← Quay lại trang sách

Chương V

Vừa bước qua chỗ rào trổ sau nhà, anh Bảy Quý đứng sững lại, mặt ngây ra.

Từ sau lớp phên tre không trát dội ra nhũng tiếng hăm dọa. Tiếng đập, vỗ. Tiếng thở hầm hập và hừ hự trong mũi đầy hăm dọa. Tiếng chân dẫm đất và tay cào. Cả tiếng cười rinh rích của phụ nữ... Quái thật, vợ chồng tay bác sĩ Nhật giở trò gì đây?

Anh Tô Xáng bước dấn tới, vòng ra trước cửa. Cả đoàn kéo theo. Họ thấy ngay một cảnh khó hiểu.

Cậu Ta-kê-đa mặc áo quần bà ba, thắt dải vải ngang bụng, đi chân đất, đang xuống tấn và vờn hai tay tới trước. Cô vợ Bích Thủy cũng mặc hệt như chồng, đứng trên chiếc chiếu rách với dáng điệu hoảng hốt. Bỗng Ta-kê-đa gầm lên:

- Ô-xa-ê kô-mi!

Bích Thủy nhảy lùi, cười rú:

- Mai-ta! Em mai-ta rồi mà!

Chợt trông thấy đám người đứng trước thềm ngơ ngác. Thủy kêu rối rít:

- Khách đến kia, anh Đa! Thôi, ma-tê, ma-tê, nghỉ thôi[1]. Mời các anh chị...

Mặt còn đỏ rạng và mím môi cố nín cười, Thủy cuốn vội tấm chiếu dưới đất, kéo xềnh xệch chiếc bàn độc và cặp ghế dài trở lại chỗ cũ giữa nhà, trong khi Ta-kê-đa bước tới trước cửa, duỗi ép hai cánh tay cạnh sườn, cúi nhanh và ngửng nhanh:

- Tôi xin kin chao cac đôông chi! Toi xin moi cac đôông chi vao nha!

Bích Thủy chạy ù vào buồng trong. Chị Sáu Lễ một mình bước theo, hỏi nhỏ:

- Gì kỳ vậy, em?

- Hì hì, dạ... Ảnh tập võ nhu đạo cho em... buồn cười bỏ xừ... hay lắm chị...

- Tập võ sao lại tức cười?

- Để sau em nói. Em thổi lửa pha nước cái đã. Hình như có anh Bảy, anh Xáng, đúng không chị?

Mãi khi lửa đã cháy to dưới cái ấm đất. Thùy mới giảng cho chị Sáu: anh Ta-kê-đa hét Ô-xa-ê kô-mi là anh sắp đè ngửa đối phương trên chiếu, cưỡi sấp lên!

Trong khi ấy, anh Tô Xáng hỏi thăm công việc và cảnh sống của vợ chồng bác sĩ Tạ Kế Đa, tên mới của anh chàng sĩ quan quân y Nhật bị bọn quân phiệt kêu án tử hình vắng mặt. Khi thật bình tĩnh, Ta-kê-đa mới dần dà nhớ các dấu trong tiếng Việt, nói sõi giọng hơn và đỡ chen những tiếng Nhật lạ tai. Anh đã thuộc từ ngữ khá nhiều nhờ công Bích Thủy.

- Kính thưa thượng cấp, đời sống của chúng tôi không gặp sự khó khăn. Công tác của chúng tôi tại bệnh viện này là tốt. Tôi làm được sự giải phẫu các ki-dư... à, các thương tích... và tập rèn sự đánh trận cho tự vệ một chút... tức là các cá chiến đấu giáo huấn...

Ta-kê-đa xoa cái cằm bọc râu lún phún, liếc xuống bếp, chừng muốn cầu cứu vợ. Bích Thủy đang bận nhỏ to với chị Sáu Lễ, anh ta không dám gọi. Anh Bảy Quý đoán ngay cậu này sợ vợ vào loại khá. Kể cũng lạ, nghe bảo đàn ông Nhật coi vợ như người hầu hạ kia mà. “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”, dân mình đã đồn thế mãi...

- Tinh thần của nhân viên là tốt, của thương binh là tốt. Tuy vậy, nhưng mà, có lẽ... Tai-hen yô-cư đê-ki-ma-si-ta, kê-rê-đô-mô... chô-tô ket-ten đex nê…[2] Chúng tôi không có đầy đủ các ya-cư-đai... các thuốc men cần thiết cho sự lành vết thương. Tôi hiểu biết trong chiến tranh luôn luôn có sự thuốc men không đầy đủ, nhưng mà thượng cấp có thể ban cấp thêm cho bệnh viện của chúng tôi. Bởi vì nơi đây gần mặt trận Bắc Quảng Nam, chúng tôi thường xuyên phải chữa cho cả quân đội và nhân dân bị thương do bom đạn của địch gây nên, một vết thương chữa kịp thời có thể cứu được một mạng người hay một phần thân thể!

Câu cuối này Ta-kê-đa nói thẳng một lèo không vấp váp vì lựa chữ, chắc hẳn anh học thuộc lòng trong một bản viết nào đấy, tất nhiên là theo lệnh của cô vợ gốc Hà Nội.

Chị Sáu xách ấm đất từ bếp lên, chế nước sôi vào bình tích, liếc chồng:

- Thủy nó nói vợ chồng anh Chanh có tới đây khám bệnh một lần thôi, hơn nửa năm không thấy ghé lại. Bệnh viện này ở trung tuyến, không chữa được bệnh thần kinh, bệnh bao tử... Còn chị Xáng với hai cháu chống ghe vô vạn Linh Lâm mua cá. Sao, tối nay ta ngủ đây hay đi tiếp?

Chị hỏi đùa, biết anh Bảy và anh Xáng sẽ giục “lên ba-lô”.

Anh Bảy Quý vào họp ở Nam Bộ, vừa trở về đến khu Sáu đã nhận được điện điều ra Việt Bắc, cả hai vợ chồng. Anh bàn giao gấp cho đồng chí bí thư mới, leo núi ra đến Quảng Ngãi gặp vợ. Sau vài tuần làm việc với Thường vụ liên khu ủy, ghép chung đoàn với anh Tô Xáng bí thư Quảng Nam cũng ra Trung ương để báo cáo, anh Bảy lại chống gậy đi tiếp chuyến vượt núi suốt cả chiều dài đất nước. Tất cả các đồng chí đều lo anh gục dọc đường, dẻo dai đến mấy thì cái tuổi ngoài năm chục không phải chuyện đùa. Anh Bảy cứ cười cười, gạt đi: “Mình leo dốc từ Cực Nam ra, anh em dẫn đường rớt lại đằng sau lu bù đó nghen! Đừng cử người theo mình, đường rừng hay đường địch hậu đi từng nhóm nhỏ là gọn nhứt!”.

Anh Hồng Long tư lệnh liên khu phải bịa ra lý do: một số đồng chí gốc ngoài Bắc vào Nam chiến đấu đã lâu, muốn về gần quê, ghép chung đoàn với anh Bảy cho tiện thôi, chẳng lẽ anh cấm họ cùng đi? Thế là, ngoài đồng chí bảo vệ rất khỏe và rất nghiêm khắc của mình, anh Bảy phải “đi chung” với một y tá trưởng đeo túi thuốc căng phình, ba cán bộ trung tiểu đội về quê mà lại mang theo tiểu liên. Tính họ lại hay tương trợ, cho nên ba-lô anh Bảy lúc nào cũng nhẹ bỗng. Cơm nước dọc đường anh chỉ được phép ăn chung với chị Sáu, anh Xáng, còn bộ đội có mâm riêng, chế độ riêng, chính quy mà! Rốt cuộc rồi cũng cười xòa, không che mắt nhau nữa.

Nghe chị Sáu kể về vợ chồng Cả Chanh, anh Bảy giật mình. Anh định đến Ban tổ chức liên khu ủy hỏi kỹ thêm, rồi bận quá đành thôi, chỉ nhắn ông Hai Rề, Bảy Tộ cùng mấy anh em đáng tin cậy trong ngành hỏa xa đến gặp anh một buổi tối gần ga thị xã Quảng Ngãi, trong khi chờ tàu. Ra đến Quảng Nam, anh thức đêm viết thư gửi về liên khu bàn gỡ rối trong ngành hỏa xa, việc trước tiên cần làm là đưa Ba Mậu đi nơi khác, chấm dứt vai trò bí thư Đảng ủy và quyền giám đốc hiện nay. Cả Chanh đủ sức khỏe trở về ngành cũ được càng hay, nếu không thì nên chọn trong số ba bốn người do anh giới thiệu.

Đường giao liên ra Bắc có nhiều ngả. Anh Bảy chọn đi ngả Linh Lâm, hơi xa hơn nhưng có thế ghé thăm vợ chồng Cả Chanh, bởi anh đoán từ nay đến ngày hoàn toàn độc lập sẽ khó gặp lại người bạn tù khác tuổi đã giúp anh thoát chết bệnh trong nhà lao, người cán bộ cấp dưới đã bị anh đòi hỏi nhiều, phê bình nhiều, mà săn sóc trở lại rất ít. Biết làm sao được. Nay không còn là lúc cắm thuyền trên sông Cửa Đại dưới trăng, thì thào bàn chuyện khởi nghĩa và húp chén cháo cá nấu thật khéo của chị Xáng...

Anh Bảy rất mừng khi biết con thuyền tản cư lênh đênh của mẹ con chị Xáng đang dừng ở gần chợ Huề Bình, trên đường tới Linh Lâm. Chị Xáng đang làm chân tiếp phẩm cho bệnh viện tỉnh đóng tại đấy. Thế là anh “Bát Đập” cũng tiện dịp thăm vợ con trước chuyến đi Việt Bắc, có thể bảy tám tháng hay một năm mới về được.

Càng gần tới chiến khu Hai, tức xê-ca đơ, tức khu vực sông Linh đã khoanh thành cấm địa, anh Bảy càng đăm chiêu: anh sẽ gặp lại một Cả Chanh như thế nào?

*

* *

Qua khỏi cây càu gỗ lát sạp tre còn mới bắc ngang khe Cốt, anh Tô Xáng dẫn đường gặp một cô gái trẻ gánh đôi thùng tôn rỗng trên vai. Cô né sang bên, cười:

- Chào chú Xáng!

Đang cúi đầu leo dốc, anh Xáng chào lại vội vàng, đi tiếp. Anh nghe tiếng reo lanh lảnh đằng sau:

- Ôi, dì Sáu... bác Bảy nữa kìa... đông anh em quá vậy...

Anh Xáng quay nhìn, trong lúc anh Bảy Quý ghìm chân khựng lại, thốt ra một câu đặc sệt Quảng Nam:

- Ủa, thiệt mi đó hả Thùy?

- Dạ, cháu có nhớ ai... Chào hết mấy đồng chí... Mời bác, chú, dì vô nhà cháu đã, gấp mấy cũng phải nghỉ chút chớ...

Mãi đến khi đã đặt ba-lô và rút quạt giấy ra quạt, anh Bảy vẫn chưa hết sửng sốt.

Cô gái hồng hào xinh đẹp trước mặt anh kia, đang bưng một khay gỗ đầy những bát nước chè đậm mời từng người trong đoàn, có phải là con Thùy mất trí như chị Sáu đã tả hay không? Anh chưa hỏi vội, chỉ nghe thật kỹ...

- Anh Chanh đi săn dì ơi. Ảnh rán bắn con cọp ba chân về bắt trâu trên làng Bà-lam, nó khôn ghê gớm, gài kẹp mấy nó cũng né được hết... Dạ, cô Xáng đậu ghe ngoài vạn, tính mua cá về cho bệnh viện. Sáng mai làng đây đánh cá dẫy trên khúc vực dài, chắc được cả chục tạ đó dì. Lâu nay anh em xưởng Cao Thắng không ném mìn xuống sông nữa, cá lớn dồn về nhiều... Tàu bay thả bom bốn lần chú ạ, bà con xóm Chợ dời nhà ở tản ra, hư hại chẳng bao lăm. Dây giữa núi mà chú, nó bay cao chớ không dám chúi thấp, thả trật bật hết...

Một con gió núi chợt lùa vào nhà mát rượi. Anh Bảy ngùng quạt, ngắm quanh.

Nơi Thùy mời vào là một hội trường khung gỗ mái tranh, nằm dưới bóng những cây dầu lai cổ thụ đan cành vào nhau. Bàn ghế đều buộc bằng tre chôn xuống đất, xếp hình chữ U, đầu chừa trống có kê bảng đen và bàn ghế gỗ cho thày giáo hay người báo cáo, bên trên treo ảnh Hồ Chủ tịch vẽ tay tô màu khá đẹp cùng một tấm biển kẻ chữ đỏ tươi trên nền cót nhuộm vàng “Câu lạc bộ Thanh niên”. Cách hội trường chừng mươi thước, cũng dưới bóng cây là một nhà tranh nhỏ hơn, vách trát đất, nhà ở của vợ chồng Thùy.

Đợi khi Thùy đi lấy thêm nước chè, anh Xáng mới lắc đầu, bảo khẽ chị Sáu:

- Con nhỏ chưa tỉnh hẳn đâu chị.

- Sao anh biết?

- Nó kêu anh Bảy bằng bác, lại kêu chị bằng dì, còn lộn xộn lắm.

Chị Sáu cười, lườm chồng:

- Hồi xưa nó đã kêu vậy rồi, riết thành quen không sửa được. Là tại tôi với anh Bảy chưa lần nào tới thăm vợ chồng nó cho đàng hoàng, đủ tay tư... Sao đó ông trưởng đoàn? Anh Xáng chưa cặp vợ con. Cả Chanh đêm nay hay sáng sớm mai mới về đây, đồng chí bảo vệ cấm xuôi ghe ban ngày, mời ông hạ lệnh!

Ba anh chị quyết định rất nhanh: ở lại, chiều mai sẽ thuê đò đọc xuôi sông Linh và sông Thu Bồn, ngủ tại trạm Trung Phước, ngày kia bắt đầu leo núi.

Thùy reo khi nghe báo tin:

- May cho cháu quá. Cháu không giữ được khách, anh Chanh về lại rầy cháu tới chết! Riêng chú Xáng thì không dám níu kéo đâu, nãy giờ thấy chú nhấp nhổm hoài, tội nghiệp!... Dạ, anh Chanh khỏe rồi, vài tháng nay không thấy đau bao tử. Là nhờ cụ Chín Chưởng vừa chữa vừa dạy thuốc nam cho, ảnh bu theo học miết. Cụ Chín ở chợ Huề Bình đó, hồi ta mới khởi nghĩa mời cụ làm chủ tịch làng. Cụ thương anh Chanh lắm, hai thầy trò lội rừng kiếm thuốc hoài. Cháu cũng nhờ thuốc cụ cho mới lại người đó dì. Cụ cứ than van muốn truyền nghề mà chẳng biết truyền cho ai, con cháu kéo nhau thoát ly hết, chung quanh thì trọng thuốc tây mà khinh thuốc ta, rốt cuộc nằm trên đống thuốc của ông bà mà chết bệnh...

Trong khi anh em trong đoàn xuống khe cốt tắm giặt, anh Bảy và chị Sáu sang thăm nhà Thùy. Họ đi từ ngạc nhiên này đến thích thú khác.

Cũng là nhà tranh vách đất cả thôi, nhưng nhờ bàn tay thợ của Cả Chanh, ông Tư Chua, của anh em xưởng Cao Thắng II nữa, căn nhà trở nên khác thường.

Ông Tư đưa thuyền xuôi Thu Bồn chở sắt thép khi ta bắt đầu phá đường sắt, cũng mua về nhiều kính cửa sổ ở các thị trấn tiêu thổ: buồng ngủ của vợ chồng Thùy rất sáng và thoáng. Cái bếp kiểu giường có đến bốn tầng để xếp than củi và sấy lắm thứ, còn lắp thêm ống tôn đưa khói ra ngoài và cho tản xòe vào những tán cây duối rậm lá. Một cặp heo choai ủn ỉn trong cái chuồng có máng rửa và hố chứa phân, bên trên thêm tầng nuôi gà và tầng để cám, bắp, thóc lép.

Tiếng giã gạo dội đều đều mãi từ một gian nhà khác, không thấy bóng người. Thùy tủm tỉm chỉ cho xem cái cối giã gạo bằng nước lấy mẫu ở các lò chén bát. Dòng nước chảy từ một mạch ngầm trên sườn đồi, dẫn theo những ống tre to chạy luồn trong vạt tranh cao che mắt máy bay, đến một bể chứa bằng gỗ khá lớn đặt trên cháng ba cây, xối xuống rất mạnh bằng ống tôn, đầu ống lắp thêm một khúc vòi cao-su của máy bơm.

- Máy móc gì đây, Thùy?

- Dạ, máy điện đó dì.

- Giỡn hả? Bộ nhà mày xài điện thiệt sao?

Thùy cười dài, nhấc đầu ống cao-su đặt sang một máng gốc khác. Dòng nước tuôn vào một thứ xe nước lắp trên giá gỗ làm nó bắt đầu quay. Một bóng đèn điện treo ngay trên đầu chị Sáu đỏ dần lên tới khi sáng trắng. Chị Sáu há miệng mấy giây mới bật lên thành tiếng:

- Quá tay! Bảnh hết chỗ nói!

- Cũng tại cái máy này mà cháu phải làm quản trị câu lạc bộ đó... Cha cháu gặp cái xe gì ta phá, hất nhào ngửa dưới chân cầu, ổng tháo cái máy hư chở về, mấy năm bỏ chỗ góc lò rèn. Anh Chanh về sửa miết mới chạy được, đi xin đâu mấy khúc dây, mấy bóng đèn, bắc ra chỗ bãi trước nhà để thanh niên diễn kịch. Họ mê quá, mới xúm dựng luôn hội trường bên nhà cháu, đưa điện qua. Đêm nào cũng đông dì ơi, không ca hát cũng học hình dân, học bổ túc. Anh Chanh dạy toán một tuần ba đêm. Các anh bên xưởng Cao Thắng qua đọc bản tin, nói thời sự, thiệt tới vui. Các ảnh có đài to bắt được đài Trung ương mình, bị là chỗ bí mật quân sự không để bà con vô nghe được, chép tin rồi đem ra đây đọc thôi. Các ảnh còn hẹn sửa cho một cái ắc-quy nữa.

- Nó là thứ gì?

- Dạ, nó chứa điện lại, máy không chạy cũng thắp đèn được, nghe nói vậy chớ cháu chẳng hiểu.

- Bây giờ dì hỏi, phải nói thiệt nghen... Cơm gạo nhà cháu ra sao, ruộng rẫy ở đâu, áo quần đủ không?

- Làng đây đồng bào tản cư lên đông, hết chỗ làm ruộng. May có cái nà rộng của ông già người Tàu trong xóm Chợ, nhà buôn giàu lắm... à, ông Xâm Tô, ổng ghiền á phiện chịu không nổi, xin xuôi ghe về Đà Nẵng rồi. Nà của ổng coi như vắng chủ, ủy ban mình tạm cấp cho nhà cháu. Nông hội với Hội phụ nữ tới trồng trỉa giùm, lúa bắp lên tốt lắm. Cách nhà cháu vài trăm thước thôi, vừa đủ tránh tàu bay. Cô Năm Bưởi với anh Chanh làm nhiều chớ cháu dốt, chỉ biết may đồ thôi.

- Hồi dì tới thăm ở Sông Vệ, thấy máy may hư hết...

- Anh Bảy Tộ lén lấy hồi nào cháu không hay. Hồi cháu đang bị... vậy đó... các anh ở xưởng hỏa xa xúm sửa máy, anh Chanh với chú Sáu Cam rán gánh về đây cực thôi là cực. Giờ cháu nổi tiếng lắm nghen dì, cả khu xê-ca đơ có một bàn may của cháu trùi trụi, cháu làm không hết việc. Mỗi kỳ phát quân trang là cả trăm khách kéo tới bắt sửa gấp, nhờ có điện cháu làm đêm mới kịp, Năm Bưởi cũng phụ vô.

Chị Sáu Lễ không ngớt trầm trồ trong khi Thùy cho coi tiếp luồng nước vào bếp nấu ăn, dùng tưới vườn rau và rửa chuồng heo ra sao, phân heo dồn xuống hố hoặc ra ao cá tùy ý muốn. Ao cá rộng chừng một sào ta, chỉ là một chỗ trũng tự nhiên cách bờ khe Cốt bốn năm chục thước, có thể đưa nước mạch vào và tháo cống cho nước đổ xuống khe.

Chị Sáu vãi cám xuống nước, ngắm đàn cá nhô đầu lên đớp chen chúc sát bên chân, tuyền một thứ cá vảy trắng không ăn cá con và không ngoi rạch bỏ ao khi trời mưa lũ. Lứa cá này thả chưa bao lâu, mới bằng bàn tay... Chị đùa nghịch cầm vợt lừa xúc từng con, trong lòng cứ dâng lên mãi một nỗi thèm thuồng không cưỡng nổi. Dù sao chị vẫn là đàn bà. Người đàn bà nào lại không khao khát có chồng bên cạnh, có vài đứa con quấn quýt quanh mình, có căn nhà yên ổn với vườn rau, ao cá, mọi thứ nấu nướng may vá dưới tay, có nhiều người thân sẵn sàng xúm tới để chia sẻ vui buồn. Chị chưa từng được sống êm ấm trong vai người vợ, người mẹ. Ôi, một đứa con, một đứa thôi để chị bồng ẵm hôn hít thay thằng Mừng đã chết khi chị ở tù...

Anh Bảy Quý trở vào nhà từ nãy. Bóng điện trên đầu khá sáng, soi xuống chỗ bàn viết chân tre mặt gỗ có bốn năm chồng sách chất cao. Anh táy máy nhấc lên xem bì và trang lót: toàn sách kỹ thuật tiếng Pháp về xe lửa, cầu đường, cơ khí, điện, các loại động cơ, xem các chữ đề tay hoặc con dấu thư viện gia đình đủ biết Cả Chanh đã lùng mua góp khắp nơi. Một chồng sổ dày cộp xếp riêng, ghi đặc nét chữ của Chanh bằng nhiều màu mực trên nhiều loại giấy. Tay này tự học kinh thật!

Hai cuốn vở đặt trên cùng ít bị vết tay dầu mỡ hơn. Anh Bảy biết Chanh không viết nhật ký, cứ lật xem tự nhiên. Một cuốn đề “Tự học thuốc nam”, với dòng chữ đóng khung bằng bút chì đỏ “Thắng bệnh tật để thắng quân thù”. Một trăm trang vở ngoại viết gần kín kèm rất nhiều hình vẽ cây, hoa, lá, rễ. Cuốn kia mới viết non một nửa, chữ li ti. Anh Bảy rút kính lão đeo lên mắt. Đầu vở không đề gì, nhưng bên trong là chữ Lào, tiếng Lào được phiên âm sang chữ la-tinh, chú nghĩa tiếng Việt bên cạnh.

Không lầm được. Cả Chanh đang học tiếng Lào. Đọc những con số ngày tháng bên lề, anh Bảy biết Chanh theo món này đã gần hai tháng. Đến những ngày gần đây nhất, cậu chỉ chép những bài bằng chữ Lào ngoằn nghèo, chú nghĩa vài từ khó. Đó là những công văn, thư công tác, thư gửi bạn hay một gia đình thân quen. Chen vào đấy có những câu ca dao, tục ngữ, những bài hát kháng chiến hay giao duyên...

Quái lạ, cậu cán bộ hỏa xa này mưu tính gì? Tính sang Lào là nơi không có thước đường sắt nào? Bỏ nhiều công tự học như thế ắt không phải do bốc đồng, ham lạ.

Dưới tóc điểm bạc, khuôn mặt gầy và sớm nhăn nheo của anh từ từ sầm xuống. Chị Sáu Lễ hay trêu anh: “Một mình lo bảy lo ba, lo cau trổ muộn lo già hết duyên. Phải đổi tên anh là ông Bảy Lo mới đúng!”. Anh đùa lại: “Tôi cả lo thì mình cả tin. Bởi vậy ông trời mới xe duyên buộc nọ!”.

Suốt dọc đường đi gấp lên xứ núi Linh Lâm, anh lo phải gặp lại một Cả Chanh chán chường mệt mỏi, tuổi mới ba mươi đã lắc đầu kêu mãn mùa làm cách mạng rồi. Nãy giờ đi xem cơ ngơi rất đàng hoàng và nghe Thùy kể, anh lại băn khoăn nghĩ đến cái khó của người phải rời chăn nệm êm ấm để lao vào đêm mưa rét. Và bỗng dưng cuốn vở học tiếng Lào của Chanh mở hé cho anh thấy một góc kín tâm hồn nữa mà anh chưa ngờ tới. Lớp người nối tiếp vẫn luôn luôn dành cho anh những điều khó hiểu...

Năm Bưởi từ rẫy về, đang cùng Thùy và anh em trong đoàn soạn các thứ làm cơm chiều. Chị Sáu vẫn ngồi lặng một mình trên bờ ao, quay lưng vào nhà. Anh Bảy bước tới sau lưng vợ: “Mình nè...”. Chị Sáu giật mình ngoái cổ lại, anh Bảy thoáng thấy mắt chị ướt mọng. Chị luống cuống bỏ cây vợt cầm suông trên tay, rút khăn và nhếch miệng cười: “Con gì bay vô mắt, xốn ghê”.

Hai anh chị sang thăm lò rèn ông Tư Chua, sẽ vòng thăm luôn các xóm đồng bào tản cư mới dựng trên hai bờ sông Linh.

*

* *

- Bác Bảy đi khắp tứ xứ, cháu không dám đố, cháu đố dì Sáu thôi nghen. Món gì đây?

- Gỏi bắp chuối.

- Gỏi trộn với thứ gì?

- À ờ... da heo...

- Sai một. Nem dây gói bằng thịt gì?

- Bò hay nai, chắc vậy...

- Sai nữa. Tô canh này nấu rau gì, thịt gì?

Chị Sáu húp đến nửa chén canh chua ngọt, nhai miếng thịt khô đậm vị, cười:

- Tao đầu hàng trước cho xong. Bay cho ăn toàn đồ rừng, tao chưa ở rừng bao giờ... Anh Bảy với các chú đoán thử coi.

Bữa cơm ầm ỹ lên, mỗi người đoán một phách, gắp cả thức ăn soi cao lẫn ánh điện xem kỹ. Từng lúc, gió đưa vào mùi khói thơm nồng của lá quế khô hun muỗi trong các nồi vỡ chậu mẻ. Ông Tư Chua sang ăn cơm với dâu con đã mấy lần liếc mắt vào góc nhà, nơi ông đặt một quả bầu nậm to nút lá chuối khô, rất đáng ngờ.

- Thôi để cháu nói nghen, đừng bắt bác Bảy nói trật bậy mà tội. Gỏi trộn da voi. Nem gói bằng thịt cọp, cha cháu bẫy kẹp được cách hai tháng. Canh là thịt nai khô với rau ranh, lá tai nai. Còn một món nữa, đáng lẽ mở đầu bữa cơm, cha cháu bắt phải gác lại chờ lệnh. Đem ra được chưa cha?

Ông Tư lườm con dâu, gật đầu. Thùy vào bếp bưng ra một mẹt tre đựng chồng bánh tráng nướng phủ trên cái chậu đất nung, đậy nắp, đặt giữa bàn, trong khi ông Tư đi lấy cái hồ lô bí mật. Năm Bưởi mang đến một rổ xếp đầy những cốc nhỏ cũng bằng đất nung. Ông Tư gãi cằm:

- Cái này phải thưa tình thiệt với anh chị, các chú... Năm nay bà con trồng sắn lu bù, ăn không hết, bán không ai mua, họ nấu thử chút ít rượu sắn men lá rừng để ngâm thuốc... Tôi làm vài bình rượu tắc kè, bổ lắm, thằng Cả tôi lại thêm vò thiên niên kiện với cẩu tích nữa. Đánh búa lò rèn hay là leo núi mỏi gân cốt, làm một chén, ngủ một giấc là người khỏe ru...

Anh Bảy nhấp từng ngụm nhỏ rượu thuốc quý miền rừng, pha đủ vị cay, ngọt, đắng, trong khi mọi người bẻ bánh tráng sắn rôm rốp, xúc ăn thứ thức nhắm gì xôm xốp như cá luộc xé mịn bốc mùi hồ tiêu và rau thơm sực nức, tấm tắc khen ngon đặc biệt. Thùy không đố nữa, bảo là thịt kỳ đà đã luộc, xé, xào lại. Ông Tư thấy anh Bảy đưa cái chén lên soi, nói luôn:

- Cái này là sáng ý kiến của Tư Rèn đó anh. Chén đĩa lần hồi bể ráo, lò chén ở xa, tôi kiếm được chỗ đất sét tốt, đặt cái bàn, máy chạy bằng nước, đắp cái lò nung. Làm hư vài lứa rồi cũng được hết. Trong làng xóm ai muốn xây thứ gì cứ tự làm lấy, phơi tại chỗ, gánh củi tới mà nung, non già xấu tốt tùy lòng. Thằng Cả tôi kỹ tánh lắm, anh coi, âu chậu nhà nó có nắp úp kín, thịt kỳ đà để hở trên bếp trấu cả nửa tiếng mà còn nóng rực...

Ánh đuốc chợt nổi sáng chập chờn trên cầu khe Cốt. Hai bóng người leo dốc lên. Thùy kêu hơi to:

- Anh Chanh về!

Không giữ ý, Thùy buông đũa chạy vội xuống đón chồng, đỡ cây đuốc gần tàn và hoa mạnh cho cháy bùng lại, bước nhanh tới trước soi đường tuy chỉ còn mươi thước cuối cùng.

Chị Sáu đứng đậy, mở to mắt. Hoàn toàn không phải con người héo hắt đã chia tay chị tám tháng trước ở Sông Vệ. Một Cả Chanh vạm vỡ, da nâu sẫm, tóc cắt ca-rê gần trọc và đi chân đất, cười phô răng trắng lóa trong khi chào hỏi dồn dập. Thùy bám lấy chồng như một đứa trẻ:

- Thì đặt gánh đã anh. Áo quần đâu mà phơi trần cho muỗi cắn... A, đây. Anh tắm dưới sông rồi hả, tóc còn ướt. Anh không dặn mà em cứ để phần cơm. Anh mặc đồ dài, ngồi vô luôn đi. Chào đồng chí Tờ-rin, cõng gì nặng quá vậy, mời cơm luôn nghen.

Chanh gánh về một đùi nai to tướng và một buồng chuối sứ ước dễ đến mười lăm nải đã điểm lác đác quả hườm, cây súng săn treo ngang trước ngực. Anh thanh niên thượng cùng đi cõng một gùi tre lớn bịt miệng bằng cái mủng, khi đặt xuống thì cái gùi bỗng tự nó lắc lảo đảo như lên đồng. Anh tháo miệng gùi, trút ra đất một con kỳ đà to bằng cá sấu con, phải nặng đến trên chục ký. Nó đã bị trói quặt tay chân, đuôi mắc vào cổ, vẫn cố đớp đớp cặp hàm đầy răng nhọn. Tờ-rin nói oang oang:

- Kẹp cọp ông Tư đó. Tui treo cái đầu con trâu, tay chưn con trâu, cọp không vô, con ni vô kẹp miết miết. Tui lấy con ni sống, ông Tư ăn ngon hơn con chết. Anh Chanh đi bắn miết, không đụng cọp, bắn con nai ăn chơi, được thịt nhiều nhiều, cho người làng tui ăn đoàn kết... Xin hết lời!

Anh nói mấy tiếng cuối như quát, có lẽ bắt chước một vị chỉ huy nào đó qua làng.

Anh Bảy kiên nhẫn ngồi lật những trang ghi thuốc nam của Cả Chanh đến khuya, chờ một lúc hỏi chuyện riêng người bạn trẻ. Nhưng Chanh ăn xong chỉ đi giặt giũ, lại lên bàn thì thào với người trong nhà, thắp cây đuốc mới, vào xóm thu xếp việc gì chẳng hiểu.

Anh em trong đoàn đã treo võng ngủ trong hội trường. Kiểu chăn xi-ta túm đầu thành võng từ Tây Nguyên truyền về xấp xỉ một lần với kiểu dép cao-su quai xỏ của Bình Trị Thiên... Đau dạ dày dùng củ ấu, hồi đầu, nghệ đen, trái núc nác. An thần, bệnh thần kinh: cây sen (hoa, nhị, hột), táo nhơn tức hột táo, củ tóc tiên. Sốt rét cơn: vỏ dền, hột riềng, thảo quả, thầu đâu rừng... Những dòng chữ viết nắn nót và ghi tháu xoay tròn trước mắt kính lão của anh Bảy. Cuốn vở rơi xuống nền nhà. Anh thiếp đi dưới ánh đèn điện vẫn sáng khác thường ở nơi rừng núi ít chờ đợi nhất.

*

* *

Đến quãng trưa tròn bóng, các khung lưới bủa từ lúc tinh mơ đã dồn lại giữa vực. Đó là những phút vui ầm ỹ nhất trong nghe dẫy cá.

Các con sông thượng nguồn, lắm thác ghềnh, cũng sẵn những khúc êm và sâu cho các loại cá to dồn lại ở. Nếu Linh Lâm có phường săn thú với nhiều gánh lưới to và bầy chó giỏi, thì Linh Hạ còn giữ được phường dẫy cá, hằng năm đi đấu giá để nhận đánh quét các vực dài ngắn sâu cạn, chia cá hay nộp tiền cho các làng sở tại.

Khi xưởng quân giới Cao Thắng II về đóng trong khu đồn điền La-phạt, năm 1946, chất nổ cứ ném xuống sông tới tới, mượn cớ thử mìn hay lựu đạn dưới nước. Du kích với thanh niên rất khoái được hắt hôi cá, nghe tiếng “uỳnh” hơi to ngoài sông là đang làm gì cũng vất đấy, xách giỏ hay sợi mây xâu cá chạy bay tóc. Nổ gần rồi nổ xa, mìn nhỏ tới bom to, cá dần dần chết ráo, sót con nào cũng dắt nhau trốn biệt. Các ông bà cao tuổi biết sẽ sạch cá, nhưng giữa lúc ta phải phá trụi thành phố với cầu đường, giết cả bầy chó săn quý như vàng diệp, ai lại đi ca cẩm vì chim trời cá nước! Phường dẫy Linh Hạ lên thầu đánh quét, thuê vực bằng thóc trả trước bị lỗ nặng: cá chưa đủ nấu cháo cho thợ lặn! Thế là cạch luôn.

Về sau xưởng quân giới bị bom liên tiếp phải dời vào rừng sâu xa sông, cấp trên cấm không được xài phí thuốc nổ và lộ bí mật, cá mới ngập ngừng trở về sông Linh. Ông Tư Chua phải kéo một đoàn phụ lão xuống dỗ dành phường dẫy Linh Hạ, họ mới chịu lên đánh thử vài vực và chia cá chứ không thuê hao, còn bảo là vì Cụ Hồ dạy đại đoàn kết nên họ chịu hi sinh!

Khúc sông êm từ bến vạn xuống thác Kiểm Lâm dài non một cây số. Lưới quét được buông ở hai đầu vực dài, thong thả xáp tới gần nhau đến khi thành cái bọc. Lưới căng trên các khung bè bằng tre giếng cái thang hẹp và dài, kéo lê sát đáy sông. Dăng cao trên khung bè chừng sải rưỡi là lớp lưới nhảy, đón những con cá sông suối lâm thế bí hay phóng vút lên trời như khi vượt thác. Ngang mặt nước có đãy hứng sẵn sàng đón lũ cá tông vào lưới dựng, roi xuống túi nằm dãy đành đạch.

Anh Tô Xáng lặn hụp suốt hai tiếng còn đang mê mẩn. Anh nhập vào nhóm tém mí, chuyên lặn sâu và giữ cho mí lưới ép sát bờ vực đầy những hang hốc gốc cành, còn cầm sào thọc vào các cổ cá to núp kín, xua cho chạy vào lưới. Cả Chanh bám sát anh học nghề, anh bị gắt bao nhiêu lần là hư, vụng, dốt, chỉ nhăn răng cười. Hai cái đầu nối nhau nhô lên từng lúc, thổi phì hai vòi nước trắng qua mũi và ném vào chiếc xuồng gần nhất một con cá năm bảy cân mắc lưới, lại ôm hòn đá buộc dây chìm nhanh.

Lưới đang gom. Cá lớn nhỏ bắt đầu quất đuôi bay vù vù trắng lóa dưới nắng trưa như nhiều vòi phun ngược nào đó đang tống nước lên trời. Những con cá đen trũi chợt chồm đầu lên, chợt húc vào người, chợt chổng cái đuôi to bằng quạt, chợt kéo cả một khung bè chạy lệch muốn đổ nghiêng.

- To lắm! Coi chừng xé lưới!

- Ném cho sợi mây, mau. Xỏ mang không nó sẩy!

- Gỡ hết cá rớt trong đãy, ngồi ngó hả?

- Chanh, Chanh, xuống cột mí với ta,. truột hết bây giờ!

Anh Bảy Quý hơi kém, chỉ ngồi trên xuồng phụ người dưới nước, khi trao hòn đá buộc dây cho thợ lặn, khi xỏ dây vào mang cá và buộc dòng dưới nước cho sống tiếp. Ông Tư Chua đứng trên đầu xuồng hò hét, chỉ trỏ, từng lúc lệnh cho anh Bảy quạt bơi chèo đến chỗ nào đó và anh ngoan ngoãn vâng lời, anh không mấy để ý khi có những xuồng đò chèo tới và chào hỏi đon đả, thường là các cán bộ xã thôn, công nhân quân giới, bộ đội. Chỉ một lần anh hơi phiền khi ba người trên một thuyền to xáp lại và năn nỉ mời anh sang ngồi với họ trên khoang giữa trải chiếu hoa, bày bộ đồ trà với đĩa thuốc lá quấn sắn, xin lỗi mãi rằng không hay tin anh về thăm xê-ca đơ. Anh bông đùa gạt đi, chèo tới một chỗ cá nhảy vượt lưới nhiều nhất, chồm lên hét gọi người đến bơi chặn dọc đãy hứng. Lát sau ông Tư Chua mới cho biết đấy là cụ tú Đỉnh, trước gọi quan phủ Đỉnh, ông Mười Áng, trước là Cửu Áng - lý trưởng, cùng anh phó chủ tịch xã Hùng Minh, trước vốn có tên Ba Mít... Chao ôi, nhớ sao cho hết bấy nhiêu ngàn vạn khuôn mặt và con người đã gặp trong bấy nhiêu năm, qua bấy nhiêu tỉnh!

Lưới đã túm lại thành bọc như cái rớ biển. Lũ cá lưới hai lưới ba, thân mỏng mình nhẹ, hẳn đợi đến lúc này mới trổ tài bay thi với cá chuồn xòe cánh trên sóng mặn, ào ào phóng chéo lên trời hệt một trận mưa đảo ngược và buông thân vào túi hứng bên dưới, trong khi các bậc cha ông to kềnh cuống cuồng húc đầu cố xé lưới đến kiệt sức, đành chịu lật thân qua lại, đập mang thoi thóp, phơi bụng trắng lẫn với lưng đen.

Xuồng đò đã kéo hết lên bến vạn, lôi theo những sợi mây song hay những cây sào dài xỏ đầy những cá to với sợi mây trong mang còn vật vã, chỉ đám cá nhỏ hơn trong lòng thuyền đang nẩy tanh tách tìm lối thoát. Chỉ còn trên sông những bầy cá nhỏ lưới một hiện thành chuỗi vệt xanh xám sát mặt nước, tạt qua lách lại hình chữ chi, ngược xuôi chạy tìm các nơi ở cũ.

Chị Xáng chọn chỗ cắm thuyền bên kia sông, nơi dòng chảy xoáy vào vách núi dựng tạo thành chỗ núp rậm cây, chừa một bãi cát nhỏ sát bờ nước. Chiếc đò có mui của chị đã chèo chống mãi từ Cửa Đại sát biển ngược sông Thu Bồn lên tận thượng nguồn sông Linh này, chở theo hai đứa con nhỏ nhất chưa nhập ngũ của anh Xáng, vẫn rất ít nói và chỉ cười nửa miệng, hé đôi hàm răng đen, chị Xáng chỉ huy những người đang làm bữa tiệc cá tiễn đưa đoàn đi Việt Bắc. Chị Sáu Lễ hỏi mãi, chị Xáng mới đáp gọn rằng các ổng giao chị làm phó giám đốc phụ trách quản trị bệnh viện, chị không kham nổi, giao việc tiếp phẩm chị làm được, khi cần thì chị bày thêm cách nấu nướng cho các cô cấp dưỡng trẻ mới rời tay cấy hái và chỉ quen chém to kho mặn.

Ba bếp lửa cháy phừng phừng trên bãi dưới cặp mắt đầy lo ngại của đồng chí bảo vệ từ sáng đến giờ ngồi tách xa chỗ ồn ào, dỏng tai nghe chừng tiếng máy bay. Chị Sáu ngoái cổ lại:

- Mấy ông đợi chút nghen, nửa giờ nữa xong. Bà Xáng cho xực một trận cá ngất ngư, ăn quên chết, Tào Tháo rượt chạy tới tận xứ Việt Bắc chưa tha!

Anh Bảy hỏi Thùy đang bẻ cành khô chất đống:

- Chồng cháu đâu, Hai?

- Dạ, ảnh mới ghé bỏ đồ đó, chèo ghe lên vạn rồi. Hay để cháu đi kêu...

- Đừng. Cháu cho bác hỏi chút.

Hai đồng chí bộ đội trong đoàn anh Bảy cũng vừa ghé bờ được giao bẻ củi và đi tìm Chanh. Anh vẫy Thùy đến chỗ vắng đầu bãi.

- Cả Chanh bận luôn, bác hỏi cháu trước nghen. Cháu có biết ảnh tính nhận công tác gì không?

- Dạ biết. Mấy tháng nay anh Thỉnh, là anh Hai Thỉnh chính ủy đó, ghé nhà cháu luôn, rủ anh Chanh đi Hạ Lào. Ảnh làm đơn gởi liên khu, mới nhận giấy quyết định cách đây vài ngày.

- Quyết định gì? Đi đâu, làm gì?

- Dạ, đi Lào chớ đi đâu. Bác ở liên khu hiểu hết rồi chớ!

Anh Bảy nín lặng. Khốn khổ, người ta cứ tưởng thế...

- Bây giờ nói chuyện cháu. Cháu khỏe hẳn chưa?

- Dạ, cháu khỏe hoàn toàn. Ảnh lên đường không lo gì hết.

- Cứ nói như tài liệu! Ảnh sắp đi mà sao bác thấy cháu... à... tự nhiên như không... rất vui... Qua bên Lào phải đi xa, ở lâu, cháu hiểu chưa?

Thùy đang tươi tỉnh bỗng cúi úp mặt trên hai gối, nấc nhè nhẹ, hồi lâu mới ngửng lên với đôi mắt đỏ mọng:

- Thưa thiệt với bác, cháu tủi thân lắm. Cháu mất thằng Tuấn bị thui chín như heo quay, ngó thấy cháu chịu không nổi, cháu như mê như khùng... Cháu về đây lần hồi tỉnh lại, cứ nghe chung quanh nói anh Chanh phải bỏ chức giám đốc hỏa xa là tại con vợ phát điên, ảnh chịu lạc hậu vì lỡ lấy nhầm con Hai Thùy, ảnh thủy chung như nhứt thiệt đúng là người cộng sản chơn chánh trăm phần trăm, còn cháu là cục đá đeo vô thân ảnh như tội như nợ. Cháu rán vui để ảnh đi cho nhẹ nhàng đó bác... Không dễ đâu... Đôi khi cháu tính hay là cháu biến đâu thiệt xa, mất tiêu luôn, khỏi cản trở anh Chanh tiến bộ... mà cháu bỏ đi không được... cháu thương ảnh quá chừng, ảnh cũng thương cháu thiệt tình, ảnh nói cháu có hề gì thì ảnh buồn cả đời, không lấy ai nữa, ảnh ở vậy để nhớ cháu thôi... đàn ông gì kỳ cục vậy chớ, người ta hai ba vợ có sao đâu. Ảnh cứ nhứt định thương riêng một mình cháu mới lạ, can không nổi, ảnh tốt bụng quá, cháu biết làm sao hả hác? Ảnh vướng cháu, cháu không rời ảnh được... Bác biểu ảnh dứt cháu cho nhẹ người... cháu chịu được hết... chịu được...

Mấy tiếng cuối cùng nghẹn tắc trong cổ. Thùy lại gục đầu trên hai bắp tay khoanh, đôi vai rung giật lặng lẽ.

Lát sau Cả Chanh cùng anh Xáng chèo chiếc xuồng nan be gỗ đến. Anh bí thư tỉnh ủy đang bốc, hoa tay kể lại vụ chia cá mà anh vừa xử: phường dẫy Linh Hạ dự tính được năm tạ cá là cao tay, rốt cuộc được hơn chục tạ, không kể phần con nít bắt hôi giấu lén, vậy mà cứ nhất định chia tam thất chớ không theo lệ xưa tứ lục. Mọi người nổi lên bàn góp ồn ào.

Thùy vẫn chúi đầu thổi bếp lửa đã cháy to ngọn. Anh Bảy lơ đãng nghe kể, lại lơ đãng xem cây súng săn của Chanh. Mới nhìn, nó giếng những cây ca-líp đu hai nòng thông thường, coi lại mới thấy nó có ba mấu cò và thân xác to nặng. Anh bật khóa cho nòng gập xuống, nhé mắt dòm: nòng to bên trái trơn bóng, nòng to bên phải có khương tuyến xoáy sâu, bên dưới còn thêm một nòng nhỏ thứ ba vừa lắp viên đạn súng trường.

Thấy Chanh bước tới, anh Bảy kêu:

- Sao thứ gì của mày cũng khác đời vậy Chanh? Kiểu ba nòng, tao mới thấy lần này là một.

- Súng săn thú lớn của tụi Ăng-lê đó anh. Tôi lượm ở chân cầu Cẩm Lệ, gãy nát bộ máy cò với báng gỗ. Ông già tôi kỳ cạch sửa miết, anh thấy nửa dưới cây súng làm bằng tay hết đó. Bắn cọp xuya lắm nghen. Xa thì bắn đạn trường Anh, nó xáp lại ta nổ viên đạn chỉ một đúc hình trụ, nó giơ móng sát mặt mới tống một phát chín viên...

- Vẫn không chết thì sao?

- Thì tay rút dao găm, miệng hô khẩu hiệu!

Bữa tiệc cá sông của chị Xáng thật tuyệt vời, ngon đốn nỗi chị Sáu phải kêu “nhai không nỡ nuốt”.

Con cá sả to chị chọn làm gỏi được thái lát mỏng như giấy, xương dăm biến đâu mất sạch, lát cá bóp chanh và nước cốt riềng nhấc lên cứ trong veo. Cặp cá nun chưng nấm mèo với lắm thứ rau nhồi trong bụng bốc hương ngào ngạt. Những con cá rói nướng trong bẹ chuối đều được khía đứt hết xương dăm và tẩm gia vị trước. Rổ rau sống bằng ruột cây chuối rừng trộn với tép bưởi chua, châm vào tương ngọt và ăn kèm bánh tráng nướng, hết nhanh như bay. Chị còn dự trữ sẵn một trã cá chình sông cắt khúc kho nghệ cho những ai chén khỏe nhất, nhưng cầm chắc sẽ ế vì nồi cháo. Chị đã giao cho Thùy dùng dao cùn nạo cá lấy thịt nạc theo kiểu làm chả cá rựa biển, quết cùng rau thơm trong cối gỗ, vo viên cho vào cháo nếp dẻo rang sẵn. Chị còn đùm tất cả các thứ đầu cá xương cá loại ra trong vải màn, hầm trong cháo cho ngọt.

Anh Bảy ngồi duỗi hai chân, lắc đầu:

- Tôi thương thực là tại bà Xáng đó nghen, nhờ ông Bát Đập làm chứng giùm...

- Yên chí lớn. Đồng chí y tá sẵn thuốc tiêu đây!

- Là âm mưu chị Xáng kéo ảnh trở về cho mau...

- Đáng chi mô các anh, gần trưa mới kiếm được vài con khá khá, nấu lẹ, sợ các anh đói mà.

- Chưa lên cân liền đâu chị Sáu, ăn thêm đi. Nam thực như hổ đực, nữ thực như hổ cái!

- Rót tao ly nữa, Chanh! Rượu sắn không phạm chánh sách, thêm thuốc nam của mày vô là đáng cái bằng khen!

Anh Tô Xáng chếnh choáng bắt đầu hoa tay kể các kiểu ăn nhậu của bà con Cà Mau: “Điệu nghệ lắm nghe bây. Cái thứ tép bạc của họ, kêu là tép mà nó bự chảng vầy nè, đem lụi nướng hay tưới rượu đế đốt trên đĩa, nhậu quên chết...”. Ông Tư Chua không còn lựa lời trước “quý đồng chí thượng cấp” nữa, vỗ lưng anh Quý bôm bốp, lắc mãi cái bầu nậm bảo còn nhiều lắm. Cậu trung đội trưởng trong nhóm “cùng đi về quê” bưng cả cái đầu cá nun to tướng lên nhai. Cả Chanh chừng kín đáo ăn kiêng, chỉ tiếp thức ăn và chêm những câu đùa rất quấy của dân thợ và con nhà lính. Chị Xáng cứ tủm tỉm hé răng đen, cho hiện trên tấm cót trải giữa bãi cát những đĩa và âu đầy vọt lên như trò ảo thuật. Hai Thùy với khuôn mặt gái một con đầy đặn ửng hồng từng lúc đến ngồi ép người bên vai chồng, ngước lên đôi mắt đắm đuối...

Anh Bảy Quý gạt bỏ hẳn đi những gì anh định làm khi kéo cả đoàn gấp rút lên Linh Lâm. Thôi đừng truy thằng Chanh tại sao dứt nghề xe lửa để chuyển sang một vùng địch hậu không có đường sắt. Đừng ép nó quay về với những đêm thức trắng theo tàu, những ngày nén cơn đau bụng đánh vật với máy, với cảnh vợ cùng bầy em tản cư long đong và một Ba Mậu thầy cũ lạnh lùng mưu hại sau lưng. Hãy để cho Hai Thùy quên dần đứa con chết cháy và đứa em lòi ruột, về làm ăn giữa những người thân bên nhà chồng và khấp khởi đếm từng ngày hi vọng với đứa con thú hai đang lớn dần trong bụng, chị Xáng và chị Sáu đều đoán là con trai, gần bốn tháng rồi...

Phải đấy. Cần biết nhớ và biết quên, cần soát lại ngày tháng qua để rút lấy những bài học lắng đọng cho công việc sắp tới, nhưng cũng nên quên bớt đi cho nhẹ lòng mát dạ, bên cạnh vốn hiểu biết cũ phải dành chỗ rộng thoáng cho mơ ước mới. Mơ ước có thể là ảo tưởng một phần hay tất cả, đúng thế, nhưng cuộc sống đôi khi lại vượt xa các giấc mộng táo bạo nhất thì sao? Lắm đồng chí cũng như anh đâu ngờ Đảng ta, dân ta thu được chính quyền vào tay, quét gọn được cả Pháp, Nhật, Nam triều chỉ trong mười hai ngày cả nước nổi dậy?

Chú thich:

[1] Tiếng Nhật dùng trong võ nhu đạo. Ô-xa-ê kô-mi: đè ngửa. Mai-ta: xin hàng, Ma-tê: ngừng đấu

[2] Tiếng Nhật: “Làm thế đã tốt lắm rồi, nhưng mà... có tí chút thiếu sót, phải không nào...”.