← Quay lại trang sách

Chương IV

Trước bốn chục cặp mắt ngước lên chăm chú, Hai Khánh nói những câu cuối trong bài giảng vỡ lòng dành cho tù binh Âu - Phi, kéo dài chừng hai tiếng.

Anh quen lắm với những bộ mặt tù binh mới từ mặt trận giải về, hết sức khác nhau về màu da, đường nét, sắc thái tình cảm, những ý định nằm chìm sâu trong đầu từ khi lọt vào tay Việt Minh. Những sĩ quan từ võ bị Xanh-Xia ra, mắt gườm gườm kiêu ngạo và căm hận, cố giữ chút oai phong sót lại trong bộ binh phục rách tướp. Những lính quân dịch Pháp run sợ, mặt mũi sưng húp vì khóc suốt dọc đường, luôn luôn mở mồm bằng câu “tôi bị động viên”. Lính lê-dương mang mấy chục quốc tịch cũ, vất bỏ tổ quốc và gia đình từ khi ký giấy nhận đánh thuê, giữ cái vẻ ảo não tuân theo định mệnh, sẵn sàng khai ra những bản lý lịch lâm ly kỳ ảo nhất. Lính A-rập gốc Bắc Phi vừa lo sợ vừa hi vọng, cố nhớ lại những chuyện cha ông kể về thời xưa chống Pháp xâm lăng để Việt Minh thương tình không treo cổ. Lính da đen Trung Phi, mặt để trơn bóng hay rạch những vệt dài bôi đỏ, đến đâu ngồi thừ ra đấy và lẩm nhẩm những lời khấn khứa gì đố ai hiểu. Lại còn những người nguồn gốc pha trộn nhiều lục địa và chủng tộc, nhảy vào đạo quân viễn chinh Pháp kiếm ăn, chỉ biết vạch một chữ thập lãnh lương và mấy tiếng Pháp đủ nghe khẩu lệnh...

Khánh cố nói giản dị, phát âm rõ, tránh những từ ngữ Pháp khó hiểu ngay cả đối với lính Pháp ít học. Anh khoan khoái nhận thấy những thái cực tư tưởng trên mặt bọn tù binh dần dần nhích lại gần nhau, tuy chưa nhập hẳn vào điểm trung tâm mà anh khoanh sẵn: tin tưởng ở chính sách khoan hồng và nhân đạo của chính phủ cụ Hồ Chí Minh. Chưa tin, rồi chúng nó sẽ tin...

Anh quay sang bên, nói tiếng Việt:

- Hôm nay bấy nhiêu là vừa, cho tụi nó nghỉ.

Đồng chí trung đội trưởng gật đầu, bước tới rập chân đứng nghiêm, hét: “Gạc-đa-vu”. Cả lớp vọt dậy, thẳng người. Khánh xoay lại đợi. Đáng lẽ làm động tác báo cáo để cấp chỉ huy ra về, đồng chí kia lại hô lệnh cho về trại: “Ô-căng!”. Nhắc mãi vẫn quên. Khánh hơi bực, bước ra khỏi bục giảng kết bằng tre, vẫy cậu Suyền thư ký riêng mang ngựa đến.

Chính trị viên trại tù hàng binh là một đồng chí ít học từ ngành công an đưa sang, một lần rụt rè đề nghị với anh Hai Khánh nên ở lại trong trại với trung đội bảo vệ, xảy ra điều gì rắc rối nhờ anh chỉ bảo giúp cho. Khánh cười nhạt:

- Đồng chí quên rồi. Tôi là phó ban địch vận tỉnh, vì thiếu cán bộ mới kiêm việc này, nằm chìm vào đây bỏ công tác toàn tỉnh cho ai? Mà ban đêm chỉ có xin đi ỉa đái chớ rắc rối gì?

Đồng chí chính trị viên chỉ còn biết gãi tai, nói lảng.

Trại tù binh Âu - Phi đặt trong một hóc núi rậm cây, xa làng, có hàng rào tre gai vây kín, được canh gác kỹ. Trại hàng binh lập ở mé ngoài, cách một quãng đồi trọc. Được phân công về nắm hai trại này, Khánh cố tránh cảnh sống chui rúc nơi hoang vắng, dạo quanh vùng tìm chỗ ở riêng. Anh chọn được nhà Bảy Suyền rất tiện lợi: cách trại chừng hai cây số, gần chợ và con đường tỉnh dẫn xuống thị trấn Tam Kỳ, nằm cuối xóm đông dân nhưng vẫn cách quãng vừa đủ giữ yên tĩnh, dừa mọc chung quanh cao vút che mắt máy bay quần tìm đích.

Đó là một nhà thờ họ khá lớn, được sửa lại theo kiểu nửa cổ nửa kim, nhác trông giếng cái đình với mái cong lợp ngói âm dương, xem kỹ mới thấy nhiều cửa kính và lá sách, nền lát gạch hoa sạch bóng, trên mái cũng lắp kính lấy ánh sáng. Chung quanh, tòa ngang dãy dọc khá nhiều. Tất cả nằm trong một khu vườn rất rộng trồng cây ăn quả, ngoài cùng có lũy tre dày bao kín.

Khánh mới hỏi ướm một câu, đã được chủ nhà sốt sắng mời vào, dẫn đi xem khắp nơi, nhường luôn cho một dãy buồng thoáng mát, đủ bàn ghế giường, tủ. Tuy ngờ ngợ trước lối đón rước quá vồn vã này, Khánh vẫn dọn đến ở cùng với cậu cần vụ được gọi ngọt là liên lạc. Cậu này rất ưng ý khi anh chủ nhà bảo chỉ cần gùi gạo và cùng ăn rau mắm với gia đình, khỏi lo bếp núc. Những mâm cơm ăn chung ba người được nấu rất khéo và luôn luôn đủ thịt cá.

Vài hôm sau, anh xã đội trưởng đến gặp Khánh cùng đồng chí chính trị viên tại phòng khách của trại, cho biết về Bảy Suyền.

Ông nội Suyền là chánh tổng giàu khét tiếng, mê cờ bạc bán dần ruộng đất, ấy chính là ông cụ tám mươi, râu tóc trắng xóa, đã lẫn nặng, mà Khánh không bắt chuyện được. Cha Suyền làm thầu khoán phát tài, khi nhận hương hỏa mới sửa lại ngôi từ đường theo kiểu tự nghĩ ra, chuộc lại ruộng đất được vài chục mẫu. Sau Cách mạng tháng Tám ông ta ứng cử vào Quốc hội, tốn khá tiền thuê người đi cổ động, vẫn không trúng. Ít lâu sau, ở quê có tin đồn ông ta dính vào ổ Quốc dân đảng phố Ôn Như Hầu, bị công an bắt tại Hà Nội. Gần ngày toàn quốc kháng chiến ông ta về nhà, rồi độ một năm sau lại biến đâu mất. Bà vợ kêu vùng này gần mặt trận, sợ bom, dẫn hai con nhỏ vào Quảng Ngãi, rồi cũng chẳng thấy tăm hơi nữa. Ba người chị của Suyền lần lượt dọn về ở nhà chồng. Ra vào khu nhà thênh thang ấy chỉ còn bốn người: ông nội, một bà cô bốn mươi tuổi không chồng, một người ở già trông nom ông nội, và người cháu đích tôn là Bảy Suyền mới ngoài hai mươi, chưa vợ. Ho sống bằng ruộng đất cho thuê, rất ít khách đến thăm, cổng thường khóa im ỉm. Bầy chó của họ dữ khiếp, hay chui rào ra đường đớp người, may nhờ lệnh giết chó mới dẹp được.

Cán bộ xã thôn lúng túng trong cách đối xử với gia đình này. Ruộng đất của họ không thể xếp vào loại vắng chủ để đem tạm cấp. Nhà họ thừa chỗ nhưng ngay cả đồng bào tản cư cũng ngại đến ở, nhà càng to càng dễ ăn bom. Suyền học cao, nghe nói gần đậu tú tài, nhưng được mời nhiều lần vẫn không nhận công tác gì, chỉ lâu lâu mới miễn cưỡng đi họp xóm vài tiếng. Năm bảy ngày một bận cậu ta đạp xe xuống Tam Kỳ hay ra Thăng Bình, chở về mấy thứ hàng ngoại khan hiếm với số lượng các trạm gác cho phép: vài, dầu lửa, thuốc tẩy, giấy vở... Các thứ khác, bà cô mua ngay ở các quán hay trong chợ.

Hai Khánh bật cười:

- Tóm lại, chẳng bới ra chứng cớ gì mà vẫn đáng ngờ, phải không?

- Dạ, thiệt vậy. Cái hành tung của anh ta khó am tường hết sức. Cha mẹ ảnh, cầm chắc là nhảy về thành thị ở với Tây rồi. Phần ảnh có liên lạc gì không, lãnh việc gì bí mật không... Anh Hai về trú đóng ở đó phải giữ chừng súng đạn, tài liệu. Cũng nhờ anh để ý coi giùm thử...

Khánh đứng lên tỏ ý dứt chuyện, vỗ vai anh xã đội:

- Cứ yên bụng. Cậu xem, Tây trắng Tây đen hung hãn thế mà bộ đội ta còn trói giải về hàng xâu hàng xốc, chúng mình còn dạy cho nên người, kể gì cậu ấm gầy nhom, xanh rớt ấy!

Chiều hôm sau, Suyền từ Nam Kỳ về, lúi húi rót dầu vào đèn măng-sông, bơm lên thắp thử. Cậu treo đèn lên, cười tươi:

- Thua gì đèn điện, anh Hai! Dạo này công an cho đi lọt mỗi người ba chai dầu lửa, em mới đem cái đèn hư xuống Tam Kỳ sửa. Mấy tháng trước, em bán lúa đem tiền về cho mẹ trong kia, người ta bán ba đồng vừa đúng một cái nắp bật lửa rót dầu chưa đầy!

Khánh cố tìm một nét gì khang khác trên nét mặt và trong giọng nói của cậu chủ nhà. Không thấy. Bà cô lặng lẽ bưng mâm cơm đặt trên bàn, hơi cau mày khi nhìn ánh đèn quá sáng, hất hàm về phía cổng. Suyền cười, khép cửa sổ lá sách:

- Thí nghiệm một bữa cơm thôi, ai dám xài bảnh để thiên hạ chửi. Anh Hai sao chẳng biết, chớ em thấy hòa mình với dân cày thiệt là khó. Hơi khác họ một chút là bị chê bị trách lập tức. Hồi mới nổ súng, du kích dọa đốt cả tủ sách nhà em, nói chứa sách Tây để theo Tây!

- Cậu để đâu, mấy hôm nay mình không thấy cuốn nào?

- Lát nữa anh coi. Bây giờ mời anh uống chén thuốc cho khỏe, ăn ngon cơm.

Suyền thò tay xuống góc cột, nhấc lên một chai nước màu nâu nhạt có gắn xi trên nút, dán nhãn khắc gỗ: Nước vỏ dền - Chuyên trị sốt rét, thiếu máu, kém ăn ngủ - Xưởng bào chế K.12. Khánh xua tay: “Mình không sốt rét đâu”. Nhưng Suyền vẫn tủm tỉm cạy xi, dùng que xoắn lôi nút ra, rót hai ly. Khánh nhấc ly lên ngửi, bắt được ngay mùi rượu cất bằng nếp thơm nồng, nặng độ.

- Nhãn với khằn là để che mắt thế gian thôi. Đố ai tìm được cái xưởng K. 12 đặt ở đâu. Họ ngâm chút vỏ dền, thêm vị canh-ki-na, uống cũng đậm. Mời anh, linh động thử một lần!

Rượu rất ngon, nhắm với cá thu nướng Suyền mới mua về và món nộm đu đủ chua ngọt rất dẫn lửa, Khánh không quen uống mà nhấm nháp tới ba ly. Thấy đã hơi chếnh choáng, anh úp ly xuống mâm, xới cơm ăn, nghĩ thầm: “May cho mình, cậu liên lạc đi vắng, thằng ấy chúa thần là bép xép...”.

Chiều hôm sau nữa, Suyền mới đưa Khánh vào chỗ tủ sách. Bên cạnh mấy chục cuốn tiếng Việt in trước Cách mạng là cả một đống năm sáu trăm cuốn tiếng Pháp, xếp chồng chất trên nhũng tấm ván dài kê chân niễng, trong một buồng xép kín đáo. Xem qua các gáy sách, Khánh nhận ra đủ loại: văn học cổ điển, trinh thám, phiêu lưu, khiêu dâm, tôn giáo.

- Em mua trụm tủ sách của thằng cha chủ rạp xi-nê ở Đà Nẵng, hồi mới đảo chính Nhật xong, đám bồi bếp đang khuân đi bán làm giấy gói hàng. Thuê xe ngựa chở về chất đống. Ba em la một trận thất kinh, ổng đưa tiền biểu đi mua thứ khác mà!

- Hồi trước cậu học tới đâu?

- Mới đang học trò anh. Gần hết xơ-gông[1] trường Khải Định thì bị đảo chính. Các bạn cũ của anh ở Huế còn nhắc tên anh, học giỏi, bơi giỏi, đẹp trai, các cô nữ sinh Đồng Khánh cứ mê mệt...

Khánh mỉm cười, đón một xúc động dìu dịu tỏa khắp người như gió mát trưa hè. Cái tên Hăng-ri Ung Viết Khánh vẫn còn vang đến lớp mới lớn ư? Ấy là cậu này chưa từng nghe tiếng rì rào dội lên trong khán già khi Khánh từ sau cánh gà bước ra trong bộ áo quần của chàng Prince Chang ant[2] sắp đánh thức nàng Bạch Tuyết trong rừng, hay là vai hoàng đế Na-pô-lê-ông đối đáp với người lính gác, trong những vở kịch hát tiếng Pháp dịp cuối năm học...

Một thứ phản xạ nào đấy bên trong Khánh chợt lôi ngược anh lại.

Anh đã từng tô đậm trong nhật ký mấy dòng, còn gạch đít bên dưới:

Ta được ưu đãi trong quá khứ

Ta dứt khoát căm ghét quá khứ

Ta vĩnh viễn đoạn tuyệt quá khứ

Ta trở về với người lao khổ

Ta sẽ thành một người cộng sản.

Khánh hoàn toàn thành thật với mình khi viết những câu quyết liệt ấy, chưa một ai được xem, như con ve sầu lột xác khi thật vắng. Nhưng các thứ cám dỗ cứ đến từ mọi phía... Vade retro, satana![3]

Anh quay lại, nghiêm khắc:

- Học khá thế, sao cậu không kiếm công tác gì phục vụ kháng chiến?

- Anh coi đó, cán bộ quanh đây người mù chữ, người mới học bình dân...

- Các trường đang mở lại, cậu đi dạy được chứ?

- Em là đứa sinh ra tiên thiên bất túc, các thày thuốc chạy hết, nói không sống nổi đến tuổi lên ba... Bây giờ em đi dạy xa, ăn cơm trọ, chắc nửa tháng là gục luôn. Ước gì em được mạnh bạo như anh, em ra trận từ lâu...

*

* *

Hai Khánh không nhận thấy gì khác thường trong những ngày tiếp theo. Lòng mến phục của Bảy Suyền không giảm sút, chỉ tăng thêm, nhất là sau khi anh giảng cho Suyền mấy đoạn khó trong thơ Va-lê-ri và văn siêu thực.

- Em mới gặp anh, chớ nghe tiếng anh từ lâu. Tụi Tây được anh dạy, trầm trồ khen anh ghê đi.

- Cậu gặp đứa nào?

- Hai thằng Pháp, một tên là Mạc-xen, thằng kia không rõ, ghé ăn quán ngồi bên em. Thằng Mạc-xen nói anh giảng chính trị còn hay hơn ông giáo dạy văn của nó, bên Pháp... Dầu không nghe đồn, em cũng đoán được anh là ai. Anh mới xuống ngựa bước vô ngõ, em biết là trí thức bậc cao liền à.

- Ái chà, Khổng Minh tái thế!

Khánh gạt đi, nhưng hiểu cậu này không bịa, chỉ thêm dấm ớt. Hắn ta trẻ mà, quý ai thì bốc thơm lên chín tầng mây, ghét ai thì vùi dưới bảy lớp đất!

Vả lại Khánh cũng biết người khác nghĩ gì về mình. Mỗi người một phách, quá khen hay quá chê đều có đủ. Lấy ý kiến trung bình của số đông cán bộ thì Khánh là một trí thức trẻ, sớm tiến bộ, có tài, phải cái kiêu ngầm và thích sống cô độc. Riêng đối với các cô cậu học sinh mới rời ghế nhà trường theo kháng chiến, Khánh là thần tượng. Bước vào đêm lửa trại thanh nien, đến nói chuyện ở một trường trung học tản cư, ghé qua bệnh viện khám sức khỏe, anh thường lọt vào giữa những khuôn mặt ửng đỏ, những nụ cười cởi mở hay duyên dáng. Khánh nổi bật lên với vóc người cao và dẻo của lực sĩ bơi lội, bộ mặt đẹp trai đã trải sương nắng, lời đối đáp hóm hỉnh. Cộng vào còn thêm cặp áo quần ka-ki ngoại ép thẳng nếp dưới chiếu, đôi ủng da, cây súng Côn 45 trong bao Mỹ, con ngựa to lớn gõ móng đợi ngoài sân: Ban binh vận tỉnh chu cấp rất khá để giữ tư thế oai vệ cho người lên lớp tù binh Âu - Phi, còn dạy tù binh ngụy thì sao cũng xong...

Trong vùng tự do Nam Quảng Nam mọc đầy những dãy phố tranh tre nứa lá của đồng bào thành thị và các huyện Bắc tản cư vào. Lâu lâu, một trận bom đánh vỡ một khu nhà xúm xít, chỉ năm bảy ngày sau những chuỗi lều rời lại nối tiếp nhau hiện lên trên mấy khúc đường có ít nhiều bóng cây chung quanh đấy, người dân lìa quê thi gan chịu đựng để giữ lòng trung với Tổ quốc và Cụ Hồ. Các cô hàng quán nhớ mặt thuộc tên các anh cán bộ và bộ đội rất nhanh. Mỗi dịp đi đường, Khánh được nhận không biết bao nhiêu câu chào mời đon đả giàu ngụ ý, kèm ánh mắt nói nhiều hơn môi. Anh chỉ xin lỗi và giục ngựa đi gấp. Rất may là trong kháng chiến khó gửi thư, nếu không số thư gửi cho Khánh sẽ đọc không hết.

Kể ra, khi cuộc sống xô bồ chông chênh dưới bom đạn dễ khiến cho trai gái buông thả với nhau, giữ mình được như Khánh là giỏi. Một chàng trai hai mươi lăm tuổi rất khỏe mạnh, lại được lắm cô mê tơi, vẫn thường cẩm thấy cần đàn bà. Khánh cố cưỡng lại đòi hỏi ấy. Người đàn bà bước vào đời anh chỉ gây rối. Một Xi-mo-nét Mỹ Duyên cùng mối tình đầu rất éo le đã quấy đảo anh nhiều năm. Tiếp đó, một trận ốm và những cơn buồn chán đã đẩy anh vào tay Năm Bưởi, cô gái cùng làng.

Mỗi lần Năm Bưởi với đứa con trong bụng quay về ám ảnh, Khánh cố gạt đi, xua đi, quên đi. Anh không hề yêu Bưởi. Anh chỉ xiêu lòng khi một cô gái cố tình hiến thân. Có thai, cô ấy khoác cây súng kỵ binh Nhật lên vai, ra đi không một tiếng than thở... Nghĩ đến làm gì. Chỉ nên nhớ bài học của một lần trót dại...

Bảy Suyền xin giấy xã đi thăm người chị lấy chồng trên huyện Tiên Phước. Có lẽ được xã mật báo sao đó, trạm gác ở cuối huyện Tam Kỳ chặn xét cậu ta rất kỹ, cả hàng lẫn người. Suyền chỉ đèo sau xe đạp một gói to mắm ruốc, tôm khô, cá chuồn muối, kèm một chai dầu lửa, những thứ ai lên vùng trên cũng mang theo. Trong người không có gì đáng nghi. Ba ngày sau cậu trở về lắc đầu kể với Khánh vụ soát kéo dài hàng giờ, vẫn cười:

- Còn đỡ hơn hồi mới nổ súng. Cuốn vở học sinh in bản đồ Đông Dương trên bìa sau, kèm một cây bút chì xanh đỏ. Vậy là mấy ông du kích i tờ ghép tội mang theo bản đồ với cờ Pháp!... Thiệt may, em gặp bác nhà đi họp Mặt trận Liên Việt tỉnh, ở trọ nhà chị Tư em, gởi thơ với tiền cho anh đây.

- Bác nào thế?

- Bác tú Đỉnh, ba anh chớ bác nào! Anh không biết à, bác bây giờ là phó chủ tịch Liên Việt huyện Tây Quảng. Bác đem tiền với đồ tiếp tế cho anh, tính họp xong mang xuống đây, gặp em bác gởi luôn. Con ngựa Hường nhà anh già rồi, đi bước một như ta đi bộ thôi, bác chỉ cưỡi nó cho đỡ mỏi chân.

Suyền trao cho Khánh lá thư dán kín với xấp giấy bạc bốn ngàn đồng tín phiếu, kèm gói quà quen thuộc gồm các thứ thổ sản làng Linh Lâm.

Đã hai năm nay Khánh không về Linh Lâm tuy chỉ cách một ngày rưỡi đường bộ trong vùng xa địch, đi ngựa chưa hết một ngày. Anh ngạt cái không khí vay mượn gượng gạo trong ngôi nhà âm u nọ. Năm xưa người ta đóng với nhau những vai cha mẹ, con cái, chị em đã đầy ép uổng, gần đây lại đóng thêm vai nhân sĩ yêu nước, trí thức tiến bộ nữa, với điệu cười xởi lởi trước mặt mọi người và nỗi khinh ghét hằn học khi cửa đóng kín.

Quan phủ Đỉnh rời thành phố Quy Nhơn trở về quê với bộ râu năm chòm nuôi dài, cặp bà ba trắng giản dị, cùng niềm tin rằng chính phủ Cụ Hồ không truy tội cũ của giới quan lại. Ông ghé tìm Khánh ở cơ quan - lúc này anh đã về làm địch vận ở Quảng Nam - trao lá thư của bà Lợi Thịnh. Một lần nữa me Khánh lại chịu ơn ông chồng bước kế. Vừa đánh hơi biết thành phố sắp phải tiêu thổ, ông đã chạy bán được căn nhà hai tầng của tiệm buôn Lợi Thịnh, lấy toàn vàng diệp. Nửa tháng sau, những căn nhà liền phố chỉ tháo bán được cánh cửa và đồ điện trước khi dân quân đến đập tường. Me Khánh đưa các em lên tàu suốt ra thẳng Hà Nội, dựa vào mấy ông anh bà chị, ngoài ấy mới qua nạn đói nhưng có vốn vẫn kiếm được đủ ăn, còn trong Nam này chiến sự từ Nam Bộ cứ lan ra mãi. Thằng em Rô-be Chương không theo me, vác cây đàn ghi-ta nhập vào đoàn Văn nghệ nào đó ở Phú Yên. Từ đó Khánh thỉnh thoảng nhận thư gửi từ Hà Nội và Phú Yên, đến ngày cả nước nổ súng thì vắng hẳn.

Chỉ còn ông phủ Đỉnh ở Linh Lâm là người thân để Khánh lui tới. Tất cả những ai xa nhà đều cần một vài nơi để ghé qua tạt về trên những dặm dài công tác, dù chỉ để hưởng một tối được gọi bằng con, anh hay chú. Và nếu có được một bà mẹ nuôi thân thương, một người vợ đảm đủ súc tự túc nuôi con và tiếp tế cho chồng, ấy đã là hạnh phúc đáng thèm thuồng. Những người không biết rõ cảnh nhà của Khánh đều ngạc nhiên vì anh rất ít nhắc đến cha mẹ tuy vẫn nhận nhiều thu, quà, tiền gửi đến. Nhiều đồng chí rẽ thăm nhà Khánh, khi kể lại cụ tú Đỉnh tiếp họ niềm nở và tỏ ra học nhiều biết rộng trong khi trò chuyện, thường thấy anh nghe lơ đãng, không hỏi thêm, có lúc đứng dậy xin lỗi để đi việc gấp.

Khánh không về, ít viết thư trả lời, nhưng ông bố hờ chẳng lấy làm điều, giữ nguyên mối dây nối với anh.

Lần này bóc thư ra xem, Khánh nghĩ về cái tên “cụ tú Đỉnh”. Ông ấy chưa từng đỗ tú tài, nho học cũng như tây học. A à, hiểu rồi... Ở huyện Tây Quảng ít nhà khoa bảng, người ta thường gọi tên những người đỗ đíp-lôm thời Tây lên ông tú, và nếu khao làng đủ lệ thì cũng được lý hương xếp ngồi cùng chiếu với các cụ tú lều chõng bút nghiên. Ông ấy khôn thật. “Ông Đỉnh” hay “ông Ba Đỉnh” nghe thấp kém quá, ngắn dài cũng đã nuôi được chòm râu. “Cụ tú” mới ra dáng trí thức chứ. Dù sao ông cũng học qua trường Hậu bổ ở Huế...

Đọc lướt những dòng thăm hỏi khá nồng nàn, Khánh bỗng giật mình dừng lại. Anh nhắm mắt vài tích tắc, mở mắt đọc tiếp:

“... Cùng về với vợ chồng ông Phan Chanh có cô Năm Bưởi. Cách hai tháng cổ sanh một đứa con trai to mập lắm. Cà nhà ông Tư nói là cổ lấy một anh bộ đội, cưới xa nhà ở Quảng Ngãi, mới có tin ảnh hy sanh ở Tây Nguyên, mà sao cả làng đều đồn đại đó chánh là con của anh Khánh, ảnh bỏ không nhìn. Ba chẳng bịt được miệng tiếng thế gian. Vậy nhắc để con giữ ý...”.

Bưởi đã khai cho con một lý lịch giả!

Trong chớp loáng, Khánh thấy lại cặp mắt mê đắm của Bưởi, giọng thì thào ngất ngư bên tai: “Trời sập em không sợ, nhứt đánh nhì đày em không sợ, chỉ sợ anh không thương em...”.

Cây súng kỵ binh trên vai, Bưởi đi dự chiến cùng bộ đội ở mặt trận Bà Rén, bị thương ở mông, vết thương lắt léo ấy buộc cô phải nằm bệnh xá hơn tháng. Cô sắp ra viện thì Khánh được khiêng vào, mê man vì sốt rét ác tính. Dạo ấy bệnh xá đang bị máy bay lùng riết, nhân viên thiếu, mà ca của Khánh cần người nâng giấc suốt đêm, ban ngày cõng ra hầm nhiều lần. Các thầy thuốc rất mừng khi Bưởi tình nguyện ở lại săn sóc đồng chí phó ban địch vận tỉnh rất nổi tiếng này, người cùng làng nữa càng quý.

Hai cánh tay quen đánh búa lò rèn của Bưởi không khéo léo mấy nhưng rất khỏe. Bưởi đào thêm một cái hầm ngay bên giường trọng bệnh, lót sẵn ván chiếu, khi cần cô xốc Khánh trên hai tay đặt xuống đây, lúc nguy cấp mới cõng Khánh theo đường hào ra hầm sâu ngoài vườn. Cô ngủ ngồi chập chờn bên Khánh đêm này qua đêm khác, chỉ cười khi thấy các cậu cứu thương le lưỡi phục dài: “Tôi ở du kích mà, thức đêm gác với tuần quen rồi...”. Bưởi cảm thấy mình đang truyền dần sức khỏe sang cho Khánh ngày một ít, như người ta tiếp máu; trong thân thể người con trai dần dần trở lại trẻ đẹp này có rất nhiều da thịt của cô. Chỉ cần nhận được một ánh mắt trông theo, một nụ cười biết ơn, một lời giục đi nghỉ, Bưởi đủ mạnh lên như uống sâm và được đền bù tất cả.

Cuối cùng, điều không cưỡng nổi đã xảy ra. Bưởi mê cuồng, Khánh chỉ yếu lòng và thương hại. Rồi họ chia tay lặng lẽ. Khánh trở về Ban địch vận, Bưởi ở lại bệnh xá làm cứu thương.

Ngót ba tháng sau, Bưởi đem thuốc đến trại tù binh, gặp riêng Khánh báo tin có thai. Trước vẻ hốt hoảng mà Khánh không kịp giấu, Bưởi chỉ cười nhạt:

- Cậu cử đừng lo. Con nhà nghèo hèn như tôi không dám đòi làm dâu quan phủ đâu, chỉ ghé chào cậu một tiếng cho trọn tình nghĩa đồng hương.

Bưởi thôi việc ở bệnh xá, biến mất.

Ít lâu sau, một nhóm dân công làng Linh Lâm đi lãnh muối, gặp Khánh dọc đường, cho biết Năm Bưởi đã lấy chồng bộ đội, anh này phải cưới gấp tại Quảng Ngãi để kịp đi chiến dịch. Đường sá cách trở, anh Cả Chanh thay mặt họ nhà gái, cũng như hồi ảnh cưới chị Thùy phải nhờ anh La Giang làm nhà trai. Cưới xong, vợ chồng cô Bưởi chụp hình chung kèm thư gửi về quê, ác hại sao mà bị lạc mất. Tới lá thư sau của anh Chanh, ông Tư Chua mới biết có con rể đại đội phó, cả nhà cũng ưng ý.

Đến nay sự thể đã hiện rõ: Cả Chanh ém nhẹm vụ em gái chửa hoang bằng một người chồng tưởng tượng. Nhưng đứa trẻ còn đấy, càng lớn lên càng giếng Khánh, mới hai tháng dân làng đã nhận ra...

“Cụ tú Đỉnh” biết thóp được chỗ yếu của Khánh rồi, chắc gì cụ để yên. Còn tay Bảy Suyền khó dò này nữa, hắn biết về Khánh tới mức nào, sẽ dùng những điều hắn biết vào việc gì?

Khánh gục đầu xuống bàn, bưng trán.

*

* *

Lúa từ hàng binh cũ được giao về liên khu mới mươi hôm, lại một lúa mới kéo về, hầu hết là lính Phi: bọn ta-bo gốc Ma-rốc, lính mặt rạch từ các thuộc địa Trung Phi, cả một số Ma-đa-ga-xca có nét gần người Đông Á. Khánh bận rối mù vào những buổi lên lớp, lấy cung, lập hồ sơ. Anh quên nhanh vụ rối ren vừa rồi. Đánh giặc rầm rầm, thì giờ đâu mà loay hoay với những mối tơ lòng!

Quả là trại cần một thông dịch viên hằng ngày lui tới, chí ít cũng để giảng giải nội quy, chặn những tên du côn và dỗ mấy đứa tuyệt vọng chờ chết. Giao cho một tiểu đội trưởng đã từng đi lính thợ O.N.S. ở Pháp tới năm năm, chỉ mấy hôm sau Khánh đã nhận thấy anh này nói lua lua nhưng dịch sai toét. Thử một chiến sĩ trẻ từng học trường dòng với cố đạo Pháp, cậu này lại mắc cái tật chắp tay cúi đầu và thưa gửi quá hạ mình trước tù binh, không sửa được. Vài người nữa chỉ biết tiếng Pháp ở mức điểm chen vào tiếng Việt để vây vo trước cô hàng cà-phê cô-táp.

Không ngờ đồng chí chính trị viên lại gợi ý cho Khánh dùng Bảy Suyền làm thông dịch:

- Dụng nhơn như dụng mộc, anh à. Mình nói gì ảnh dịch nấy, có phải ảnh tự nghĩ ra đâu.

Khánh còn giữ ý:

- Anh hỏi lại các đồng chí địa phương coi thử, chưa chắc họ đã tin...

- Tôi hỏi rỏi. Họ nói nhờ anh Khánh kèm riết, chắc cậu ta chịu ra khỏi vỏ ốc, lần hồi mới theo kháng chiến.

Suyền chần chừ không nhận việc ngay:

- Cho em suy nghĩ thêm đã. Theo anh làm đồ đệ thì em muốn lắm, vậy chớ còn biết bao nhiêu ông cấp trên ra lệnh tới lui...

- Thì cậu làm thư ký riêng của mình là tiện nhất, chỉ có một cấp trên thôi!

Từ đó cậu chủ nhà niềm nở nhưng xanh gầy biến thành thư ký riêng của đồng chí phó ban địch vận tỉnh. Cậu ta đến trại đúng giờ, cần mẫn dịch viết các bản khai lý lịch và dịch miệng cho anh chính trị viên hỏi chuyện tù binh, hết giờ mới về, y hệt một học trò hay công chức chăm chỉ.

Chú thích:

[1] Năm thứ nhất cấp ba (phổ thổng trung học, thời Pháp thuộc).

[2] Hoàng tử Đáng Yêu, tên một nhân vật trong truyện cổ “Bạch Tuyết với bảy chú lùn” nổi tiếng ở phương Tây.

[3] “Hãy lui đi, quỷ Xa-tăng!”. Lời của Chúa Giê-xu mắng quỷ trong Kinh thánh đạo Thiên chúa, bản La-tinh.