bắt đẩu nổi lang ben của nó cũng tái xanh.
- Lâu nay tôi để dành tiền, đánh hai chiếc nhẫn cưới để ăn ở lâu dài với cô. Bây giờ cô hiện hình ra rõ hung rồi, tôi xin đưa hết tiền với nhẫn để tạ ơn cô giúp đỡ khi đau ốm, anh em tôi đi nơi khác.
Anh đến mở cái rương con trên giàn, lễ phép đặt trên bàn hai chiếc nhẫn với một xấp bạc, bẻ đôi một chiếc đũa đặt lên trên. Anh vơ áo quần trên giường nhét vào rương. Cam vội run tay thu dọn sách vở trên bàn cho vào cái túi vải trong khi chị Tư bắt đầu khóc rất to tiếng.
*
* *
Thùy tất tưởi về gấp sau cuộc họp kéo dài. Nhà vắng hết, cơm trưa không ai nấu, hai đứa nhỏ tan học lại hờn với chị Hai cho coi. Phần cha khỏi lo, bốn giờ chiều cha mới hết ca. Trời hơi lạnh nhưng Thùy đi như chạy, đến gần nhà phải cởi cái áo sợi không tay mặc ngoài áo trắng kiểu bà ba.
Trước hiên nhà nhà có kê một chõng tre cũ để ngồi hóng mát. Ai đó tự mở dây buộc cổng, đang ngồi đợi trên chõng, chiếc xe đạp dựng vào thềm. Một anh bộ đội ba-lô vẫn đeo trên lưng, dựa vào vách ngủ ngon lành. Chắc đến bàn việc với cha. Mũ cứng kiểu lính Bảo an úp sụp che nửa mặt, hở ra cái cằm nẻ đôi. Thôi cứ để anh ấy chập chờn một lát, tội nghiệp, bộ đội cực trăm đường.
Thùy đi vòng ra mở cửa hông bấm khóa, nhấc cây ngáng cửa trước, mở rộng cho sáng. Tiếng kẹt cửa đánh thức anh bộ đội. Anh giật mình ngồi thẳng lên, giụi mắt, sửa mũ, quay đầu vào trong. Thùy bật kêu:
- Ôi chao, anh... anh Chanh!
- Thùy!
Anh đứng vọt dậy, bị cái ba lô nặng trên lưng giật lại, hơi loạng choạng một chút, kịp níu tay vào khung cửa giữa. Như cái máy, anh tuột quai ba-lô ra, đặt nó xuống chỗ chõng, bước vào nhà. Thùy run rẩy lùi, lùi nữa, đến khi lưng chạm vào cột gỗ. Cô dựa vào cột, cả đầu và thân tê dại đi, mặt lạnh buốt, hai gối nhủn ra như sắp ngồi luôn xuống đất. Cô nhắm mắt, đợi một cái gì hằng mơ ước và rất đáng sợ sắp xảy ra trong đời, khi anh Chanh trở lại tìm cô...
Loáng thoáng đằng sau đôi mắt nhắm, Thùy thấy lại tất cả những hình ảnh đã hiện ra trong những đêm trằn. trọc. Anh ôm Thùy vào ngực, thủ thỉ nói anh yêu em suốt đời. Anh gập gù xoa cằm, bảo vấn đề này sẽ thảo luận trong kỳ họp sắp tới. Anh trừng mắt bảo Thùy là đứa mất nết, người ta lo làm cách mạng mà nó chỉ nghĩ chuyện lăng nhăng trai gái. Khủng khiếp nhất là khi anh nói: xin lỗi, tôi đã có vợ ngoài Quảng, Thùy đã tự hành hạ biết bao nhiêu từ khi không nén được nước mắt trước, bác Quý già đến thăm, từ đó cứ hối mãi, lo lắng mãi...
Im lặng, im lặng kéo dài.
Mặt Thùy bớt lạnh, Thùy từ từ tỉnh lại, mở mắt.
Người con trai đứng cúi đầu trước mặt cô, bàn tay phải bóp bàn tay trái, mặt đỏ như vừa uống rượu, cái núm cổ chạy lên xuống mà không đẩy ra được một tiếng nào. Bỗng anh ngước mắt nhìn Thùy. Nét mặt anh lộ vẻ sợ sệt quá rõ: không thể lầm. Anh sợ gì trước mặt em? Hay là... lẽ nào... anh sợ phải nghe một lời xua đuổi?
Máu trong tim vụt bốc lên mặt Thùy đến choáng váng. Trước người con trai yếu đuối, Thùy mạnh lên bừng bừng. Anh ấy yêu mình, đợi mình cho phép nói một tiếng nào đó. Nói đi anh. Em đợi tiếng ấy lâu rồi. Kìa, sao lại nhát gan vậy, anh của em? Anh quá thật thà rồi đó...
- Thùy ơi!
Thùy chỉ thốt được một tiếng dạ không ra khỏi cổ.
- Em... em có nghĩ tới anh... chút nào không?
Thùy không gan được nữa, úp hai bàn tay lên mặt, nấc dồn dập.
Hai cánh tay gân guốc của người con trai đã ôm vòng quanh vai Thùy. Anh nói gì nóng rực bên tai không rõ. Thùy níu vào hai vai anh, úp mặt vào ngực anh, trong khi anh luống cuống hôn vội vàng vào má, vào tai, vào cổ Thùy. Thùy vừa ngước mặt lên, anh hôn luôn vào trán, vào mũi. Anh của em vụng về ngốc nghếch, sao mà dễ thương không chịu nổi. Em chỉ sợ thức dậy, thấy em chiêm bao. Phải chi anh cắn em thử coi. Chắc anh không dám, thôi để em cắn anh thiệt đau cho anh tỉnh trước...
Thùy cắn thật. Anh bật cười, vòng hay tay kéo đầu Thùy ngửa ra:
- Hồi đi khỏi Qui Nhơn, anh buồn ghê.
- Sao anh buồn?
- Em chào đúng một tiếng, bỏ đi mất tiêu...
- Em xuống khóc một mình dưới bếp, em không gan như anh. Còn anh cứ cười miết... Anh Chanh ơi, thiệt không? Anh thương em thiệt không? Anh chọc ghẹo rồi bỏ, em không sông nổi đâu.
- Đừng bỏ anh nghen Thùy. Rán đợi anh về rồi cưới.
- Em lo anh có vợ...
Hai tay người con trai siết cứng Thùy đến ngạt thở, không nói được nữa. Thùy muốn anh siết mạnh hơn.
- Có rồi. Anh có một cô ở Qui Nhơn đây. Anh lo vợ anh không đợi được. Anh yêu em khủng khiếp. Thùy ơi, nhứt định cưới nhau nghen Thùy? Nói đi em. Hẹn cắn cưa đi em, cho anh yên bụng.
- Em bằng lòng...
Ngoài cổng chợt có tiếng trẻ con kêu: “Con se sẻ đậu kia, dạn lắm!”. Rồi ná cao su bật một tiếng phạch. Chanh buông tay. Thùy hôn vội trên cổ anh lần nữa, chạy ào xuống bếp. Hai đứa em trai cắp sách vào nhà, còn xuýt xoa tiếc con chim bắn hụt. Chúng cất tiếng chào chú, không nhớ mặt Chanh vì hồi xưa anh trốn kỹ trong buồng Thùy. Anh vội sửa:
- Kêu là anh bộ đội chớ, đừng kêu chú. Anh tên là Chanh.
- Dạ, anh bộ đội. Chị Hai ơi, cơm chín chưa?
Thùy đáp ấp úng. Hai đứa em lùng bùng: “Họp hành gì ghê quá vậy chị!”. Chúng vất sách, cầm ná cao su ra ngõ. Chanh không cưỡng nổi, đi xuống bếp chỉ để nhìn Thùy, gần Thùy thêm một lát. Chiếc đồng hồ quả quýt đã chỉ gần một giờ, anh phải về nhà ga đúng hẹn. Thùy đang hối hả nhen lửa hai bếp một lần nấu cơm canh. Đợi Thùy bắc hai nồi lên bếp xong, Chanh mới ngập ngừng:
- Thùy... anh phải đi gấp đây.
Thùy quay ngoắt lại, mở to mắt. Đôi mắt sao mà đẹp lạ.
- Anh theo bộ đội Nam tiến.
- Bữa nào anh đi?
- Phải đi ngay bây giờ. Bộ đội đang đợi trên ga Diêu Trì, anh chạy gấp về thăm em, đừng giận, tại anh nhớ em quá...
Đôi má tròn đang đỏ hồng vì lửa nhợt đi. Thùy gượng cười, hiện hai đồng tiền bên khóe miệng. Môi Thùy cũng trắng ra, mấp máy:
- Bấy nhiêu thôi hả anh? Biết làm sao, anh đi đi.
Rất nhanh, nước mắt Thùy tràn xuống má. Thùy quay lưng ngồi xổm xuống, đẩy củi vào bếp cho cháy phừng phừng, kín đáo co bắp tay trái lên quệt mặt. Đến khi nhìn lại thì anh Chanh đã biến mất. Thùy chạy vội ra cửa trước: chiếc xe đạp không còn đấy nữa. Anh hiện rồi tan như làn khói.
Hai đứa em nghe chị kêu đau bụng bỏ cơm, líu ríu vào nấu thay, bưng dọn, để phần cha và chị xong vội ăn cho kịp buổi học chiều. Chúng nó nhắc tới anh Chanh bộ đội vừa ghé thăm nhà, Thùy nằm trong buồng lắng tai nghe và bắt đầu nghĩ là anh ấy có đến thật.
Bốn giờ chiều, Thùy dậy cùng ăn cơm với cha. Nghe ông Hai kể Cả Chanh về thăm đề pô, Thùy tin hẳn mình không nằm mơ. Trước sau gì hai đứa em cũng nó với cha chuyện anh ấy đến nhà, Thùy phải thưa trước cho khỏi bị nghi ngờ, nhưng không biết lựa lời cách sao đây. Cha lại rất ghét những người quanh co lắt léo.
- Sao coi mày như đứa mất hồn vậy Hai?
Thùy nhìn cắm xuống bàn, ấp úng:
- Dạ, anh Chanh tới đây hồi nãy...
- Ủa, tao gặp nó ở đề pô, thấy nó gấp rút lắm mà!
- Ảnh ghé lại chút xíu thôi. Ảnh... ảnh hỏi con... có thương ảnh không, chớ ảnh thương con lắm... Hễ cha cho phép thì ảnh đi hỏi con...
- À, à, vậy đó... Mày nói sao với nó?
Thùy ríu lưỡi:
- Con cũng thương ảnh lắm.Ảnh đi, con nhớ lắm.
Ông Hai buông đũa, ngẩn ra nhìn khuôn mặt đỏ chín của con. Bây giờ ông mới nhận thấy con đã thành người lớn từ bao lâu chẳng rõ. Tính theo tuổi ta nó đã lên mười chín, còn gì nữa. Nó ưng thằng Chanh cũng phải, thằng đó tánh nết dễ thương. Nhưng ông vẫn thấy khó êm xuôi.
Ông lặng im lâu đến nỗi Thùy đâm sợ. Đàn ông với nhau hay có những va chạm nảy lửa, chỉ nhìn quanh xóm cũng đủ khiếp hồn. Nhưng cha chưa lần nào chê trách kia mà.
- Thùy nè, con biết Cả Chanh bây giờ làm gì không?
- Dạ biết. Anh vô bộ đội, đi Nam tiến đánh giặc. Thanh niên bây giờ ai cũng ao ước vậy hết cha ơi.
- Lầm rồi. Hồi mới nổi dậy, nó làm phó chủ tịch tỉnh. Bây giờ nó làm thanh tra hỏa xa Trung Bộ.
- Bộ đội hay hỏa xa cũng vậy thôi, có bậy bạ gì đâu!
- Ai nói nó bậy bạ? Nhưng mà con phải coi thử có cân xứng hay không đã. Người ta quyền cao chức trọng, chắc nhiều cô muốn lấy, bu theo. Con thì chữ nghĩa trét không đầy cái lá mít, chỉ biết may áo quần cho đàn bà con nít trong xóm. Hồi còn thương thì nó không để ý, hết thương nó so sánh cô này cô kia, tới đó con mới tủi cực trăm bề.
Giọng Thùy khản như nuốt than:
- Cha biểu... con từ chối hả?
- Tào lao. Cha nhắc để con đắn đo mọi lẽ, về sau khỏi hối. Phải như nó cứ làm thợ vi-dít-tơ như hồi xưa, nó hỏi một tiếng là cha nhận làm rể liền tay. Nó không tin Chúa mà tốt nết hơn đám cha cố nhiều.
Thùy chợt buốt nhói trong ngực khi nghe nhắc tới Chúa. Hình như vẫn có lệ cấm người bổn đạo lấy người lương hay sao đó. Thùy hấp tấp hỏi cha. Ông Hai bật một tiếng “xì” rẻ rúng:
- Tao thờ Chúa là nể ông bà cha mẹ đi đạo, chớ cái bọn không đẻ ra tao mà đòi làm cha, kêu tao bằng con, tao coi như cỏ rác!
Chú thich:
[1] Tiếg Pháp: người hộ vệ