Chương III
Mặt trời tháng Bảy mới lên hai con sào đã nung đất hừng hục. Năm Chò che bàn tay trên trán, nheo mắt nhìn qua lớp hoa nắng từ dưới tuôn lên ngoằn ngoèo như bọt ruộng lầy trong vụ cấy giữa hè, chỉ thấy cảnh hoang vắng nhức mắt.
Cánh đồng Phú Nhút khô trụi, đến những búi cỏ cũng teo trắng. Mấy vạt bói và tranh cháy nham nhở dọc con đường lên đồn hiện thành một mảng da tóc đày sẹo. Đồn 76 cắm trên núi Voi Quỳ là cái nhọt mưng mủ: dưới chân xanh, lưng chùng ngả úa vàng, một phần ba trên chóp đỏ loét, với những mái nhà tôn và lô cốt nổi trắng như cái ngòi nhọt chờ người nặn. Các họng súng lớn nhỏ từ trên đỉnh ấy ngày đêm chĩa xuống, xổ cái chết trên khắp một vùng rộng mạn Bắc sông Thu Bồn.
Mỗi người gọi tên trưởng đồn Pháp một kiểu. Bọn tề đề trịnh trọng trên giấy là quan trung úy. Lính ngụy quen thay đổi chỉ huy, chuyển đơn vị, đặt cho hắn là ông Hai Bia. Riêng Năm Chò nhớ kỹ thằng quỷ ác này là Pi-e La-phạt, con trai tên chủ đồn điền La-phạt ở Linh Lâm năm xưa. Hắn nói tiếng Việt rất sõi, ăn cơm tẻ chan nước mắm chẳng hề nhăn mặt, nuôi chí phục thù với Việt Minh cộng sản dữ dội, mới về đóng đồn ngót một năm đã triệt hạ bốn làng và ra lệnh giết hơn một trăm người dân dính dáng đôi chút với phía kháng chiến.
Đại đội Năm Chò giết hụt thằng Pi-e nhiều lần. Phục kích hụt, bắn tỉa hụt, nổ mìn hụt. Hắn tinh ranh hơn cáo. Hắn không bao giờ đi càn theo đường cũ và trở về theo đường cũ, không bao giờ mặc đồ sĩ quan và đi đúng chỗ trong đội hình càn quét. Dân làng chỉ nhận ra “thằng tây Bia” mỗi khi hắn đẩy mũ sắt lên trán, bắt đầu hỏi vặn vẹo bằng tiếng ta với cặp mắt nâu trừng trợn, cuối cùng lại ra lệnh tra tấn hay xử từ bằng tiếng Pháp, giọng hiền lành nhu dỗ ngọt.
Ban chỉ huy đại đội mò đêm xem thực địa nhiều lần trước khi quyết đánh trận phục kích độn thổ liều lĩnh này. Năm Chò còn mang liềm theo, cắt một bó tranh và bói úa héo tại chỗ mang về để bộ đội kiếm thứ gì ngụy trang thật giếng màu.
Cách đồn 76 nửa cây số là làng Phú Nhứt, một làng tề không có bọn vệ sĩ, bảo hoàng, mâm hội tề ở đấy thuộc hạng lừng khừng. Địch buộc dân bỏ trắng cánh đồng Phú Nhứt để chúng dễ chiếu ống dòm và họng súng xuống làng. Chúng đốc dân phát dọn và đốt trụi tất cả những gì mọc trên đồng, nhưng không diệt nổi các thứ tranh bói lau lách xứ nhiệt đới cứ tự ý ngoi lên, đổi màu xanh, vàng, nâu tùy theo mùa.
Tối qua, một tiểu đội võ trang tuyên truyền ập vào Phú Nhứt ra lệnh nộp đảm phụ kháng chiến, dẫn theo đoàn dân công chừng năm chục người gánh lúa. Dân làng phần lớn được vận động trước, trút lúa ra nộp, còn giúi riêng cho bộ đội rất nhiều tiền Đông Dương, quà, thư gửi người nhà trên xanh. Hai giờ sáng, cánh quân phục kích tuôn ra giữa cánh đồng, moi đất nằm chìm mỗi người một hố, tãi trên thân bó lá ngụy trang vác theo. Vừa tỏ mặt người đã thấy hai tên trong hội tề cung cúc đi gấp lên đồn. Chắc chắn thằng Tây Bia sẽ dẫn một trung đội xuống làng để lấy lại uy thế quan đồn, xem dấu vết, nhân tiện bắt nộp thêm trâu hò heo gà đền công che chở.
Mười giờ sáng, vẫn chưa thấy động dạng gì.
Lính đã đi lấy nước. Trên quãng đường ba trăm mét dẫn xuống sông Thu Bồn, chúng rải một chuỗi lính gác cách quãng. Hai xe tải và một xe xi-tec từ đỉnh bò xuống theo con đường trôn ốc, lát sau lại rì rì leo lên. Du kích xã hai lần chôn mìn tự động phá xe, lần đầu mìn thối, lần sau bị máy rà mìn tìm ra. Núp bên kia sông bắn tỉa thì quá xa, khó trúng, bắn mươi phát lại được hưởng hàng trăm quả đại bác 75 và cối 81 giội xuống.
Rùn người nép sâu vào bụi lau rậm tránh nắng, chính trị viên Ba Dĩnh lật cái mũ phớt méo mó, lau cái đầu trọc bóng như thày tu, thì thào:
- Hay lộ rồi, Năm?
- Không. Lộ, nó đã bắn tưới hột sen, xăm nát đất... Chà chà, ngó coi...
Đằng trước Chò và Dĩnh, các ổ cành lá ngụy trang động đậy mỗi lúc một nhiều, trông như có bầy chuột đồng bò luồn dưới lớp rạ tãi phơi. Đôi lúc một bàn tay thò hẳn lên, gãi vội vàng một chỗ ngứa quá quắt trên cổ lưng mông, lại thụt xuống như con chuột sợ người. Hoạt động trong một vùng bị địch phá sạch giếng, mương, đập giữa mùa đại hạn này đại đội bị ghẻ khá nhiều. Hôm nay nắng thiêu rát lưng, bụi đất và lá khô lọt đầy dưới áo, anh em ngứa điên rồi. Khác với những tiếng bật ho khi đánh đêm mà ai cũng nghe được, lúc này bộ đội nằm rời nhau, không thấy nhau, ai cũng tưởng chỉ một mình mình “tranh thủ cào chút xíu”.
Thêm nửa giờ nữa. Cả trận địa phục kích ngọ nguậy không sót chỗ nào. Chỉ cần tên lính gác trên chòi canh cao vót kia tình cờ chiếu ống dòm xuống đúng mảng đất xơ xác này...
Một tiếng “pình” bật lên trên đồn, tiếng nổ đầu nòng của cối 81 lắp thêm liều phụ. Các đám lá ngừng động đậy tức khắc, ngót tám chục bộ ngực ngừng thở. Quà đạn treo mãi trên trời không chịu xuống, cũng không rít réo như khi tìm thấy lưng đối phương. Một cột khói trắng đặc bùng lên đằng xa, cách đại đội ngót ba cây số. Địch ngắm vượt qua làng Phú Nhút dồn dân, qua làng Phú Nhị bị hủy diệt, bắn vào làng kháng chiến Phú Tam, bàn đạp tiến đánh của đại đội!
Quả đạn lấy đích vừa nổ, tiếng súng nhỏ, lựu đạn, cối 60 rộ lên dọc bờ rào Phú Tam. Năm Chò nghiến chặt răng, dỏng tai, cố ước tính số quân địch qua tiếng nổ. Rồi anh thở phào:
- Không quá một đại, du kích chơi được. Mẹ cố tổ thằng Tây Bia, lại dẫn lính đi vòng, đánh bọc hậu..
- Cho rút chớ, Năm?
- Tẩu thôi cụ ơi. Truyền lên: lui về chỗ tập kết, bò thiệt kín!
Từng tiểu đội rời hố núp, bò dọc con mương khô. Năm Chò ngồi chỗ khuất đầu mương, thỉnh thoảng đét mạnh vào đít một cậu bò chổng đầu cao, sửa một túm lá ngụy trang bị tuột. Ba Dĩnh cố gương mẫu quá lâu, lúc này cầm cả một que củi nhám luồn vào sau lưng, cọ sồn sột dưới áo cho thỏa, đôi lúc nhắc một trung đội trưởng bò qua:
- Hễ đụng đầu tụi nó, đừng ham đánh, chỉ mở đường về xóm Đuồi Phú Nhị thôi nghen.
Đại đội đã lọt gần hết vào góc khuất, dưới chân một gò thấp có nhiều vạt mua và ngũ sắc. Tiểu đội cuối cùng tưởng bở nhỏm dậy đi lom khom. Ba tiếng súng bật liên tiếp trên chòi canh, rồi một loạt trọng liên xả tới choác choác pùng pùng, tóe lửa đỏ trên đá.
Năm Chò hét to:
- Súng lớn đang bắn về Phú Tam, chưa kịp lấy đích. Chạy bây, chạy thí xác!
Hai pháo 75 và bốn cối 81 đang nã tới tấp về hướng khác, chưa kịp xoay họng thật. Chùng năm phút sau, đạn 81 mới ầm ầm đánh xuống chỗ chân gò hoang, sau lưng đại đội.
Tiểu đội trưởng Xứng ủ rũ đi cuối cùng, nghĩ đến hình phạt sắp phải nhận. Theo “lệ làng” của đại đội 8 độc lâp, anh sẽ bị tước súng, lãnh hai quả lựu đạn, tự đi đánh lẻ kiếm cây súng khác về nộp. Mà lính thằng Tây Bia được chủ dạy cho tinh ranh như quỷ, đi đâu cũng kéo bầy theo đội hình chiến đấu, dễ gì chịu vất súng!
Tiểu đội phó Lậm dừng lại đợi bạn:
- Lỗi chung, ta chịu chung. Mày cứ nộp mút-cơ-tông, về nằm tại chỗ chòi rẫy bà Thân, tao đem cho cây trường Mát. Đạn thì xin thằng Mãnh bắn trung liên vanh-cách, nó sớt cho.
- Úi mẹ, mày kiếm hồi nào tài vậy?
- Bữa đánh ghe tuần của ngụy đó. Đêm tao ra sông mò lại, mót được một cây đem giấu. Đời thằng lính, tránh sao khỏi có hồi đạp cứt trâu!
Đúng như Năm Chò đoán, khi đại đội vòng tới bờ rào kháng chiến Phú Tam thì quân Tây Bia đã rút về đồn qua đồng trống, dưới làn đạn đủ cỡ bắn che. Còn may, chúng chỉ thọc vào đầu xóm, bắn bị thương một em chăn trâu, giết một trâu hai bò buộc dây lôi theo, đốt bốn cái chòi gần như rỗng. Tất nhiên, các ông bà già lại buông đôi lời nói gay, các cô du kích được dịp ghẹo bóng gió những anh bộ đội không đánh địch mà lánh địch, tìm chỗ vắng nằm gãi ghẻ. Chỉ riêng số cán bộ xã im lặng đăm chiêu: sáng sớm nay, anh huyện đội phó đến cho biết đại đội Năm Chò được lệnh rút về vùng Nam sông Thu Bồn để luyện quân nửa tháng. Chưa rõ sẽ có đơn vị nào thế chỗ hay không.
Đại 8 độc lập vượt sông hơn một năm trước cùng với ba chục cán bộ và du kích bị bật ra khỏi quê hương. Rất nhanh, họ đánh bốn trận, móc nối với số cơ sỏ còn nằm chìm trong lòng địch, lập các đội võ trang tuyên truyền, xây dựng lại bộ máy chính quyền bí mật, diệt liên tiếp những tên Việt gian hung hãn nhất. Địch hối hả rút bỏ mấy chục tháp canh và bót gác cho đỡ mất lính mất súng, dồn về các đồn to. Các làng kháng chiến nối nhau mọc lên với ủy ban và du kích công khai, với chi bộ bí mật đã được sàng lọc kỹ, dựng rào đào hầm, mặt đối mặt đánh lại Pháp-ngụy.
Cũng rất nhanh, Năm Phi Đao đi vào huyền thoại. Anh nổi tiếng khắp nơi, về nhiều mặt rất ngược nhau.
Bọn ngụy binh truyền miệng vô số sự tích về “ông lớn Việt Minh” giỏi võ, thạo gồng, mang bùa ngải đạn bắn không thủng, ném dao vèo vèo như súng máy, bấm độn mà biết được mọi thứ mẹo rình hạ sát mình để quật lại đích đáng. Cán bộ và du kích các xã hiểu Năm Chò là anh chỉ huy gan góc, lì lợm, dễ thân dễ gần, khéo nịnh một chút thì sẵn sàng chia sẻ súng đạn cho địa phương, hay xiêu lòng vì rượu và gái. Anh em chiến sĩ quanh năm ăn ngủ với Năm Chò coi anh là vị gia trưởng rất thương lính mà cũng rất hắc: hắc với những ai nhút nhát, ích kỷ, gian dối, thương người đánh giỏi, gắn bó với anh em nó và làm thật bụng. Còn các cấp trên, tiểu đoàn và trung đoàn, thì nhận xét gọn hơn: chiến đấu tốt mà chính trị kém, gan mà ẩu.
Đồng chí chính trị viên cùng Năm Chò vào địch hậu giữa năm 1948 bị đuổi gọn về trung đoàn. Anh này cùng với mấy cán bộ trung đội tiểu đội chung hoàn cành bị “trả lại cấp trên”, làm một báo cáo rất dài kể tội Năm Chò đang biến thành tướng thổ phỉ. Ban chỉ huy trung đoàn lục hồ sơ ra xem, thấy chính trị viên tiểu đoàn Lê Dĩnh - anh phu khuân vác cảng Đà Nẵng hồi xưa - là người thứ nhất giới thiệu Năm Chò vào Đảng bàn giao luôn cho ông lão làng trọc đầu làm vai luyện cọp, bởi Năm Chò đã được gọi là “hùm xám Thu Bồn”.
Vài tháng sau, Ba Dĩnh vượt sông về báo cáo tận nơi:
- Năm Chò đuổi chính trị viên: vì cậu này quá sợ, nằm sâu trong hốc núi, chỉ chuyên gọi cán bộ đến để làm báo cáo gửi lên trên.
- Năm Chò đánh lính: chính cậu chiến sĩ bị hai bạt tai nhận rằng anh Năm cứu mạng mình, khi anh em dọa xử tử vì tội ăn cắp của đồng đội một đồng hồ với một nhẫn vàng, nhà cậu ta túng đói quá... Anh Năm đã hỏi trước, cố ý làm hùng hổ ầm ỹ để đại đội nguôi cơn giận... Sau đó anh em quyên góp và cử người về giúp gia đình cậu ấy có mẹ lòa, vợ bị thương, ba con nhỏ, rất khốn đốn.
- Năm Chò giết hai tù binh Pháp: có thật, trong hoàn cành đơn vị bị vây cứng, phải bò bốn tiếng ban đêm để thoát vây.
- Nám Chò ham rượu, hay kiếm gái: đúng, phải uốn nắn, xin để từ từ.
Cán bộ trung đoàn bàn tính, thấy Ba Dĩnh cưỡi được cọp thì nên ngồi luôn trên lưng. Chỉ băn khoăn một điều: Dĩnh là cấp dưới của Năm Chò trong bộ đội Nam tiến, nay lên trên Năm Chò hai cấp, liệu có vướng mắc gì không?
Ba Dĩnh cười xòa: Năm Chò chỉ muốn làm chỉ huy đại đội, không muốn lên tiểu đoàn, trên đề bạt chưa chắc cậu ta chịu nhận!
*
* *
Lò chữa ghè là cái miếu thờ hùm beo gì không rõ, nằm xa làng. Trong đợt luyện quân, các trung đội thay nhau ra đây trút sạch áo quần cho vào thùng nấu, tắm nước lá thầu dầu sắc đậm và kỳ cọ các vạt ghẻ đến bật máu, bôi thứ thuốc nam bằng dầu hạt máu chó trộn diêm sinh, chịu giam ba bốn tiếng đến khi thuốc trên thân và áo quần phơi ngoài trời đều khô hẳn.
Hôm Năm Chò cùng chữa ghẻ với trung đội ba, trời lại chơi ác kéo mây mù, mấy chục lính ta tồng ngồng trong miếu đóng kín cửa cứ réo gọi từng lúc, tay Dần cứu thương đại đội ở bên ngoài chỉ trả lời dấm dẳn là áo quần chưa khô, ráng đợi.
Đến lượt Năm Chò ghé miệng kêu qua khe cửa:
- Bác sĩ Đần ơi, nhốt tụi tao mấy ngày?
- Vài tiếng thôi, trời đang ngó lại đó anh.
- Mày lục ba-lô tao, đưa cuốn sách vô đây, thêm cái đèn nữa, để tao làm công tác chánh trị cho lính nó đỡ la làng. Hễ thấy đàn bà con gái tới gần, mày kiếm cớ đuổi đi nghen.
Cuốn sách và cây đèn dầu được tuồn qua khe cửa, đóng và sập rất nhanh. Năm Chò ngả tấm thân đen trũi trên bệ thờ xây vôi, gọi cậu thư ký đại đội:
- Mày cứ đọc cái khúc Trình Giảo Kim là nhứt. Thằng Tần Thúc Bửu làm điệu thấy bà, Đơn Hùng Tín thì ỷ giàu, bỏ ráo đi.
- Lần trước tới khúc Giảo Kim giựt xe bạc của Dương Lâm...
- Thôi khỏi, mày cứ trở lại chỗ cha đó thoát ngục.
Năm Chò lượm được bộ sách Thuyết Đường trong xóm chợ tản cư, táy máy lật xem mấy trang, chẳng ngờ trúng chỗ Trình Giảo Kim nhăng cuội mà vớ bẫm. Từ đó anh mang nó theo như Tam Tạng mang kinh, nhờ anh em đọc cho nghe từng đoạn, chỉ mê mỗi một thằng cha Giảo Kim gần gũi với mình.
Cậu thư ký lật tìm một lát, bắt đầu đọc:
“Va mình cao tám thước, vóc cọp, lưng rồng, mặt xanh, râu đỏ, sức mạnh hơn người. Tuy rằng đồng học nghề văn với Thúc Bửu nhưng lớn lên chẳng thông một chữ. Sau khi phân rẽ với mẹ con Thúc Bửu, mẹ con trôi nổi nghèo nàn, buôn bán kiếm ăn, ngại vì không vốn, phài hiệp với bọn côn đồ mà buôn muối lậu đặng kiếm lời nuôi mẹ”...
Năm Chò lim dim mắt trên bệ vôi, buông một lời hình:
- Mẹ tao chết sớm, tội nghiệp lắm... Đọc đi, mày tốt giọng như nói trên đài...
“... Rạng ngày cửa ngục mở, tù nhơn lần lần kéo ra hết, duy có một mình Giảo Kim cứ ngồi làm thinh. Lính coi ngục hỏi rằng: “Trào đình ân xá tội nhơn, thảy đều ra hết, sao ông Trình còn ngồi đây làm chi?”. Giảo Kim nghe hỏi nổi giận, vả cho tên lính một cái xửng vửng mặt mày mà mắng rằng: “Quân súc sanh vô lễ! Muốn ông ra thì phải dọn tiệc tiễn hành, ông ăn uống no say thì ông mới ra cho chớ, mi dám đuổi khan ông vậy sao?”. Tên lính chẳng dám nói chi, lật đật chạy mua rượu thịt bưng vô một mâm ê hề, bước lại và xin lỗi và mời...”.
Anh đại đội trưởng vỗ đùi đánh đét, cười ha hả:
- Anh chị hết cỡ rồi đó. Hồi tao làm trùm xan ở Chí Hòa cũng chưa dám chơi lút ga thả xăng như lão Trình.
Chung quanh cười ồ, bàn xôn xao:
- Năm Phi Đao chịu thua là chẳng vừa đâu nghen!
- Lính gì như cục thịt thừa vậy? Trúng Tây gác tù thử coi!
- Thằng cha cổ quái thiệt chớ, hì hì...
Có tiếng gõ mạnh vào cửa miếu, tiếp giọng cậu Dần cứu thương:
- Có giấy gởi anh Năm. Đút dưới cửa đó.
Cậu thư ký nhặt giấy, đọc: “Kính anh Năm. Em sắp ra học tiếp ở Liên khu Bốn, đi gấp tới thăm anh một buổi mà các đồng chí không cho gặp. Em sẽ chờ thêm một tiếng nữa chỗ tiểu đội liên trinh. Sáu Cam”.
Năm Chò chồm dậy, réo to:
- Ôi bác sĩ Đần ơi, đưa áo quần đây, thằng em tao ghé thăm được một lát thôi!
- Còn ẩm lắm, mặc vô ngứa da, bao giờ mới lành ghẻ?
- Lành không lành kệ cha tao. Hay là mày lột bộ đang mặc, cho tao mượn... Máy móc thấy mồ. Cái điệu này, tàu bay tới bắn vô miếu, nó cũng giam cứng anh em mình cho chết ráo cạo.
Dần làu bàu gì đấy rồi hé cửa đưa vào một mớ áo quần khô, trên thân cậu ta chỉ còn một quần đùi. Năm Chò mặc vội bộ xi-ta quá dài, gấp gấu quần lên vài nếp, vớ nịt súng ngắn và túi dết, tất tưởi vừa đi vừa chạy.
Trạnn gác của liên trinh đặt xa đại đội gần hai cây số để giấu chỗ đóng quân, không chừng Sáu Cam đợi lâu đã bỏ đi. Nhưng Năm vừa qua trước ngõ nhà đại đội bộ đã nghe Ba Dĩnh gọi:
- Vô đây, Năm!
- Tôi đi gấp cụ ơi. Thằng Cam tới…
- Thì coi thử ai đây! Mình lượm được chỗ trạm, giải về lấy cung.
Năm Chò ngẩn mặt nhìn cậu lính trẻ trong nhà bước ra, miệng cười toét mà mắt chớp lia lịa, vươn hai tay chụp vai anh. Nó, đúng nó rồi!
- Thiệt mày hả Cam? Sao khác quá vậy nhỏ? Gặp ngoài đường, dám đánh lộn vài chục hiệp rồi mới nhận anh em đó!
Anh ôm ghì Cam, cố nuốt tiếng nấc đã trào tới cổ. Đợi cơn xúc động qua hẳn anh mới buông Cam ra, đặng hắng liên hồi, lấy lại giọng đùa giỡn:
- Đó, nữa, nữa... Râu rậm nửa cái mặt mà tánh nết y như cựu, con gái nặn lầm... Mới nhổ giò mà sao mày cao quá ể vậy em? Ông Ba ngó thử, hồi Nam tiến nó chưa tới nách tôi, bây giờ hơn tôi nửa cái đầu!
Cam xấu hổ quệt vội hai mắt, vào nhà.
Trong khi Cam lúi húi mở ba-lô lấy thư và quà, Năm Chò ngắm thằng em không chớp mắt. Mới hơn hai năm xa nhau, nó lớn vụt lên dễ sợ, có lẽ cao một thước sáu lăm rồi - Năm quen đo người khi lựa lính, đoán ít sai - và còn lớn lên nữa, mới mười bảy tuổi thôi mà. Năm cũng nhận ra những nét giếng và khác nữa giữa Cam với anh chị em nhà Cả Chanh. Giếng nhau ở lông mày nét mác, mắt hơi xếch, cái cằm chẻ. Nhưng Cam khác ở nước da trắng hơn, mái tóc mềm hơi lượn sóng tự nhiên, đặc biệt là bộ râu quai nón mọc sớm và khá rậm. Các con trai ông Tư Chua đều có vóc người trung bình, da hơi nâu, tóc dựng cứng bàn chài, lớn lên hiện râu ba chòm lưa thưa.
Lá thư Cả Chanh chỉ viết chung chung rằng anh được nghỉ chữa bệnh vài tháng ở Linh Lâm, rủ Năm Chò hồi nào về họp tỉnh hay liên khu thì ghé chơi ít bữa. Nhưng dường như anh cố ý viết rõ rằng Năm Bưởi lấy chồng bộ đội đầu năm ngoái, sau khi sinh con thì được tin chồng hi sinh ở Tây Nguyên, nay cũng về Linh Lâm sống với anh và Hai Thùy.
Đọc xong lá thư anh Chanh, dưới có thêm mấy dòng thăm hỏi ghi thêm của chị Bưởi, Cam mới trách nhẹ:
- Anh Năm lại quên hết mặt chữ rồi hả?
- Chưa quên, mà tao đọc chậm quá, mất hay... Cam nè, mày đậu tới cái bằng gì mà phải lặn lội ra tới Việt Bắc học tiếp?
- Bằng gì đâu anh. Em học hết Trung học bình dân thôi, hồi Tây coi như đậu đíp-lôm. Gặp hồi chị Thùy bị bệnh, anh La Giang bàn tính đưa em ra khu Tư học tiếp trung học chuyên khoa, túc là ban tú tài. Em không muốn mà anh Cả bắt phải đi. Anh La Giang được chuyển về quê ở Hà Tĩnh, trường chuyên khoa cũng đóng gần nhà ảnh. Em xin nhập ngũ, các ảnh nhứt định gạt hết... Hay là anh Năm cho em ở lại... Em cứ bám đây, làm lính của anh như hồi xưa...
Trước mặt Năm Chò là cả một mớ quà miền núi: quế kẹp to gài những que tre ngang như nấc thang, thuốc nguyên lá Thượng vàng hườm, chè đọt xoắn móc câu, mít khô ngào với đường và mè, chuối khô ép nguyên quả, dứa khô xắt lát. Bà mẹ Tám chủ nhà bưng lên một mâm tú hụ không có chỗ đặt, kêu to:
- Dẹp chỗ đi bây. Mì Quảng nhưn heo rừng đây, đứa mô chê phải nói rõ, lần sau khỏi mời... Tổ đãi được con heo sụp hầm ngon thịt lắm, mì tao làm thừa chớ không thiếu, bây ăn lõa xê đi, có điều thứ nước cay giữ chừng một chai thôi.
Cam xếp được một ngày đi thăm anh Năm, tối nay phải về tới trạm liên lạc Bắc - Nam ở Trung Phước, một bến vạn lớn trong vùng tự do cách đây mười lăm cây số đường núi. Đoàn đi ra Bắc của anh La Giang dừng tại đấy để tắm giật, làm thêm lương khô, sáng sớm mai đi Bến Hiên. Họ sẽ vượt dãy núi ngang Hải Vân qua đường dốc Búk, một dốc cao nổi tiếng hiểm trở, mất hai ngày sẽ đến trạm Nam Đông thuộc tỉnh Thừa Thiên. Ước chừng non hai tháng đường núi mới tới Hà Tĩnh, nếu không gặp lũ lụt dọc đường.
Năm Chò nhăn nhó trong khi lùa vội tô mì Quảng rất ngon:
- Kế với hoạch, mấy cha nội đó làm bộ làm tịch hoài... Mày cứ ở chơi với tao ít bữa, các chả nhứt định đợi. Đi học xa phải đủ áo quần, thuốc men, tiền nong, mà cái ba-lô mày xẹp lép nằm kia.
- Khó lắm anh. Ai cũng có công tác gấp, em phải nhập học kịp ngày. Mà ta ở đây đang đại hạn, chớ trên núi mưa dông đã nhiều. Giao thông các trạm nói đoàn này ta tới khúc Quảng Trị chắc bị mắc lụt... Anh thấy sao, em ở luôn được không?
- Nhận mày ngang xương, anh Cả mày dám tử hình tao lắm. Mày không nhớ cái trận ảnh làm dữ ở Quy Nhơn năm xưa à? Tay mặt ảnh túm cổ tao đẩy trở về bộ đội Quảng Nam, tay trái ảnh chặn cổ mày bắt ngồi xuống ghế nhà trường, cấm không cho cãi oong đơ gì hết trơn trọi. Mà tao thấy mày sáng dạ, học hành tấn tới đi học tiếp là phải quá. Thôi thì vầy: mày đừng về bộ, đêm nay có ghe chở hai thương binh ngược sông về bệnh xá, mày quá giang lên Trung Phước cho khỏe. Để buổi chiều tao chạy thử, sắm được chút ít thì thêm vô... Tiền mày được bao nhiêu?
- Ra ngoài, anh La Giang hẹn cho em hưởng sanh hoạt phí bộ đội, hay là thiếu sinh quân. Yên chí lớn!
- Phụ cấp một tháng chưa đủ mua một bánh xà-bông nội, lỡ đạp bể bánh tráng người ta phơi, mày cởi áo ra đền à? Khai thiệt tao nghe!
- Đủ xài mà, anh Năm. Em có nhậu nhẹt gì đâu mà tốn.
Năm Chò “hự” trong mũi, ăn tiếp trọn bữa. Đợi khi Cam buông đũa kêu no kênh, anh lẳng lặng đến sau lưng Cam, nắm hai tay Cam bẻ quặt ra sau như cùm sắt, bảo Ba Dĩnh:
- Trời đánh tránh bữa ăn. Giờ cụ moi hết túi nó ra, đếm thử.
Sáu Cam chỉ có tất cả hai trăm sáu chục đồng Tài chính. Tờ tín phiếu liên khu Năm chỉ tiêu được ở vùng Nam đèo Hải Vân, vào trong xa kia sẽ giáp mặt tờ tín phiếu Nam Bộ. Tất cả các đồng chí đi ra Bắc đều được đổi lấy lại giấy bạc Bộ Tài chính do chính phủ ta in năm 1946, tiêu suốt từ Thừa Thiên đến Việt Bắc, chỉ khi qua vùng Pháp chiếm mới bị lúng túng giữa tiền Cụ với tiền Đông. Thế nhưng Cam kiếm đâu ra tín phiếu mà đổi!
Năm Chò buông tay em, khẽ nói ngậm ngùi:
- Nghe nói anh Cả chị Hai mày túng thiếu, đâu có ngờ lại nghèo quá quắt vậy. Thằng em đi học ba năm lên ông tú, xoay được có bấy nhiêu. Hai trăm sáu giấy bạc trâu xanh, được hơn hai chục ký gạo, tao ở đây biết giá cả khu Tư hơn mày... Ông Ba ơi, lính cũ đơn vị Nam tiến đi học xa, ông mở khóa quỹ đen được chưa?
- Sẵn sàng. Ác cái, chỉ có tín phiếu với đum đum[1]...
- Cứ đưa. Tối nay tôi lên Trung Phước với nó, mờ sáng về. Mụ Tài trên đó buôn hàng ngoại Thừa Thiên, thiếu gì bạc trâu xanh. Bỏ dum dum ra đổi tiền Cụ cho thằng nhỏ đỡ rách...
Năm Chò kéo Cam ra sông tắm trong khi Ba Dĩnh đi tìm quản lý.
Vào giờ trưa đứng bóng này, sông Thu Bồn sáng chói như tấm gương soi cắt cong queo. Bãi cát sỏi ven sông nóng rực, chân người bước ra khỏi chỗ rợp cứ như dẫm trên nền tro một nhà mới cháy, chỉ chạy lúp xúp mới khỏi bị thui chín. Một cặp cu đất gù gù đâu đó trong lá, giọng ngái ngủ như người ngáy to. Ven bờ cây ngũ sắc một con bìm bịp lách mình vào lá rậm, thoáng chìm mấy mảng lông nâu và đen. Suốt năm qua quân Pháp chỉ càn tới đây một lần, chưa đốt phá được nhiều, chỉ thỉnh thoảng bắn lên vài chục quả pháo 75 ly.
Năm chỉ cho Cam cái đồn Voi Quỳ mé dưới, cách chừng bốn cây số, màu đất nạo trụi trên chỏm càng hiện đỏ nhức mắt dưới nắng nung:
- Tao chưa hạ được thằng quỷ sứ mắt khỉ, chưa chịu đi nơi khác đâu. Nó sống dai như đỉa, cố bám vùng này cũng như đỉa. Nó treo giá đầu tao ba chục ngàn tiền Đông, khá lắm chớ.
Hai anh em rẽ vào chỗ bờ sông lở, tắm dưới bóng một chòm tre đổ nghiêng, ngâm mình thật lâu trong làn nước mát rượi không gợn phù sa.
Cả Chanh dặn em đừng kể hết chuyện nhà mình gặp khó, ngại Năm Chò động lòng sẽ bươn bả về giúp “đại ca”. Những năm ở đày tớ cũng dạy Cam biết giữ mồm miệng. Cam có thể thưa thốt cầm chừng với hết thảy mọi người, với cả vợ chồng anh Chanh chị Thùy rất mến phục, nhưng chẳng hiểu tại sao gặp anh Năm thì Cam cứ tồng tồng trút ra hết như với một cậu tri kỷ cùng lứa tuổi.
Cam chỉ giấu một điều là đã xoay gạo cách nào để đem về giúp chị Thùy.
Cảnh nhà tản cư mỗi người một gánh trên vai, đến khi chị Hai Thùy sinh bé Tuấn thì cả bốn chị em cùng khốn đốn. Cam học vượt lớp ngấu nghiến, thi lọt vào trường Trung học Bình dân chắc hẳn chỉ vì các anh chị quên nhiều còn Cam mới nhồi đầy óc. Bớt một miệng phải nuôi, chị Thùy cũng bớt hai bàn tay khỏe mạnh giúp chị hằng ngày. Cam định bỏ học tìm việc làm kiếm gạo, nhưng chị Thùy dỗ, dọa, khóc, không cho bỏ.
Ở trường hồi ấy có một số anh chị cán bộ được cảnh gia đình khá giả và không xa, thường nhận tiền, gạo, thức ăn từ nhà mang tới. Cơm tập thể quá kém, một nhóm bảy chị như thế lãnh sinh hoạt phí về nấu bếp riêng. Cần một cậu trai tráng góp sức gánh nước, bửa cùi, giã lại gạo, khi cần có thể đi chợ xa hay mua củi gánh về. Cam được các chị rủ vào chung nhóm vì khỏe, hiền lành, chăm học, lại nhỏ tuổi không lo tiếng đồn tầm bậy. Gặp lứa gạo nhà trường phát quá xấu, đem ra chợ bán sợ bị hiểu lầm là con buôn, các chị bàn cho luôn thằng em út. Nhờ đó vài tuần một lần Cam lại cuốc bộ bốn chục cây số khứ hồi, mang gạo về cho hai cậu em háu đói khi năm bảy cân, khi cả gánh nặng. Lượt lên trường, Cam lại gánh mắm, cá biển và các thứ mua hộ ở chợ Sông Vệ. Chị Thùy la rày mãi không được, đành nhận gạo của Cam. Và Cam không bao giờ dám thú nhận với mình rằng đây cũng chỉ là một kiểu làm thuê giữa những người học chung trường lớp của Cách mạng.
Một búng khói chợt phụt trên đồn Voi Quỳ, màu trắng sáng lấp lánh dưới nắng. Quả pháo 75 ly bay thẳng hướng hai anh em nhưng ngắm tầm gần, nổ bùng chỗ khuỷu sông cong, sau đó tiếng hú và tiếng đề-pa mới vẳng đến tai.
Tiếp một khẩu nữa bắn. Cả hai cây pháo cùng chúc nòng nã chéo dồn dập sang bờ Nam, dội tiếng vang giòn của những tấm tôn ném trên sân xi-măng. Năm Chò gắt một mình:
- Mấy chả lại rập rình vượt sông giấc trưa. Thằng Tây Bia có ngủ gật đâu!
Chú thích:
[1] Tiếng lóng, chỉ giấy bạc Đông Dương của Pháp.