Chương II
Đến chỗ ngã ba đường làng. Cả Chanh lưỡng lự giây lát rồi đi vào một ngõ có những cây duối và cau bị bom chặt lổng chổng chưa dọn hết. Mấy ông già buộc phên tre chỗ căn nhà lợp lá dừa đang dựng lại, không đợi hỏi đã báo ngay:
- Chị Thùy mới qua đằng kia, chừng giập miếng trầu thôi. Chắc lại vô chỗ nhà thờ sụp.
Chanh lúng búng cảm ơn, xốc ba-lô, trở ra đường đi tiếp. Dấu chân trần của Thùy còn in trên quãng đất mềm lún của hố bom vừa lấp, chưa có ai dẫm lên trong giờ trưa tròn bóng này. Đi thêm vài trăm thước nữa, nhìn lên ngôi nhà thờ bị bom vỡ toang hoác trên gò, Chanh thấy ngay bóng áo màu xanh nhạt của vợ lấp ló sau bức tường đổ.
Thùy ngồi lặng trên khúc dầm gỗ nằm ngang, mơ màng nhìn lên pho tượng Đức Me bồng con đã bị toác một bên vai. Cũng như lần trước về thăm, Chanh nhận ra người vợ loạn trí vẫn chải đầu búi tóc gọn gàng, mặc áo quần sạch, chiếc nón lành đặt bên chân.
- Thùy ơi, về đi em. Cả nhà đang đợi cơm.
- Dạ, chào anh. Tôi ghé thăm bà hàng xóm một chút.
Thùy khoát tay về phía bức tượng, hạ thấp giọng:
- Bà này tôi quen, tốt bụng lắm. Chồng bả làm thợ mộc, quý vợ con khỏi chê đi. Con bả bị người ta giết, bả thương quá không cho chôn, cứ bồng con đứng miết vậy đó. Anh cũng quen bả hả?
Chanh không chịu nổi, bước tới nắm hai vai Thùy lay rất mạnh:
- Thùy, Thùy ơi, em quên cả chồng em sao?
- Dạ, tôi có chồng con rồi. Con tôi mới biết bò...
Chanh chợt thấy trong đôi mắt to, đậm, rất đẹp của Thùy hiện lên những đốm lấp láy vàng như bóng nắng xuyên lá rậm. Thùy ngước mặt nhìn lên cao hồi lâu như cố nhớ điều gì, lại nhìn chồng, ấp úng:
- Thiệt anh không... anh Chanh hả... Con chết rồi anh ơi, em bỏ con chết ở nhà, cháy đen thui, chắc nó kêu má miết mà không thấy má... chắc nó tắt thở còn oán má bỏ con...
Thùy đưa hai tay lên ôm hai thái dương như đỡ cái đầu quá nặng, đứng lên, theo chồng đi về nhà. Cái dáng đờ đẫn cứng lạnh ấy đáng sợ hơn mọi kiểu gào xé của những người điên khác. Mãi đến khi ngồi xuống bên mâm cơm, trên chiếc chiếu rách trải giữa nền đất của căn nhà ở nhờ, Thùy vẫn giữ nguyên hai tay bưng đầu. Năm Bưởi phải gỡ tay chị dâu, đưa chén đũa và nghiêm giọng ra lệnh cho chị ăn cơm.
... Sau ngày tản cư khỏi Quy Nhơn phá hoại sớm, các gia đình công nhân xe lửa dời chỗ từng quãng ra phía Bắc theo con đường sắt bị chiến tranh thu ngắn dần. Cuối 1947, Chanh và Thùy cưới nhau trong một đám cưới tập thể ba cặp tại Bồng Sơn. Sáu Cam rời gia đình anh Bảy Tộ lái xe lửa về ở với chị dâu, vừa làm vừa học. Ít lâu sau, xưởng sửa chữa của ông Hai Rề chuyển ra mạn Bắc thị trấn Tam Quan cho gần các đường hầm giấu xe lửa, cả nhà chuyển theo. Có thai được vài tháng, Thùy cùng mấy bà mấy chị nữa rủ nhau ra ở gần thị trấn Sông Vệ, tỉnh Quảng Ngãi, cho dễ kiếm sống và gần trường trung học Lê Khiết để các em học tiếp. Sáu Cam thi cầu may vào trường Trung học Bình dân của liên khu, trúng tuyển, anh La Giang đến tận trường nói khó mới được nhận vì Cam chưa đến tuổi cán bộ. Cam ở nội trú cách chỗ Thùy hai chục cây số, hưởng sinh hoạt phí ngang bộ đội.
Các gia đình xe lửa được giao một khu vườn vắng chủ rộng và rợp cây, cất lều ở gần nhau, làm đủ nghề. Sau ngót ba năm lang thang, dường như Thùy đã đặt được gánh trên vai xuống, tạm yên thân để giúp cha, chồng, các em, và nuôi đứa con cho đến ngày tan giặc. Tiếng máy may của chị thường kêu đến quá nửa đêm.
Thế nhưng, trên dải đồng bằng miền Trung rất hẹp thật khó tìm được nơi yên ổn, dù Sông Vệ nằm giũa rốn vùng tự do Nam Ngãi Bình Phú. Tàu chiến Pháp đậu ngoài khơi, có máy bay quần chỉ điểm, bắn pháo lớn lên mấy đợt. Tiếp một lũ máy bay cổ rùa Xpít-phai đánh trường Lê Khiết, giết một cô giáo, mười bảy học sinh cùng mấy gia đình ở gần trường.
Mùa thu 1949, tai nạn ập xuống đầu Thùy.
Buổi chiều ấy, chị đi giao áo quần may xong cho khách. Thằng Khiêm, em lớn, đi học chỗ phân tán của trường. Thằng Liêm ở nhà ôn bài, giữ cháu Tuấn và nhận dán cho chị một xấp giấy bạc tín phiếu rách nát không mua gì được, nó dán khéo tay nhất nhà. Bà giáo Hạnh bên hàng xóm từng lúc ngừng tay chấm bài để bày cho con bé Bạch Lan cách làm nước cốt dừa pha vào chè đậu đỏ, ba mẹ con từ Hội An tản cư vào bán thêm hàng quà cạnh tiệm may của Thùy. Hơn một năm qua, Thùy vẫn chưa hết ngượng khi nhìn tấm biển gỗ quá to mà Bảy Tộ cùng Sáu Cam đã hì hục kẻ bằng sơn, treo trước cửa căn lều nhỏ: “Đây chuyên may y phục nữ, thiếu nhi - Nhận sửa quân phục, âu phục - Thợ giỏi, làm kỹ, giá hạ!!!”
Trận bom kéo dài mười lăm phút. Thùy vừa chạy vừa khóc, về đến nhà vừa lúc máy bay bỏ đi.
Nhà cháy rụi. Mẹ con bà giáo Hạnh chết ngạt trong hầm. Em Liêm chạy lao tới sân, một mảnh bom xé lỗ toang hoác bên hông. Bé Tuấn, ôi, không phải nó, vẫn là nó... một con heo sữa quay vụng chỗ vàng chỗ đen, bốn chân chặt cụt tới khuỷu, đầu teo lại còn bằng cật nắm tay méo mó... Thùy ngồi xệp xuống khoảnh sân đầy tro và đất vụn, trừng trừng nhìn con, mắt khô và dại dần...
Chanh về thăm lúc hai giờ sáng. Ông lão trong xóm phân trần ngay: “Con chết, phải để mẹ ngó thấy, không lại tưởng đứa nhỏ còn sống bị đem chôn...”. Thùy ngồi cười tủm tỉm chỗ chân cột. Bà con khiêng người chết đi chôn đã về nghỉ cả, chỉ còn chị hội trưởng phụ nữ xã mệt rũ, túm lấy Chanh rên rỉ: “Anh dỗ chị Thùy nằm một chút. Sáng mai còn phải thu dọn mấy nhà cháy...”.
Thùy loạn óc, vẫn hiền lành, sạch sẽ, biết quét dọn và nấu cơm nữa. Chị tái mặt khi nghe trẻ con gọi mẹ. Đặc biệt, khi đang đi bị cái gì móc vào ống quần thì chị rú lên, ngã ngất. Các bà trong xóm đoán mãi mới hiểu. Con biết bò, cứ lổm ngổm theo mẹ mãi, chị thường trải chiếu dưới đất cho con bò chơi trong lúc mẹ ngồi đạp máy may. Cháu bị buộc chân chỉ bò trong chiếu, tùng lúc túm ống quần mẹ mà kéo, ngước mặt lên cười với mẹ, đòi mẹ cúi xuống nựng một tí thôi, lại bi bô nói chuyện với mấy thứ đồ chơi nghèo quanh mình. Thằng bé vàng ngọc của Thùy vẫn sống đâu đây, người ta không biết, đem chôn lầm con heo quay... Thùy nói chẳng ai tin, chỉ cười một mình, lặng lẽ chờ bé Tuấn. Lớn lên ít nữa, biết đi, nó mới về với mẹ được chứ...
Hôm nay, lần đầu tiên sau trận bom, Thùy mới bảo chồng là con chết cháy.
*
* *
- Đó anh chị coi, còn cách nào khác đâu?
Chị Sáu Lễ quay sang nhìn anh Ba Mậu. Anh Mậu xốc mười ngón tay vào mái tóc rậm ngả bạc, ngoảnh mặt vào góc nhà tối, tránh ánh đèn và tránh đôi mắt Cả Chanh. Mãi rồi anh mới hỏi lừng khừng:
- Năm Bưởi ở đây giúp vợ chú, được chớ?
- Bưởi có công tác của nó, bỏ cho ai?
- Chà, chú nghi... khó cho anh em nhiều đó...
Chị Lễ thở dài, đưa tay đập một con muỗi chích trên cái cổ mập và trắng. Càng luống tuổi chị càng to béo ra, cứ phải phân trần: “Cái tạng tôi vậy đó, ăn cơm cơ quan có gì đâu!”. Chị càng áy náy khi gặp lại một Cả Chanh héo hắt đến thảm hại.
Chanh đã viết đơn xin nghỉ dài hạn để chữa bệnh và thu xếp việc nhà. Anh Mậu sắp về họp trên liên khu nhận chuyển lá đơn, không bàn góp điều gì. Dù ít biết về ngành hỏa xa, chị Lễ vẫn thấy lạ: giữa Ba Mậu là bí thư Đảng ủy với Cả Chanh giám đốc Sở hỏa xa, dường như không có gì để tâm tình với nhau, giúp nhau dàn xếp trong cơn hoạn nạn. Suốt chiều nay, chị chạy nhiều nơi tìm Hội Mẹ chị, Hội Phụ nữ giúp Năm Bưởi sắp đặt chỗ ở mới, đến nhờ ông lang thôn bên cắt cho mấy thang thuốc an thần. Anh Ba Mậu đeo xắc-cốt xuống thị trấn, trở về với cái đầu tóc mới cắt, cầm bánh xà phòng thơm ngoại Mèo Đen ra giếng tắm. Sau bữa cơm tối do Năm Bưởi mời, anh đeo kính lên đọc lá đơn xin nghỉ của Chanh, đáp gọn: “Để rồi tôi chuyển”. Chị Lễ chỉ đoán rằng tai nạn xảy ra đã hơn một tháng, hẳn anh Ba Mậu đã cạn sạch những lời bàn bạc khuyên nhủ, và giới đàn ông ít ưa nói dài, nói lặp...
Cả Chanh đã được anh em thợ xe lửa đặt biệt hiệu là ông Cả Tin, do cái tật suy bụng ta ra bụng người, nghe khen ai là gật ngay, còn nghe chê mới bắt đầu ngờ ngợ, hỏi vặn. Anh Bảy Quý chồng chị hay trách Chanh vì chỗ yếu này, chị Lễ thấy là đúng. Thế nhưng chính chị Lễ lại cả tin hơn Chanh rất nhiều lần, tin người đến cái độ ngây thơ. Bà phó chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ miền Nam Trung Bộ, chức danh của chị Sáu Lễ, là một trong những người dễ đánh lừa nhất trong hàng cán bộ. Chị không thể hình dung những người trải qua tù đày của đế quốc lại có thể tranh giành địa vị, ghen ghét nhau, kiếm dịp hất cẳng nhau. Anh Bảy Quý và chị đã cùng tìm đến với Đảng Cộng sản bằng hai bàn tay sờ soạng trong đêm đen, gặp nhau và yêu nhau qua những lần họp thì thào giữa đồng vắng, lấy nhau và sinh con với những giấy tờ giả, nhận tin con chết trong xà-lim biệt giam, mỗi người một nơi, đòn tra tấn hằn nhức buốt khắp thân trong những đêm quằn quại trên nền xi-măng lạnh...
Chị Sáu Lễ dành phần thương riêng của mình cho vợ chồng Cả Chanh cũng vì chỗ hợp nết ấy. Qua những tháng sửa soạn khởi nghĩa giành chính quyền, qua những đêm nằm đắp chăn chung với Hai Thùy hồi cô chưa lấy chồng, chị thấy cả hai đứa em đều luôn luôn thật bụng. Thằng Chanh trải đời hơn, con Thùy ít hiểu chính trị, nhưng cả hai đứa đều muốn tiếp bước anh Bảy Quý cùng với chị trên đường cách mạng.
Đôi lần, La Giang gặp anh chị và đánh dấu hỏi khá đậm về mục tôn giáo: ông Hai Rề theo đạo Thiên chúa từ gốc Trà Kiệu, Hai Thùy chịu ảnh hưởng tới đâu? Gặp lúc khó khăn, lòng người chao đảo, Thùy sẽ ngả về phía người chồng cộng sản hay chạy theo cha cố chống Cộng?
Chị Sáu bàn riêng với Bảy Tộ: một lần nào đó kẹt xe lửa, hãy đưa anh La Giang về nhà ông Hai Rề ở vài hôm để anh ấy biết họ theo đạo kiểu thế nào. Dạo ấy cả nước sắp nổ súng. La Giang được quân đội cử phối hợp với Cả Chanh cùng lo việc chuyên chở bằng đường sắt đang tăng vọt từng ngày. Đôi bạn tù cũ làm việc hùng hục, ăn ý và thân thiết như cặp bài trùng, chỉ thỉnh thoảng cãi nhau về người vợ chưa cưới của Chanh. Anh chàng trán gồ chưa vợ nói rất hăng, đặt cho cô vợ tương lai của bạn hàng loạt tiêu chuẩn dỗ sợ, trong đó có tiêu chuẩn chính trị là phải đạt cỡ cán bộ phụ nữ cấp tỉnh trở lên, tất nhiên là đảng viên. Chanh chỉ cười xòa: “Thôi lạy ông, mua trâu vẽ bóng hoài!”.
Nghe lời chị Sáu, nhân lúc La Giang về giúp xưởng sửa chữa xe lửa chọn chỗ tản cư và lập đội tự vệ, Bảy Tộ xếp cho anh ăn ở hẳn một tuần với gia đình ông Hai Rề. Sau đó anh đổi ý hẳn, sồn sồn giục Chanh “cưới vợ thì cưới liền tay”. Chanh lại cười dài, uỵch cho bạn một đấm thay câu trả lời. Cậu ta hình dung cưới vợ như mua heo về xẻ thịt!
Chị Sáu biết chuyện, càng răm rắp tin rằng những ai đã vào Đảng trong thời đen tối đều có tấm lòng trong sáng, những hiểu lầm giữa đồng chí với nhau chỉ là mưa bóng mây dưới nắng đẹp.
Anh Bảy Quý nghĩ khác chị. Những lần hiếm hoi vợ chồng gặp riêng nhau trong cả một đời chạy đuổi theo công tác, giữa trăm ngàn việc chung việc riêng thủ thỉ với nhau, anh Bảy có lúc nhắc thoáng qua về Ba Mậu, bảo rằng anh ta không đơn giản như các đồng chí khác đâu, có những tính toán riêng lắt léo mà chính anh Bảy - người đã biết anh từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, đã xếp chữ để in mấy bài báo tiếng Pháp của anh - không thể hiểu nổi. “Tạng mình chưa đủ sức quản trí thức đâu mình ơi!”.
Hai năm gần đây anh Bảy vào làm bí thư khu Sáu, túc Cực Nam Trung Bộ. Chị Sáu gặp anh Ba Mậu ở hỏa xa nhiều hơn, quên nhanh những lời dè dặt của chồng trước dáng người rất đường hoàng và cách cư xử vừa sắc sáo vừa khôn khéo của Ba Mậu. Do đó chị mới băn khoăn khi thấy Ba Mậu dửng dưng trước tai nạn của đồng chí mình...
Ánh lù mù của ngọn dầu dừa trong đèn thẫu hắt lên ba khuôn mặt. Anh Ba Mậu với mái tóc mới cắt chững chạc màu hoa râm trên khuôn mặt ông thày, mới nhìn đã dễ kính nể, Chị Sáu Lễ phát phì béo trắng như một bà chủ tiệm lớn, đi tản cư nên không đeo vàng ngọc, không mặc lụa là. Trái ngược với hai người là Cả Chanh xốc xếch và còm cõi, tuy sang năm mới được chẵn ba mươi đặt trước mặt một xấp giấy rơm nội xanh vàng của các trạm y tế, bệnh xá, bệnh viện báo rằng họ không chữa lành được bệnh dạ dày của đồng chí Phan Chanh hay bệnh thần kinh của chị Võ Thị Thùy, chỉ còn cách là nghỉ làm việc càng lâu càng tốt, tránh mọi lo lắng xúc động.
Từ buồng trong dội ra tiếng kêu rít, tiếp một tràng ú ớ tắc nghẹn trong họng. Chanh và chị Sáu cùng chạy xô vào. Năm Bưởi đi họp du kích chưa về. Thùy ngồi chỗ mép giường, hai tay chống thành giường, mắt trừng trừng nhìn vào bóng tối. Thùy ngửng lên thì thào:
- Tôi tính qua rủ bà hàng xóm đứng bồng con về ngủ chung để bả đêm hôm đứng miết coi tội lắm...
Mất nửa tiếng dỗ dành và một viên thuốc an thần ngoại - của hiếm quý trong kháng chiến - Thùy mới nằm ngáy đều, tóc xõa tràn trên chiếu, chị Sáu phải nhẹ tay tém và búi tạm lại. Khi hai người trở ra, Ba Mậu đã mang xắc-cốt về nhà anh gửi ba-lô. Chanh giục chị Sáu sang nghỉ nhà bên cạnh, hất hàm vô phía buồng:
- Tôi gác thêm lát nữa, đợi Năm Bưởi về bàn giao. Thùy sợ con em dâu dữ tướng, biểu gì nghe nấy.
- Sao anh Ba Mậu với chú... coi bộ lạnh ngắt vậy?
- Ôi, chuyện dài lắm chị ơi. Chị hỏi chỗ Ban tổ chức liên khu thì biết, tôi nói sợ thiếu khách quan. Mà thôi, bây giờ gì thì gì tôi cũng đi khỏi hỏa xa ít lâu, coi như nồi hơi xả xu-páp rồi, không lo nổ nữa!
Chanh rót nước mời chị Sáu, buột nói bâng quơ:
- Tiếc cho Thùy không được thấy cảnh đó...
- Cảnh gì?
- Cảnh tản cư hồi đầu toàn quốc kháng chiến ở Đà Nẵng. Thấy đồng bào mình quá khổ, đến lượt mình gặp nạn chắc Thùy không đau đớn như bây giờ.
Chị Sáu trầm ngâm gật đầu:
- Trải qua cảnh đó, một là bị thần kinh lập tức, hai là con người cứng rắn lên ghê gớm. Được cái dân mình quen cực từ xưa, quen bom đạn từ hồi Nhựt mới qua, ít người oác[1] lắm, bà con tản cư kêu cứ kêu mà chịu đựng cứ chịu đựng được, sống được.
Đà Nẵng, tháng chạp năm 1946. Quân Pháp xé hiệp định 6-3-46, đổ bộ ào ào tới số vạn. Quân ta hối hả từ các tỉnh xa kéo về, súng đạn rất thiếu, chưa tập luyện gì mấy, dép và áo trấn thủ cũng chưa có. Súng nổ. Vài ngày đầu ta chống loạc choạc, sau khá dần, nghiến răng cản địch cho đồng bào kịp chạy giặc. Chết nhiều, chết rất nhiều, cối bắn gần, pháo đất pháo biển nã xa, máy bay rượt giết xa hơn nữa. Ra khỏi thành phố cả chục cây số, chưa kịp đặt gánh thở lấy hơi đã bị máy bay sà qua đầu, xối đạn trọng liên nổ lại tóe mảnh trên mặt đường, dòng người tản cư biến thành suối máu chảy len giữa những ghềnh đắp bằng xác. Sông rạch lềnh bềnh người và những thứ của người khi máy bay bắn chìm đò hoặc chỉ sạt thấp cho dân tản cư hốt hoảng tự lật chìm những con thuyền chở khẳm đến nước sát mép be. Giặc chưa tràn tới mà nhà tranh đã cháy, nhà ngói vỡ toác vì bom.
Những ngày ấy, Cả Chanh và La Giang hùng hục ngày đêm nhất là đêm, đưa tất cả lực lượng xe lửa chở quân vũ khí, gạo ra Đà Nẵng, chở đồng bào vào các tỉnh trong. Có những ông chỉ huy nóng tính vung súng ngắn vào mặt Chanh đòi thêm toa, đòi tàu chạy gấp dù máy bay đang thả bom trước mặt. Có những bà con phải dìu cõng khiêng lên xe. Có những đứa giả bộ đội chạy vào ngoại ô hôi của, thay đồ, quảy gánh lên xe lửa tản cư. Có nhiều xác mà anh em xe lửa phải tự chôn vì chắn đường hay quá thối. Có cả một chuyến tàu phải trút hết người và hàng, mở máy cho lao xuống sông vì mắc kẹt, công binh nổ cầu quá sớm theo lệnh miệng...
Thùy không thấy những cảnh tản cư ở Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng. Các gia đình hỏa xa thong thả rời Quy Nhơn được lệnh tiêu thổ sau cuộc đổ bộ hụt của địch. Họ ngồi xe lửa và chở theo được cả bàn ghế giường tủ, về sau thấy vướng mới bán lần hồi từng chặng. Đến khi cả nước nổ súng, Thùy cùng các em ở nơi tiếng đại bác không vẳng tới, máy bay chưa bay tới, chỉ biết về máu lửa qua những câu chuyện dài dài của các bà chờ lấy áo quần, nghe câu được câu chăng qua tiếng máy khâu cũ kêu lọc cọc. Thêm Sáu Cam và nửa suất phụ vào cho cha đủ ăn, bốn miệng rưỡi trông vào cái máy còn phần Cả Chanh thì chẳng biết bao nhiêu mà tính với căn bệnh dạ dày kinh niên ấy.
- Nghỉ ít lâu rồi chú Chanh về làm lại chớ?
- Tùy trên thôi chị. Trên đang kêu gọi cán bộ lâu nay ở hậu phương nhiều hãy xung phong ra tiền tuyến, đi những chiến trường xa và khó nhứt. Tôi đi là phải quá, chị Sáu hè!
- Bậy! Ngành của chú là đặc biệt, đem mấy cha cán bộ đa-giê-năng lắp vô thì nát việc hết. Với lại sức khỏe của chú...
- Tôi không đủ khỏe để làm xe lửa, chị thấy đó. Mấy ông ở tuyến lửa về, gặp lúc xe trục trặc lại đay nghiến tụi tôi là bám vùng tự do để ăn cho mập, buôn lậu làm giàu, “để tao gặp thằng ký giấy là Phan Chanh tao chửi một trận”. Khi giáp mặt thấy tôi như ma chết trôi, họ chỉ càu nhàu chớ không nỡ chửi. Té ra chị Sáu tưởng xe lửa ít mệt hơn công tác khác à?
- Đâu có. Ý chị nói là chú đừng đi xa...
Tiếng còi tàu đêm chợt rít lên the thé phía ga Hòa Vinh Tây. Chanh liếc đồng hồ đeo tay, nói gọn: “Tàu trưng dụng chở hàng quân sự, tới sớm mười phút. Hơn một giờ nữa mới tới tàu khách, vậy là qua lọt Sa Huỳnh. Tàu chiến hay đón bắn đại bác ở khúc Sa Huỳnh, ta bị vài lần rồi đó chị”.
Chị Sáu Lễ thấy rõ: khi tiếng còi vẳng tới, Chanh hơi giật mình, dỏng tai, ngửng đầu, trong khi một sợi gân nào đó trên cái cằm nẻ đôi khẽ giật liên tiếp. Dù làm ra vẻ dửng dưng, cái máu mê nghề thợ xe lửa đang còn đậm lắm ở anh chàng giám đốc xơ xác này.
*
* *
Chị Sáu Lễ thật sự muốn hiểu những gì lủng củng xảy ra giữa số đồng chí lãnh đạo hỏa xa. Nhưng các cơ quan liên khu đóng xa nhau, các đoàn thể thường ở chỗ gần dân còn các bộ phận tối mật như liên khu ủy được đưa vào chỗ hiểm hóc nhất, có khi dựng lán ở riêng trong rừng núi. Chị không thể bỏ vài ngày mang ba-lô đi tới Ban tổ chức liên khu chỉ để hỏi về Cả Chanh và Ba Mậu. Sau chừng mươi hôm, ý định tốt của chị đã bị chìm sâu dưới hàng trăm mối lo toan khác về Hội phụ nữ, nóng cháy và sát sườn hơn nhiều.
Thật ra, chị Sáu không phải áy này gì nhiều khi rất lâu về sau chị mới hiểu con người giáo sư Trà Đình Mậu. Trước chị đã có lắm người khác hiểu lầm Ba Mậu, hiểu lầm theo nghĩa tốt hơn sự thật. Trong số đó có anh bí thư huyện ủy Tây Quảng, có bác cán bộ tổ chức Đậu Chí Xích tóc bạc, có cả cậu học trò cũ trong tù là Cả Chanh đã lên cấp trên nhưng vẫn một dạ kính thầy, gắn bó với thầy do tình đồng hương cùng huyện Tây Quảng.
Anh Ba Mậu bắt đầu nổi danh với những bài báo tiếng Pháp đầu tiên đăng trên các báo công khai trong cái thời thực dân nới tay ngắn ngủi của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Anh ký bút danh là “Người nhà quê Trung Kỳ”, số nhà báo tiến bộ ở Trung Kỳ lúc ấy đếm đầu ngón tay, người ta lập tức đoán ra tác giả là ai, tìm đến với anh, xin được anh chỉ giáo. Học sinh yêu nước ở Huế khá đông lập tức đặt trên đầu anh một vầng hào quang thánh thiện, không biết rằng sau lưng anh có những người cộng sản nằm chìm trong bóng tối đã giúp anh sửa từng câu chữ trước khi lên báo.
... Đỗ xong tú tài triết học, Ba Mậu long đong nhiều năm kiếm việc làm. Anh không được nhận vào các công sở, các trường công, vì trước đây cha anh có dính vào vụ bạo động thất bại của Việt Nam quang phục hội, bị ghi tên sổ đen tuy không phải đi tù. Lang thang dạy tư ở nhiều thành phố miền Trung, anh được những người quen biết đánh giá là có tài nhưng bất đắc chí.
Đến thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, anh đang dạy tư văn học Pháp tại Huế. Một số nhà báo cộng sản và tiến bộ đặt anh viết bài tiếng Pháp, từ những tin ngắn đầu tiên tới những phóng sự dài, thường góp ý tỉ mỉ để anh viết đúng và hay hơn. Ba Mậu vui mừng vì thấy tài năng của mình không bị bỏ phí, nuôi ý định tiến thân bằng báo chí, viện dân biểu, trở nên một chính khách có tên tuổi tiêu biểu cho giới trí thức tây học trẻ… Anh viết đơn xin vào Đảng, được kết nạp khá gọn gàng nhờ lý lịch trong sạch và nguồn gốc gia đình yêu nước.
Ầm một cái chính phủ của Mặt trận Bình dân Pháp đổ, cuộc tổng khủng bố 1939 - 1940 ở Đông Dương nổ bùng, Ba Mậu bị bắt. Chỉ sau vài lần tra điện, vài đêm thức trắng với nỗi cay đắng vỡ mộng vàng, anh đã khai không sót điều gì. Do được kết nạp đơn tuyến và hoạt động công khai, anh không biết gì nhiều về tổ chức bí mật của Đảng, chỉ kể tên được mươi người, các đồng chí này đều đã rút vào bí mật hoặc bị bắt. Sở mật thám Trung Kỳ vốn giàu kinh nghiệm chống cách mạng, hiểu ngay rằng anh chàng cộng sản tay mơ này đã dốc cạn bầu tâm sự, chẳng còn gì để moi thêm.
Qua các nhà lao, Ba Mậu là một người tù trầm lặng, hay than túc ngực vì những năm “bán cháo phổi”, không dính vào cuộc đấu tranh nào, được cái chịu khó dạy văn hóa cho anh em. Chi bộ nhà tù không móc nối với anh, và anh cũng không tìm cách móc nối. Anh được về nhà sau đảo chính Nhật, chỉ nằm im chờ thời. Anh tự coi mình là con người của thời bình, tự dành mình để ra tay xây dựng sau ngày cách mạng thành công.
Tổng khởi nghĩa toàn thắng trong khi Ba Mậu trùm chăn. Khi thấy chính quyền ta đứng vững, Ba Mậu tính chuyện “tham chính”, thì những chiếc ghế quan trọng nhất đã có người ngồi. Anh chạy tìm các đồng chí cũ, chầu chực khá lâu mới được bổ làm hiệu trưởng một trường trung học ở Đà Nẵng. Anh cứ tạm nhận thế đã, tuy chưa ưng ý.
Chỉ vài tháng sau, khắp nước ầm ầm binh lửa. Anh bỏ trường chạy về quê ở Tây Quảng. Khi Pháp đánh tràn ra các huyện Bắc Quảng Nam, anh đưa vợ con chạy tiếp vào Quảng Ngãi, ở nhờ cha mẹ vợ khá giàu, lánh né công tác và bạn cũ, chỉ mở một lớp dạy tư cho có việc làm.
Mùa thu 1947, khi thấy rõ quân Pháp kiệt sức không lấn nổi tới Nam Quảng Nam, anh một mình trở ra huyện Tây Quảng. Những ai biết anh đều ngạc nhiên khi thấy một đồng chí kỳ cựu nhu thế lại vui vẻ nhận làm chánh văn phòng Ủy ban kháng chiến huyện, dưới quyền lớp cán bộ trẻ măng. Do đó, anh được sinh hoạt Đảng trở lại rất dễ dàng, không coi như đứt liên lạc trong tù. Rồi anh được cử làm phó chủ tịch huyện, thay một đồng chí trẻ hơn được điều vào địch hậu. Anh chỉ vấp khi ứng cử vào huyện ủy, số phiếu của anh vào hạng thấp nhất. Từ đó những cơn tức ngực của anh tăng dần, đến cái độ anh phải xin thôi việc, vào Quảng Ngãi chữa bệnh bằng thuốc gia truyền của ông lang nào đấy không rõ.
Tháng tư 1948, Cả Chanh mừng muốn reo khi Ba Mậu tới cơ quan sở hỏa xa, chìa ra quyết định cử anh làm bí thư Đảng ủy Sở. Cả Chanh lâu nay gạ xin hết người này đến người khác đều không được, nay cấp trên bỗng ưu tiên đưa về một đảng viên kỳ cựu, văn hóa cao bậc nhất trong hàng cán bộ toàn liên khu, lại là ông thầy cũ trong tù và người đồng hương trên tuổi của Chanh! Ai ngờ các đồng chí lãnh đạo lại khéo chọn và sâu sát đến thế! Chỉ trong vòng mấy ngày, tất cả các đơn vị thuộc sở hỏa xa đều nhận được thông báo của ông Phan Chanh giám đốc, cho biết ông Trà Đình Mậu tức Ba Mậu đã về làm chánh trị viên sở hỏa xa, kèm theo chữ ký mẫu và mấy dòng tả nhân dạng người lãnh đạo mới. Còn tất cả số cán bộ gần gũi chung quanh cơ quan sở đều được nghe lời dặn miệng của anh Chanh rằng phải tuyệt đối phục tùng bác Ba Mậu, chớ vì bác ấy mới vào ngành mà coi nhẹ các chỉ thị của bác.
Trong tuần trăng mật giữa giám đốc và bí thư Đảng ủy, anh Ba Mậu làm hàng loạt những việc được lòng người. Anh thu xếp nơi ăn ở của công nhân viên chức hỏa xa tốt hẳn lên. Anh được cấp trên cho tăng giá vé vì giấy bạc tín phiếu mất giá, moi thêm khá tiền từ túi bọn con buôn “chửa ở Tam Kỳ, vô Bông Sơn đẻ”. Anh xin được phép huy động dân công các địa phương có đường sắt chạy qua để sửa cầu đường bị máy bay và pháo biển đánh phá. Anh sắp xếp lại giờ giấc làm việc của cơ quan sở, không để cho bất cứ ai tới đòi giải quyết vào bất cứ giờ nào. Anh cho lắp sửa hai chiếc xe goòng máy chạy bình ga, một cho Ban giám đốc, một cho tổ kiểm tra đường chạy trước đoàn xe... Còn nhiều, nhiều nữa. Đã bắt đầu có dư luận xì xào chê rằng anh Chanh biết nghề nhưng kém tài tổ chức, lao theo máy móc mà bỏ quên con người. Chanh nghe, cười: “Nói vậy đúng quá đi chớ! Mình quen sửa xe thôi, để bác Mậu lo khâu tổ chức là phải...”.
Thật tình, Chanh không quá ham máy đến xa người. Chỉ tại những khó khăn của ngành đường sắt kháng chiến cứ chồng chất mãi, Chanh chạy theo không kịp. Cầu đường bị đánh hỏng tăng lên, số đầu máy hơi nước cũ kỹ bị hỏng hóc tăng lên, số toa xe cháy tăng lên, số thợ giỏi quá túng đói phải bỏ nghề tăng lên... Chanh phải dùng tất cả tài ngoại giao, tình bạn cũ, vô số kiểu “có đi có lại”, cả tay nghề riêng của mình để giữ cho xe lửa chạy đúng chuyến, đủ toa. Ban đêm anh theo tàu một quãng hay suốt tuyến để biết bệnh của máy móc. Ban ngày anh chạy đến những nơi sửa máy của hỏa xa, quân giới, lôi cả thợ tư giỏi theo mình đi khám sửa xe và cùng họ gia công một chi tiết phức tạp nào đấy. Mỗi khi xôi nhão với muối mè không đủ ngăn một cơn đau dạ dày quật lại, anh cõng ba-lô lảo đảo về nhà vợ, lấy những thang thuốc nam mà Thùy làm sẵn, sắc uống vội vài thang, nằm vài hôm - nằm nhung không nghỉ, vì không ngớt người đến ngồi bên giường bàn việc, lấy chữ ký.
Dần dà, những ý kiến khác nhau giữa bí thư và giám đốc ngày càng nhiều mỗi khi xét việc và dùng người. Ba Mậu đẩy hết trách nhiệm về chuyên môn cho giám đốc, nhưng lại muốn quyết định ai làm việc gì trong bộ máy hỏa xa. Anh lần lượt đưa những người gọi dạ bảo vâng vào thay thế người thành thạo, ban đầu ở các bộ phận hành chính và tiếp liệu, về sau lần tới các đội lái xe, sửa máy, cầu đường. Những người ấy nối tiếp nhau vào Đảng, có khi chỉ cần nói miệng chứ chưa kịp viết đơn. Trong các cuộc họp chi bộ, Đảng bộ, họ ngoan ngoãn giơ tay biểu quyết theo lời dặn trước của bí thư, đưa Chanh vào thế bí. Còn những ai đã từng làm việc với Chanh hồi trước và sau Cách mạng tháng Tám đều dần dần bị gạt sang bên vì lý do “liên quan với đế quốc”.
Vài tháng trước khi nhà bị bom, Chanh được Ban tổ chức Liên khu ủy gọi lên để trả lời về những thư tố cáo không rõ của ai. Quan liêu, thiếu sâu sát, không ngó ngàng tới công nhân, lấn lướt tổ chức Đảng, coi khinh tập thể, chuyên quyền độc đoán, mất lập trường nghiêm trọng khi dùng thằng Ghi-ôm-mê, mất cảnh giác trong hôn nhân... Chanh cắm cúi ghi sổ tay theo lời kể tội của đồng chí cán bộ tóc trắng có nét mặt và giọng nói rất cha chú, từng lúc hạ kính lão từ trên trán xuống, nhìn những câu gạch đầu dòng trong cuốn vở dày, xem xong một câu lại nói hàng chục phút lý luận chung chung.
Chanh hiểu ngay nhũng lời tố cáo ấy từ đâu ra, nhằm mục đích gì. Anh được một đêm suy nghĩ trước khi trả lời. Trong cái đêm trắng quá dài ấy, anh chỉ lật đi lật lại một câu hỏi: ở hay đi? Một câu hỏi gốc thôi, nhưng có cả chùm rễ chằng chịt bám theo...
Bác tóc trắng tên là Đậu Chí Xích, thường được gọi sau lưng là “Ông Cực Đỏ”, tỏ vẻ ưng ý khi nhìn nét mặt phờ phạc và đôi mắt trũng sâu của người cán bộ trẻ. Bác đã cố quất roi cho thật đau, thật thấm, buộc Chanh phải giật mình hối lỗi, chứ đám mới lớn lên là chúa hay ngông nghênh. Đọc xong lá thư ngắn mà Chanh lẳng lặng trao, bác cau mày gỡ kính:
- Nghĩa là đồng chí không chịu phản tỉnh?
- Khuyết điểm được nêu lên rất nhiều, rất nặng. Tôi xin có thì giờ để tự kiểm tra và báo cáo sau, bằng giấy.
- Còn xin từ chức giám đốc nữa. Phản ứng tiêu cực phải không? Đồng chí tưởng không có ai thay thế nổi, giở trò làm eo với tổ chức, hả?
- Trái lại, vì thấy có người thay nên tôi rút lui. Cũng không đi dâu xa, tôi xin xuống xưởng sửa chữa của hỏa xa, trở lại nghề cũ là thợ khám xe, vừa sức tôi hơn.
- Nè đồng chí Chanh, tôi coi đồng chí như con cháu, muốn khuyên đồng chí đừng gây khó khăn cho tổ chức...
Chanh nói lạnh như đồng:
- Tôi cũng khuyên đồng chí đừng coi tôi như con cháu, mà coi là giám đốc sở, đã từng làm tỉnh ủy viên và phó chủ tịch tỉnh. Còn tổ chức không phải là cá nhân đồng chí, cũng không phải là người mà đồng chí đã giới thiệu để cấp trên chỉ định làm bí thư Đảng ủy trong khi chờ đại hội Đảng bộ. Đồng chí nhớ xem lại: người nhận thư này là trưởng ban tổ chức chứ không phải là đồng chí, yêu cầu chuyển đúng địa chỉ. Tôi rất bận phải về gấp, đồng chí định nói thêm gì nữa không?
Chanh thoáng một chút ân hận khi bác Cực Đỏ tắc họng, ngây mặt, sững người. Trên đường cuốc bộ trở về cơ quan cách hơn chục cây số, anh lại bật cười: đảng viên cộng sản mà cứ vướng mãi cha chú với con cháu, kính lão đắc thọ, làm sao tháo gỡ được những mối bòng bong hiện ra ngày càng nhiều trong kháng chiến?
Sau lần gặp ấy, ngành hỏa xa tiếp nhiều vị khách tò mò. Chỉ có Ban giám đốc được xem giấy giới thiệu: họ là phái viên các Ban tổ chức, bảo vệ, kiểm tra Đảng thuộc Liên khu ủy, là cán bộ công an. Họ mượn xem một số hồ sơ, hỏi riêng một số người, dành nhiều thời gian để đi theo các đội các kíp đang làm việc, cà rà dò la nhiều đến nỗi anh em tự vệ hỏa xa bắt giữ liên tiếp hai đồng chí, giải về cho giám đốc xử. Cười trừ với nhau thôi.
Chanh được gọi lên lần nữa. Tiếp anh lần này là đồng chí ủy viên thường vụ Liên khu ủy, trưởng ban tổ chức cùng năm sáu cán bộ khác. Có cả bác Cực Đỏ tóc trắng, vồn vã lẫn ngượng nghịu. Các phái viên đã soạn chung một biên bản tỉ mỉ, một đồng chí đọc hết tập giấy đánh máy bằng giọng trung tính. Chanh càng nghe càng sửng sốt. Hầu hết những lời tố cáo anh bị bác bỏ. Phần lớn những người viết thư tố cáo nhận rằng họ không biết rõ sự thật ra sao, chỉ dựa vào tiếng đồn hoặc làm theo lời khuyên của một ai đó có dính dáng tới Ba Mậu. Biên bản cũng vạch ra không ít thiếu sót của Chanh: chạy theo chuyên môn mà quên lãnh đạo toàn diện, thiếu kiểm tra đôn đốc khi giao việc dùng người... Còn lại một chỗ chưa kết luận được: đưa một nhóm người Pháp, Đức, Nhật, Bắc Phi vào các xưởng sửa chữa là đúng hay sai?
Chanh cố trình bày ngắn gọn.
Kháng chiến kéo dài, số hàng binh và tù binh tăng lên mãi. Hàng binh được học một lớp ngắn và tuyển vào các xưởng ở hậu phương, hoặc được cấp vốn để sống và làm ăn trong vùng tự do. Về sau, số tù binh cải tạo tốt cũng được vậy. Trong một chuyến công tác tại Nam Quảng Nam, Chanh ghé thăm trại tù hàng binh do anh Ung Viết Khánh làm trại trưởng, mới biết trong trại có một số đã từng làm nghề xe lửa. Dò theo danh sách, anh ngạc nhiên khi đọc tên viên kỹ sư An-be Ghi-ôm-mê, trước đây làm trưởng đề-pô ga Quy Nhơn, giỏi nghề và biết điều đối với thợ. Hồ sơ ghi rõ hắn bị bắt ngay vào giờ đầu của kháng chiến toàn quốc, trong biệt thự ở xa khu lính Pháp đóng tại Đà Nẵng, không có vũ khí, đang thu xếp để trở về Pháp bằng tàu biển. Hai Khánh còn giúp Chanh chọn thêm được kỹ sư cầu đường người Đức Các Vô-béc, bỏ lính lê-dương chạy sang ta giữa năm 1947, cùng bảy người nữa đã từng làm nghề xe lửa và cơ khí - hai Đức, ba Nhật, hai Ma-rốc. Sở công an liên khu đồng ý cho cả chín người này vào làm trong ngành hỏa xa.
Ghi-ôm-mê được cử làm trưởng nhóm “cố vấn kỹ thuật” tại xưởng sửa chữa, làm việc rất tốt. Số thợ lâu năm sẵn sàng hội ý kiến hắn, nghe lời hắn khuyên. Nhưng nhiều thợ trẻ lại rất bực tức: đang đánh Tây mà để cho thằng Tây dạy khôn mình, chỉ huy mình! Ông Chanh với các bác thợ già biết tiếng Pháp ít nhiều lại bàn với chúng nó những gì ba xí ba tú chẳng hiểu, nghe ngứa tai quá đỗi! Ba anh thợ giày thành Gia Cát Lượng, rước kỹ sư Tây về là nuôi ong tay áo, là mất lập trường địch ta!
Anh trưởng ban tổ chức, một người rất gầy và nhỏ vóc, nghe nhiều nói ít, hay gõ cây bút bi xuống bàn như chấm câu cho người đang nói, bỗng dựng đứng cây bứt lên:
- Thằng Ghi-ôm-mê tôi biết. Các đồng chí Bình Định sắp xếp cho tôi nói chuyện với nó hai lần, trước và sau đảo chính Nhật. Nó ghét Pê-tanh, ưa Đờ Gôn, nhưng không dám ủng hộ Việt Minh vì nhát gan. Nó chỉ hứa để mặc ta làm gì thì làm, nó nhắm mắt bịt tai, về sau cũng đúng y vậy. Dùng nó vô nghề xe lửa là phải chỗ. Còn số hàng binh tù binh đã được Công an duyệt cho vô xưởng đứng máy thì được thôi. Hồi đang đánh gắt, bọn Hít-le cứ đưa tù binh Liên Xô vô các xưởng làm võ khí bên Đức vì thiếu thợ, tất nhiên là nó không cho hưởng lương công nhân như mình mà xài chết bỏ... Thêm chút về thằng Ghi-ôm-mê. Mới đây tôi gặp lại, nó năn nỉ nhờ tôi dỗ một cô ở Tam Quan chịu lấy nó. Nó mê tít mất ăn mất ngủ, cô kia cũng mến mến mà cứ sợ mang tiếng lấy Tây... dân mình khinh me Tây từ xua, đẻ ra con Tây lai chẳng ai muốn gần...
Mọi người cười ồ. Không khí chung nhẹ hẳn đi. Anh em phái viên xúm vào bàn góp ý với Chanh làm sao đưa ngành hỏa xa lên mạnh hơn nữa bằng giọng cùng bàn việc nhà. Một hũ đất nung đựng bia tự làm được bê lên, thứ bia chế bằng đậu xanh và nước tiểu trẻ em, tùy trẻ trai gái mà họ gọi là bia đứng hay bia ngồi, đều lên men và sủi bọt khá mạnh. Chẳng ai chê đâu, nước tiểu trẻ em là thứ thuốc nam quen dùng. Tiếp đó là một chầu phở sắn với thịt chuột đồng béo ngậy, cơ quan mới góp sức diệt chuột hôm qua. Đang thiếu gạo nên ta cấm tất cả các thứ quà bánh chế bằng gạo, có vài xã bốc đồng cho rao loa buộc dân phải ăn mít già ghế cơm chứ không được để mít ăn chín!
Bác Cực Đỏ đến ngồi bên Chanh, cười làm lành, xởi lởi:
- Khách nhớ đò chớ đò không nhớ khách. Nội bấy nhiêu đồng chí đây, thử hỏi có ai chưa cầm giấy công hành leo lên xe lửa ông Chanh! Cả nước mình còn sót một khúc đường sắt của ông đó, ráng mà giữ nghen!
Cả Chanh trở về cơ quan Sở, gặp ngay bộ mặt hoàn toàn khác của bí thư Ba Mậu, một bộ mặt “chiến tranh lạnh” quá rõ. Nguồn tin riêng của anh ta quả thật là nhanh nhậy, đã đến trước khi Chanh về. Thôi mặc kệ. Chanh chạy đôn chạy đáo, sắp đặt lại những chỗ yếu kém được vạch ra trong cuộc họp. Mới chưa đầy một tháng, tai nạn đổ ụp xuống đầu Chanh: con trai và em vợ chết, đồ đạc cháy trụi, vợ phát điên, dạ dày anh cũng thừa cơ nổi loạn.
Anh em hỏa xa dù túng thiếu vẫn quyên góp được ít nhiều áo quần, gạo, tiền đến giúp anh Cả Chanh mà chẳng mấy khi họ gọi theo chức vụ giám đốc. Chanh cảm ơn và nhận cả, vì quả thật đang cần mọi thứ. Khi anh em gánh cái máy khâu hỏng của Thùy - nó bị hơi bom hất văng ra khỏi nhà nên thoát cháy, chỉ gãy nhiều chỗ - về xưởng định chung tay sửa ngoài giờ làm, thì mấy người thuộc phe Ba Mậu đánh tiếng lo lửng: “Chính ông Chanh cấm tụi mình không được lãnh đồ ngoài đem vô sửa trong xưởng Chánh phủ, dùng máy móc dụng cụ của xưởng. Giờ chiếu cố ổng cũng hay, về sau tụi mình mặc sức xả láng!”. Bảy Tộ nghe được, chửi toáng một hồi, cõng máy vác chân đến xưởng quán giỏi nhờ giúp, họ nhận ngay.
Ông Hai Rề xin nghỉ một tuần đến chôn con trai và cháu ngoại, giúp vợ chồng Thùy thu vén. Mới qua vài ngày đã liên tiếp có tin nhắn mời bác Hai về giải quyết việc gấp của phân xưởng và công đoàn. Hiền như ông mà phải lắc mãi cái đầu ngưỡng thiên: “Thù vặt cũng có hồi có chặp, chớ tụi này lựa khi gia biến mà hắt nước theo mưa!”. Cả Chanh phải giục ông về xưởng. Năm Bưởi ở với Thùy đủ rồi, từng lúc có anh và Sáu Cam chạy về phụ thêm. Cam đang học trường Trung học Bình dân cách Sông Vệ hai chục cây số, làm thêm gì chẳng biết mà thỉnh thoảng lại cõng hay gánh gạo về giúp Thùy nuôi các em, gặng hỏi chỉ cười trừ.
Chanh tính nát nước, thấy chỉ còn cách xin nghỉ dài hạn để chữa bệnh cho mình và Thùy, về dựa cha mẹ ở Linh Lâm. Năm Bưởi lỡ dại chửa hoang, mang bầu đã khá to, không thể đẻ ở nơi tản cư. Về xã, Năm Bưởi đã được ngụy trang bằng một đám cưới giả do Chanh sắp đặt từ trước, không đến nỗi bị bêu giếu. Em trai còn lại của Thùy là Ba Khiêm đã được anh La Giang xếp cho hưởng chế độ thiếu sinh quân, học tiếp ở nơi phân tán của trường Lê Khiết, tạm ổn ít lâu.
Gượng mãi theo nghề xe lửa chạy đêm, sa lưới mãi trong bụi tre gai của phe Ba Mậu, cố nén mãi những cơn đau dạ dày, khoán trắng mãi việc kiếm sống nuôi nhà cho Thùy, không được nữa rồi. Đau lòng đến mấy cũng đành rời hỏa xa thôi.
Cả Chanh phải chịu rẽ bước đi ngang.
Chú thích:
[1] Tan vỡ, sụp đổ