← Quay lại trang sách

Chương VII

Con sông La nhỏ hơn sông Thu Bồn nhưng cũng trong veo như thế, dễ yêu như thế trong những tháng xa mùa lũ lụt. Đã dâng lũ thì sông nào cũng đáng gờm như nhau. Có khác chăng chỉ là sông La có đê, sông Thu hình như không, Cam cố moi trí nhớ vẫn không hình dung ra một khúc đê nào ven bờ dòng sông quê hương.

Sắp chia tay với sông La rồi.

Sáu Cam rời cơ quan huyện đội Đức Thọ đóng gần thị trấn huyện lỵ, đếm bước trên con đường đá ven sông La đi lên phà Linh Cảm, nửa vui nửa buồn. Đã tới khu trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng với mái lá tường đất trên nền đắp cao phòng lụt, trong đó có lớp Đệ nhất văn học của Cam. Tám tháng trước, Cam ngập ngừng bước vào lớp trong bộ xi-ta xám độc đáo của liên khu Năm, với màu da tái xám và cặp môi thâm sốt rét, đèo thêm nỗi lo canh cánh sợ học đội sổ. Lặn ngòi ngoi nước hai tháng đường núi ra đến đây, được nhận vào một trong những trường chuyên khoa hiếm hoi của nước Việt Nam kháng chiến có đủ bốn ban và mỗi ban ba lớp. Cam sợ nhất cái thân phận học trò dốt vớt lên trượt xuống, bỏ thương vương tội.

Chuyến vượt núi của đoàn anh La Giang khá trôi chảy. Không bị phục kích, không nghẽn đường tới mức phải vòng xuống Cửa Việt hay bật lên lận A Ki trên đất Lào, chỉ gặp mưa lớn trên vùng tự do Bắc sông Gianh. Đến đấy Cam dầm mưa nặng mới nổi sốt rét, cũng là lúc cả đoàn dừng lại nghỉ vài hôm tắm giặt. Nhờ sức đang lớn, Cam lướt sốt nhanh, gượng dậy nhanh, không đến nỗi níu chân các anh ở lại đợi.

Trong vô số cái ngỡ ngàng của người lần đầu bước tới Nghệ Tĩnh, khó khăn lớn nhất đối với Cam là giọng nói và từ ngữ. Các anh từ đây đi Nam tiến đã cố sửa cách nói sao cho người trong Nam dễ hiểu, đến nay Cam mới ngớ ra khi nghe hàng tràng tiếng lạ, cứ giương mắt há mồm chờ các anh dịch lại. Sau đó phải nhẩm vài lần để nhớ “sương nác ngoài rào” là gánh nước ngoài sông (đừng loay hoay tìm giếng bên ngoài hàng rào), hay “mạn chển xuốc cươi” là mượn chổi quét sân. Quả là câu đố hiểm hóc khi anh La Giang bắt Cam tập dịch: “Mô rú mô ri mô nỏ chô: mô rào mô bể chô mô mồ”. Anh cười chán rồi mới giảng: “Đâu rừng đâu núi đâu không thấy, đâu sông đâu biển thấy đâu nào”. Bước vào xứ quê của anh “nhà không chái, đái không ngồi, nồi không quai”, anh La Giang vừa dịch cho đoàn vừa cười liên miên, như say chếnh choáng khi hít thở không khí vùng đất mẹ mà anh đã xa rời hơn chục năm qua.

Tiếp theo cái nạn ngôn ngữ bất đồng là những điều phải nhập tâm khi bước vào nhà đồng bào, bởi từ khi qua đò Minh Cầm đoàn bắt đầu ăn ngủ trong dân. Chớ có suồng sã xả láng theo kiểu trong Nam, phải chào cho khắp, chào trịnh trọng, đặc biệt đến bữa cơm phải mời chào tất cả những ai có thể trông thấy mình ăn. Phải nhanh trí xếp thứ bậc sao cho đúng bọ, mẹ, anh, ả, em, cháu, và tự xưng sao cho hợp. Nằm ngồi phải đúng hướng, đúng chỗ, chú ý đến bàn thờ và cửa giữa... Cam rối trí đến nỗi mãi về sau mới nhận thấy phụ nữ mặc váy nhiều hơn quần, và nhìn chung quanh thấy màu nâu ngự trị: nâu non, nâu sẫm, nâu ngả gụ ; rất khác liên khu Năm với màu đen của dân và màu xám của bộ đội.

Anh La Giang chăm lo cho Cam thật chí nghĩa chí tình.

Sau khi Cam được nhận vào trường Huỳnh Thúc Kháng, anh định xếp cho ở nhà bố mẹ mình. Xa nhà quá lâu, anh quên bẵng rằng ở quê người ta lấy vợ lấy chồng sớm và đẻ con nhiều. Trong hai căn nhà lá chung vườn của bố mẹ, có một anh, một chị, một em gái, với tất cả mười sáu đứa con trứng gà trứng vịt nô nghịch rầm rầm. Chịu thôi.

Học tại đây có hơn hai chục anh em liên khu Năm, ra đợt đầu vào dịp nghỉ hè năm 48, đợt hai chỉ trước Cam tí chút. Họ được xếp ở trong đình làng Tùng Ảnh, tổ chức thành Học xá miền Nam, tự bầu Ban trị sự và góp tiền thổi nấu chung, sống kham khổ nhưng nề nếp khá tốt. Cam rất muốn vào đấy, nhưng sau một đêm ở chơi tán chuyện lại thấy không nên để anh em nhường cho mình một chỗ nằm và một chỗ ngồi học trên những sạp tre bàn tre đã quá chật chội.

Chạy đôn chạy đáo mấy ngày liền, anh La Giang gài được Cam vào cơ quan huyện đội Đức Thọ, dưới cái ô che chở của anh huyện đội trưởng là bạn chăn trâu hồi nhỏ. Huyện đội trưởng ký giấy cho Cam “tái đăng” làm liên lạc viên, mỗi tháng chỉ cần đến cơ quan một lần để nhận gạo, tiền ăn và phụ cấp. Anh chọn nhà ở cho Cam còn kỹ hơn tiền trạm chọn nhà cho Ban chỉ huy, đưa Cam vào ở trong một gia đình bà con trong làng Đông Thái. Hai ông bà vừa làm nông vừa dệt lụa, chỉ hai con, cậu trai bước vào cuối cấp tiểu học cần thầy kèm, cô chị cũng thích được bày vẽ thêm khi học Bình dân buổi tối, dằn dà về sau hai ông bà dường như muốn anh học sinh bộ đội này ở rể hẳn nhà mình. Thật tình, cô Tơ làm ăn giỏi và khá xinh gái, phải cái hơn Cam đến hai tuổi, cả nhà lại xem điều ấy là tốt. Cam chỉ cười thầm khi nghe giảng xa xôi về “gái hơn hai, trai hơn một”, vẫn cứ một câu gọi chị hai câu mời chị, trong khi cô Tơ ngọt ngào xưng em, phần cháo sớm chè khuya dành cho Cam bao giờ cũng thêm huong vị của những nụ cười ánh mắt...

Mới đấy mà đã qua tám tháng, chóng ghê!

Cam đi học theo kiểu khác thường, từng đợt một, mỗi đợt đều mở đầu bằng cưỡng bức và kết thúc bằng ham mê. Năm xưa ở Quy Nhơn, Cam biết đọc biết viết và làm được bốn phép tính là do anh Cả Chanh làm dữ. Khi Cam về ở với chị Thùy, cả nhà đói rách. Cam định bỏ học kiếm việc làm, anh Cả long mắt nói như dao chém đá: “Tới mười tám tuổi thì mày tự do, trước mười tám mày phải phục tùng tao, mày phải học, phải học!”.

Học vấn tràn vào Cam như vỡ đê. Cam vào trường tiểu học ở Bình Định, trường Trung học bình dân ở Quảng Ngãi, trường chuyên khoa ở Hà Tĩnh, lần nào cũng kéo theo quả tạ tự ti của người học mót. Vài tháng đầu chăm lo lấp lỗ hổng, vài tháng giữa đạt mức trung bình, cuối niên khóa thường được xếp một trong mười học sinh khá nhất lớp. Cam luôn luôn ngạc nhiên khi thấy các bạn được học đủ ngày tháng phải tìm đến hỏi mình một thành ngữ Hán hay một từ tiếng Pháp, tiếng Anh.

Một tuần trước, anh huyện đội trưởng Đức Thọ bàn giao công tác để lên tỉnh đội. Huyện đội trưởng mới từ xã đưa lên, là một anh trung niên chỉ thích mặc bà ba nâu, vắt vai cái khăn trắng, ngồi xổm co hai chân trên ghế dựa và kéo theo mình cái giỏ chứa điếu cày, mớ que đóm, cái âu đất nung nhỏ đựng than hồng. Hễ vui câu chuyện, anh có thể kéo thông năm mồi thuốc lào mà không say gật gà.

- Mền bản chất nông din ưa nhít là sớm sớm hút mấy điếu thuốc, chè uống vài đợi nác mới, đánh con tru ra rọng... Đánh Tây mãn cuộc là mền về đi cày, nỏ ham chức tước chi!

Tân quan, tân chính sách. Anh soát lại công việc cơ quan huyện đội, đưa bớt bốn người về đại đội bộ đội địa phương huyện, trong đó có đội viên liên lạc Phan Cam. Nghe đồng chỉ huyện đội phó trình bày hoàn cảnh của Cam, anh lắc đầu quầy quậy:

- Rứa là ông La Giang cảm tình cá nhân! Sắp sửa tổng phản công rồi, thân trai tráng lo vùi đầu học chữ mần chi nữa... Còn thiếu bốn tháng nữa mới đủ mười tám tuổi? Thiếu niên nhi đồng còn giết được Tây nữa là... Cứ kêu hắn về đây, mền đả thông cho!

Anh chờ đợi một cuộc tranh cãi đầy lý sự lẫn hờn dỗi với cậu lính miền Nam (anh chưa hề qua khỏi đèo Ngang, không hình dung được miền Nam ra sao), lại ngoi lên học tới ban tú tài trong khi chính anh mới thoát mù chữ. Anh sửng sốt thật sự khi Cam tươi mặt đón quyết định đưa về đơn vị, còn hỏi bao giờ được đi. Chà, đám trí thức trẻ này thật khó hiểu... Anh thử thêm tí nữa:

- Ở đại đội đang thiếu cấp dưỡng. Anh em tân binh chỉ ham cầm súng, ngại nồi chảo nhem nhuốc, hay bị các cô gái làng chỉ trỏ chế giễu. Cậu xem làm được không?

- Báo cáo anh, em không biết nấu nướng, nhưng cố học thì làm được thôi!

Cam rời cơ quan huyện đội trở về nhà cô Tơ ở thôn Tùng Ảnh với bản quyết định làm cấp dưỡng. Cam không biết rằng nửa giờ sau khi ký, anh huyện đội trưởng nói riêng với chính trị viên đại đội địa phương:

- Cứ thử xem hắn có kiêu căng bọ tịch gì không. Nặng máu tiểu tư sản thì thôi, hễ yên tâm gánh nồi thì cậu đưa hắn vô Đảng, cho đi học đào tạo lên cấp côi, về sau thay bọn già mền. Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn báo tin vài tháng nữa về tuyển sinh, hắn khá thì cho đi học. Mền có hơi gờm hắn chữ nghĩa đầy bụng, gặp một lát tự nhiên thấy thương hắn, lạ thiệt chớ!

Cái điều anh huyện đội trưởng thấy khó hiểu đang phơi bày khắp noi. Từ thị trấn Đức Thọ về trường Huỳnh Thúc Kháng, Cam đi qua hàng chục cổng chào bằng tre với cót tô đậm hàng chữ “Tích cực cầm cự, chuẩn bị chuyển mạnh sang TỔNG PHẢN CÔNG”. Ngay trước trường Huỳnh Thúc Kháng, dưới hàng hiên, cũng treo tấm băng to dài “Chuẩn bị TỔNG PHẢN CÔNG”, chữ giấy vàng trên nền nâu non.

... Cam dừng bước trước cổng trường, leo lên con chạch bên phải đường đê sông La. Mặt trời đã lặn một nửa. Những đàn và nhóm cò trắng lấy dòng sông làm cữ, vội vã đập cánh bay về Hương Sơn, Hương Khê tìm nơi ngủ. Trên sân vận động nằm giữa trường chuyên khoa và chợ Hạ, các trung đội tự vệ học sinh đã tan buổi tập chiều, đang ngồi hát, thi nhau hát thật to. Tất cả đều là những bài Tổng phản công.

... Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về...

... Về thủ đô, quân du kích súng dưới tay bước trên hè phố thênh thang…

... Ước mơ ngày mai diệt hết quân thù, ca vang lừng nhạc xuynh giữa thủ đô...

... Tổng phản công, ta mong từnq giây...

Một số cậu quản ca có sáng kiến cắt đôi cắt ba hài hát, chen vào những câu hô lớn “Chuẩn bị...”, và đơn vị thét đáp “Tổng phản công!”, sau đó hát tiếp.

Cam ham học, thèm học, đành rồi. Nhưng chẳng bao giờ Cam thoát mũi nhọn xoi xói như viên đạn từ mặt trận dội về, bay lạc qua bốn bức tường trình đất sét quét vôi trắng của trường chuyên khoa. “Mình đã từng nếm mùi bom đạn khi mười ba tuổi, từ Bắc Sài Gòn đến vùng cao-su Biên Hòa, sắp Tổng phản công rồi. Chắc hẳn Tổng phản công y hệt Tổng khởi nghĩa, cả nước rập một lần nổi dậy quật nhào thằng Tây, lần này còn thêm Hồng quân Trung Hoa tràn qua biên giới giúp sức nữa, coi như ăn chắc. Đến ngày hoàn toàn độc lập, lẽ nào mình chỉ ghi vào lý lịch rằng đã chúi mũi học văn hóa trong khi cả nước đổ xương máu đánh đuổi giặc Tây?”.

Trong những ngày này, Cam thấy mình như cái thước kẻ dựng đứng trên bàn chờ một luồng gió thổi. Anh huyện đội trưởng mới đã phùng má thổi cây thước ngã về phía giết giặc. Và Cam biết ơn anh đã giải thoát cho Cam khỏi nghiêm lệnh của anh Cả Chanh cùng mọi sự sắp xếp chí tình của anh La Giang. Sẽ phải viết thư cho hai anh, giấu biến đi cái phần ngứa ngáy nhấp nhổm thèm ra trận của Cam, coi như đến tuổi cầm súng thì ắt phải rời ghế nhà trường. Anh La Giang mới chân ướt chân ráo về đến liên khu Tư đã bị điều vào bộ khung của đại đoàn 304 sắp ra đời, còn anh Cả Chanh chắc hẳn đã vượt biên giới sang Lào. Muốn thư đến nơi, Cam sẽ chép mỗi thư thành ba bản, gửi theo ba con đường khác nhau...

Mặt trời đã lặn hẳn phía thượng nguồn sông La. Các cô gái dệt và nhuộm lụa ngại nắng rám má hồng thường đợi xế chiều mới ra giặt vỗ phồm phộp bùm bụp trên các bực xây đá ven đê, đã gánh lụa về phơi trong vườn nhà. Tiểu đoàn tự vệ trường chuyên khoa tan buổi tập chiều, đã hô những khẩu hiệu tổng phản công cuối cùng, vác cây súng nứa và ôm xấp vở giấy rơm tự túc tản về nhà trọ nằm rải trong các làng Đông Thái, Tùng Ảnh, Linh Cảm.

Cam cũng về. Muốn ra đi thật lặng lẽ nhưng sợ mếch lòng. Còn phải đi chào qua học xá Bình Trị Thiên đóng trong nhà dân, ghé thăm vài chục anh em từ liên khu Năm ra, sống chung đói rách trong đình làng Tùng Ảnh, và phải thưa trình sao đó để cô Tơ rất đáng mến cùng bọ mẹ hiểu cho rằng thân trai đất Việt đã đến lúc xả thân vì nước, vẫn không hề quên bọ mẹ với chị Tơ đã săn sóc thương yêu...

*

* *

- Báo cáo trực tinh, tôi, học viên Phan Cam, đại đội Hai trăm năm mươi lăm, có mặt!

- Nghỉ!

Cam hạ cây nứa dùi lỗ xỏ dây dùng làm súng tập, đứng nghiêm chờ lệnh.

Đại đội phó trực tinh tiểu đoàn cau mày, không ưng ý. Vị khách đến thăm học viên Phan Cam hôm nay là bà phó chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ miền Nam Trung Bộ, từ xa thẳm khói lửa ra đây, có một trung đội trưởng theo bảo vệ, một đại đội phó thuộc tỉnh đội Thanh Hóa hướng dẫn, còn mang theo một thư viết tay của ông chủ tịch tỉnh Thanh Hóa đề nghị hết sức giúp đỡ. Cậu học viên được thăm lại rách hơn tổ đỉa!

Trường Trung học lục quân Trần Quốc Tuấn, phân hiệu Trung Bộ, mở khóa 6 trong năm chuẩn bị Tổng phản công và quân số tăng vọt này, được phát quân trang quá chậm. Học viên từ các tỉnh kéo về với cái khăn gói quả mướp chỉ hơi nhỉnh hơn ruột tượng, các đồ đạc diện nhất để lại nhà hay đơn vị cũ, nhận quân trang xong sẽ cấm mặc thường phục, bởi nhà trường phải là mẫu mực về tác phong chính quy. Sáu tuần quần quật xây dựng doanh trại, tiếp hai tháng lăn lê bò toài vừa qua trên các thao trường đầy sỏi đá và gai góc chưa dọn hết, đã tạo nên những kiểu ăn mặc kỳ lạ nhất.

Đồng chí đại đội phó đứng trên thềm, rất chỉnh tề trong bộ ka-ki Nam Định, đi giày da vàng đế cộp có cổ, đội mũ bọc vải và lưới gắn sao vành vàng, còn đeo chéo qua ngực tấm băng rộng bản hai màu đỏ vàng của trực tinh. Đứng nghiêm dưới sân là một người đen như củ súng đến khó đoán tuổi, mặc bộ áo quần nâu đã bị bùn ruộng ngả sang màu gụ loang lổ từ chân đến ngực, vá chằng vá đụp bằng ba bốn thứ vải khác màu. Chân đi đất chắc hắn chai cứng hơn da trâu. Đặc biệt nhất là cái mũ khâu bằng mo cau hình ca-lô úp trên cái đầu cạo trọc bóng, có quai mây chằng dưới cằm. Hầu hết anh em học viên đều mặc na ná như thế, có khác chăng là ở màu vải nguyên thủy của áo quần, hay cái mũ mo chằm hình phễu, hình ống. Súng kíp hỏng dùng để tập chỉ đủ cho một phần ba quân số, súng nứa chiếm hai phần ba, mấy cây mút-cơ-tông gỗ anh em tự đẽo khi lao động phải bỏ xó; thà xấu đều hơn tốt lỏi.

Được cái, Cam vẫn không phạm quy định một ly lai nào. “Nhập gia tùy tục, nhập trường tùy quy định”, cán bộ khung nhắc mãi rồi. Ngay từ giờ đầu tiên ghép đơn vị, học viên đã học vỡ lòng hàng loạt quy định, sao cho hàng ngàn chiến sĩ ngày càng giống hệt nhau đến từng lời nói, từng cử chỉ. Áo quần xơ xác nhưng vẫn đủ cúc và cài hết cúc, tay áo xắn lên cách cổ tay đúng mười hai phân và nếp nấp tay áo rộng đúng bảy phân, cái biển tên hình chữ nhật trên ngực trái tự làm bằng bìa cứng vẫn đúng kích thước, đúng chỗ, đề rõ họ tên và đơn vị.

Vẫy Cam bước lên thềm, đồng chí trực tinh hỏi nhỏ:

- Cậu còn bộ nào nữa không?

- Báo cáo trực tinh...

- Ấy, khẽ chứ, khách ngồi trong kia.

- Báo cáo, rách toang hết trơn. Chẳng có đồ lành mà mượn... Ôi chao, dì... dì Sáu!

Chị Sáu Lễ vừa hấp tấp bước tới sau lưng đồng chí trực tinh, giương to mắt trước cậu bộ đội dị hình:

- Thiệt em hả Cam? Sao mà... coi khác quá vậy em?... Là chị nói em lớn lên ghê quá, cứng cáp ghê quá...

Chị vớt lại câu nói hớ khá nhanh đấy.

Vào trong phòng khách, một căn nhà tre nứa lá, đồng chí trực tinh mới phân trần vì sao bộ đội tả tơi đến thế. Tiểu đoàn đồng ý cho học viên Phan Cam đi phép ba ngày để thăm đoàn cán bộ liên khu Năm trên đường ra Việt Bắc. Quân trang mới đưa về mươi gánh đầu tiên. Cam sẽ được đặc cách nhận trước. Lặn lộn nơi đồi xa rừng vắng thì sao cũng được, bước ra làng xóm phải dễ coi một tí. Cam sẽ nhận quân trang tại tiểu đoàn, trở về đại đội để báo cáo và nhận tiêu chuẩn gạo, tiền ứng đi phép.

Nhóm chị Sáu đợi vài giờ nữa. Trở lại phòng khách là một chiến sĩ cao lớn, chững chạc từ đầu đến chân, trừ lớp râu quai nón chớm mọc lún phún chưa được cạo nhẵn, còn cái đầu ông sư mới gọt hôm kia thì tất nhiên không cần sửa sang gì. Cam chỉ vướng đôi chút vì bộ quân phục vải sợi đôi còn nguyên nước hồ chưa co lại cho vừa người, và đôi dép da trâu xoay bề nhám vào trong cọ rát da chân, chưa kịp ngâm nước cho mềm.

Chị Sáu lại xưng “chị” phủ đầu để bắt Cam thôi gọi bằng dì như hồi ở chung với Hai Thùy:

- Anh Bảy bị bệnh, đang nằm viện ở Nông Cống, cách đây bốn tiếng thôi. Ảnh muốn gặp em, nhờ các đồng chí ở tỉnh thu xếp giùm, chị đi theo coi người coi cảnh luôn. Bệnh viện cũng đóng xa dân, như trường em đây.

Ra khỏi vùng đồi rậm, họ đi trên đường đê nông giang, xuôi dòng nước từ đập Bái Thượng chảy xuống, qua hết huyện Thọ Xuân sẽ đến huyện Nông Cống.

Chị Sáu kể dài dài về chuyến vượt núi dọc Bình Trị Thiên, trong khi Cam nhìn chị chăm chú. Bà chị ngót năm mươi tuổi vốn béo trắng, giờ đã gầy bớt và gọn người hơn, mặt phủ một lớp rám nắng như bát sứ lấy từ giàn bếp xuống. Dễ thấy chị cố gắng bước nhanh hơn mức thường trong mấy tháng qua để khỏi níu chân anh em trong đoàn, khi vui câu chuyện chị đi chậm hẳn lại, rồi bỗng giật mình đi gấp lên.

Cam cố ghìm thói quen sải chân mỗi giờ sáu cây số, bật cười:

- Chị bây giờ phong trần lắm rồi. Hồi trước em tưởng chị khó qua nổi đèo Le hay dốc Giảm Thọ.

- Dân đồng bằng đặt nhiều cái tên rùng rợn thiệt. Qua Kèn Mẹ, Kèn Con tưởng đã cao lắm, tới dốc Búk mới thiệt là le lưỡi cóc! Anh em mang giùm hết đồ đạc, chị hai tay hai gậy rán bươn theo, cứ nghĩ: đem cái tên hò Hơ đặt cho dốc Búk mới thiệt đúng chỗ. Anh Năm cõng ba-lô leo ào ào, còn quay lại đón chị nữa. Anh xài sức vậy mới sanh chuyện!

- Chuyện gì chị?

- Ảnh nôn nả lắm, thúc đoàn đi nhiều nghỉ ít. Tới khúc Liên U Ba Rền bị phục kích, một cậu bị thương phải để lại trạm, bật lên đi dốc U Bò. Đoạn đường goòng máy Đò Vàng - Chu Lễ, đợi một ngày thì goòng sửa xong chạy được, ảnh cứ kéo đi bộ. Các anh liên khu ủy Bốn cố giữ, ảnh chỉ ở lại làm việc ba ngày, ra đi đã bắt đầu sốt. Tối địa đầu Thanh Hóa ảnh kiệt sức, gượng tới Tĩnh Gia là gục xuống mê man, phải khiêng đi bệnh viện. Thầy thuốc đoán ảnh trúng thương hàn. Nằm mươi hôm, mới hơi tỉnh tỉnh đã lật bản đồ, xếp lộ trình, chị phải giựt đem đi giấu. Em thấy tức ói không? Chị đẩy anh Tô Xáng đi trước cho anh Bảy khỏi sốt ruột. Chị đi thăm em, phần muốn gặp em, phần nữa cũng bắt ảnh đợi chị để nghỉ thêm cho lại sức, đá còn đổ mồ hôi nữa là người! Kéo tuốt một hơi từ Nam Bộ tới đây, sức bằng voi cũng nhào huống chi ảnh đã ngoài năm mươi!... Đói bụng rồi, ta ăn cái gì đi.

Chị huých Cam, chỉ vào tấm biển cót đề chữ to “PHỞ - tái nạm sụn gầu”:

- Em ra trước, biết nạm sụn gầu là món gì không?

Cam cười xòa:

- Sụn, chắc là xương sụn. Hai tiếng kia em chịu.

- Chưa thử hả?

- Dạ chưa. Hàng quán mắc cái tật là ăn xong đòi tiền, bậy hết sức!

Chị gọi hai đồng chí cùng đi vào quán, mời mỗi người hai tô tùy ý chọn, kết thúc bằng một quả chuối tiêu.

Càng đi xuôi nông giang, đồng bằng Nông Cống càng mở rộng, càng nổi xanh mơn mởn, với những nét thắng của kênh mương khoe công con người săn sóc đất. Nhiều con đường rộng lát gạch nghiêng dẫn vào những xóm làng chưa từng bị bom, lắm nhà ngói lấp ló sau tre, các nhà tranh trông ngoài cũng khá gọn sạch. “Được mùa Nông Cống, nuôi sống thiên hạ”, vùng vựa thóc này quả thật là giàu. Thế nhưng Cam vẫn chưa có mấy cảm tình với xứ Thanh, chỉ nhớ một số kỷ niệm ít vui qua những chuyến đi đường, ngủ nhờ, mượn nồi xin củi. Không chỉ riêng Cam mà hầu hết anh em từ Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, liên khu Ba kéo đến Trường lục quân đều có ấn tượng rằng đồng bào ở đây hiểu Cách mạng quá ít, các nhà giàu coi khinh bộ đội ra mặt, chính quyền và các đoàn thể yếu ớt. Đã xảy ra mấy vụ xô xát trong đại đội khi anh em liên khu Ba nhại lối nói vùng Tây Thanh Hóa: “Cha tui đi cần, mẹ tui đi cấn, chị tui đi củn, tún mới viền”. Riêng Cam một lần suýt đánh nhau với một cậu quê ở Thanh Hóa cũng vì cái tội “chửi cha không bằng pha tiếng”. Bị anh em lôi lại, cậu còn dứ dứ hai quả đấm, quát:

- Nghe nói mi ở tỉnh Nam. Mi tưởng xứ Nam Định nhà mi báu quý lắm đấy. Sợ Tây, bỏ chạy vô xứ ni ăn mày hàng triệu!

Đang tức đỏ mặt, Cam bỗng bật cười hô hố, chung quanh đều sửng sốt.

Mãi ba giờ chiều họ mới về đến bệnh viện, đóng xa làng trong khu đồi còn nhiều rừng cấm.

Bị vợ giấu hết tài liệu, anh Bảy Quý nằm dài đọc báo, anh mượn được cả một chồng báo đủ loại của bệnh viện, nhiều nhất là hai tờ Vui Sống của ngành quân y và Quân Du Kích viết rất nhộn. Từng lúc anh tủm tỉm cười một mình.

Vốn gầy sẵn nên khi ốm dậy trông anh không hốc hác lắm, tuy phải qua nhiều ngày sống bằng nước cháo, sữa loãng. Anh lên kính rồi hạ kính, nhăn trán cố nhớ mà không nhận ra Cam, làn cuối anh ghé thăm Chanh và Thùy cách đây đã ba năm.

- Xin lỗi đồng chí nghen. Đồng chí ở viện đây hay là chỗ khác tới?

Mọi người nói cười ầm ầm, anh cũng ngượng nghịu cười theo:

- Nhà tôi hẹn dẫn thằng nhỏ Sáu Cam tới chơi, đợi miết chẳng thấy nó tới. Sao mình, nó xin nghỉ phép được không?

Chị Sáu gập đôi người, đỏ rựng đến tận cổ, cười đến phát ho sặc. Anh Bảy ngẩn ra nhìn vợ, rồi trố mắt ngắm cậu bộ đội đứng bên giường, ngập ngừng:

- Hay đồng chí là... nè, thiệt mi hả Cam? Mi chớ ai nữa?

Cam vồ lấy bàn tay gày cuộc chìa ra luống cuống:

- Tại cháu... tại em khác quá đó anh. Hồi xưa anh ít gặp, qua mấy năm anh ở Cực Nam, em lại ít giống anh Chanh!

- Ờ, phải, mi cao hơn anh, đen thui như dọn rẫy mới về, thêm râu ria nữa chớ...

Những cán bộ như anh Bảy Quý quanh năm tiếp xúc với vô số bộ đội và đồng bào, vẫn luôn luôn áy náy mỗi khi không nhận ra một ai đó vồ vập đến với mình. Chị Sáu biết tính anh, vội kể dồn dập về những phút mới đầu gặp Cam ở Trường lục quân. Cam cười thầm, nhớ lại câu dặn nhỏ của anh trực tinh: “Đừng kể chuyện khổ cực nhiều, nhân dân hiểu lầm trường ta để lính đói rách”.

Suốt hai ngày tiếp theo, chỉ trừ giờ khám bệnh và cho thuốc, Cam sống hẳn bên anh Bảy, giúp anh ăn uống, đi dạo, nhiều nhất là vừa xoa bóp vừa chuyện trò rủ rỉ. Có lúc anh Bảy nói bùi ngùi: “Mi làm tao nhớ thằng Chanh quá. Nhớ hồi ở tù...”. Anh không nói tiếp, nên Cam chẳng hiểu hồi xưa các anh sống với nhau ra sao. Anh Cả Chanh rất ít nhắc tới kỷ niệm nhà tù, có lẽ ngại chung quanh tưởng anh khoe công.

Anh Bảy hỏi nhiều, nghe kỹ, nhưng nói rất ít.

Một trong những câu hỏi đầu tiên của anh là: “Tại sao em bỏ học chuyên khoa, đi bộ đội?”

- Tổng động viên mà anh. Tổng động viên để Tổng phản công, em cũng vừa tới tuổi cầm súng. Vô lễ để người khác đánh giặc miết, về sau em tọa hưởng kỳ thành? Với lại em nhập ngũ năm ngoái kia, làm lính cậu, lính học trò riết rồi cũng dị dị...

- Trường chuyên khoa đóng cửa à?

- Dạ không, khám tuyển hết thảy, nhưng ai không tự nguyện tòng quân cũng không ép, cho ở lại học tiếp.

- Em có thấy như vậy là bất công không?

Cam ngừng tay xoa bóp, ngẩn mặt ra. Cam biết có nhiều bạn học cố né tránh con đường ra trận, nhưng chỉ thấy thương hại họ. Thắng Tây xong là suốt đời không còn dịp rèn luyện trong khói lửa, lập công dâng lên Tổ quốc, Bác Hồ. Mà ta sắp thắng Tây rồi còn gì!

Nghe Cam thú nhận nỗi ngứa đánh kéo dài, anh Bảy cười:

- Thử đoán coi, năm nào nước mình độc lập?

- Ai cũng nói năm nay tổng phản công. Một lần đại tá phân hiệu trưởng đến tiểu đoàn em nói chuyện, nhắc là không được cắt cụt câu khẩu hiệu “tích cục cầm cự, chuẩn bị chuyển mạnh sang Tổng phản công”. Cán bộ tiểu đoàn, đại đội hớt bỏ hết khúc đầu. Đại đội trưởng bốc lắm, nói trước anh em: “Tôi được nghe đích xác rằng là Hồ Chủ Tịch đã dặn Võ Đại tướng: nếu như đêm ba mươi mốt tháng chạp chú chưa Tổng phản công thì sáng mồng một năm Năm mươi mốt chú cũng phải ra lệnh Tổng phản công!”. Bộ đội vỗ tay rầm trời. Thiệt vậy không anh?

- À... ờ... đợi ít lâu nữa, may ra anh được kêu lên gặp Bác Hồ hay anh Văn, anh hỏi thử... Cam nè, nghe người ta đồn cán bộ Trường lục quân đánh phạt học viên gắt lắm phải không?

- Dạ, đánh thì không. Khóa trước còn, tới khóa này cấm đánh, hết hẳn rồi. Phạt thì... thả cửa, lu bù, vô số!

Cam không thấy anh Bảy cười tủm tỉm, không biết câu chuyện đã bị lái ra khỏi cơn lốc say sưa của cuộc Tổng phản công đang đến sát nút với toàn thắng cầm chắc trong tay.

- Tại sao mà phạt? Phạt cách sao?

- Nhiều lý do lắm... Thường là phạm quy định nhà trường, chậm chạp, thiếu chỉnh tề, nội vụ lộn xộn... Cũng có khi chẳng cần lý do. Trường đề ra một tuần “Kỷ luật không lý do”, đụng đâu phạt đó. Tụi em sinh hoạt Đảng, chất vấn riết, chi ủy nói là tập cho học viên chịu phạt, cho quen với kỷ luật sắt của quân đội, xóa sạch tác phong lề mề dân chính, tự do du kích. Hay là “Tuần nhanh chóng” báo động liên miên, vô hồi kỳ trận, nửa đêm gà gáy hay là giữa bữa cơm, giờ nghỉ. Báo động cả đại đội, riêng từng trung, từng tiểu, có khi báo động một người. Có lần em bị báo động đêm tới ba lần sau phiên gác, chỉ ngủ được vài tiếng...

- Chà, sao vậy?

- Tại em thôi. Gác hết phiên, vô đập kêu người thay gác hơi ồn, ông trực tinh đại đội nghe được. Ổng để cho ngủ lịm đi mươi phút mới đến bấm vô đùi, nói nhỏ “báo động cá nhân”. Lập tức cuốn mùng chiếu cột ba-lô, áo quần nai nịt hỏa tốc, chạy ra nghe lệnh phạt đứng nghiêm nửa tiếng vì làm ồn. Phạt xong trở về chỗ ngủ, thiếp đi một lát lại bị lần thứ hai, vì mùng căng không vuông vức, đeo ba-lô chạy tại chỗ nửa tiếng. Tới lần thứ ba, tại em buồn ngủ quá, vô mùng xong không cởi áo quần dài theo quy định, bò quanh doanh trại nửa tiếng. Phờ râu ông cụ!

- Nói thiệt anh nghe... Em có tán thành cách rèn luyện bộ đội như vậy không?

Anh Bảy đăm đăm nhìn Cam. Bên dưới lớp da tóc gọt trọc bóng, khuôn mặt sạm nắng đen trũi trở nên đăm chiêu. Cam mấp máy môi vài lần, không nói, bộ râu quai nón mọc sớm khẽ động đậy, đôi lông mày nét mác cau lại. Anh Bảy nghiêm chỉnh chờ nghe câu trả lời, và ưng ý khi thấy Cam suy nghĩ nghiêm chỉnh, ở lứa tuổi mười tám của Cam, anh chỉ là chú học trò nghèo, bồn chồn háo hức đấy nhưng hầu như không hiểu gì về đất nước, lịch sử. Lớp người thay thế ngồi trước mặt anh khác nhiều, khác quá xa. Thằng em nhỏ lon xon theo anh Chanh chị Thùy năm nào đã học vượt lớp lên cấp chuyên khoa, thành đảng viên dự bị, đang được đào tạo thành cán bộ chỉ huy, sắp bước vào đợt thử lửa thứ hai trong cuộc đời còn rất ngắn mà đã trải không ít chìm nổi. Anh không nhận ra nó khi mới gặp là phải. Không chỉ vì vóc dáng lênh nghênh và nước da dầu dãi, còn vì cái lối đi đứng dứt khoát, nói năng rành rọt với những lời chọn lọc, cái vẻ người trưởng thành đường hoàng và có lẽ hơi chín sớm nữa trong lò lửa kháng chiến. Ừ nhỉ, có lẽ nó chín sớm thật, nó hơi già trước tuổi. Ở mướn giữ ngựa, lần lút xin ăn, liên lạc trong bộ đội Nam tiến, những trường đời ấy quá khắc nghiệt đối với một đứa trẻ. Trong ba năm xa anh nó còn qua ba nhà trường khác nữa: Trường Trung học Bình dân học chung với cán bộ, trường Chuyên khoa, trường Lục quân. Nó cọ xát với không biết bao nhiêu đồng chí, đồng đội, đồng bào, đồng song, suốt dải đất Trung Bộ dài thượt này, lấn vào tận ngoại ô Sài Gòn, dễ sợ thật. Quả là hậu sinh khả úy...

Dựa lưng vào phên nứa, anh Bảy xoa cằm nghĩ dài dài như thế trong khi Cam xuống nhà ăn bưng xoong cháo hầm nhừ lên cho anh.

Khi Ban Thường vụ Trung ương Đảng thăm dò các liên khu ủy về danh sách ứng cử và đề cử vào Trung ương trong Đại hội toàn quốc lần thứ hai sẽ họp vào mùa xuân năm sau, anh Bảy Quý không có mặt nhưng đã được đề cử gần như nhất trí. Bởi thế, vừa từ Nam Bộ ra đến khu Sáu, anh đã nhận điện ra Việt Bắc rất gấp để báo cáo và góp sức soạn các văn kiện Đại hội. Nói cho thật tình, anh Bảy có mấy ngày vui thầm khi thấy mình được các đồng chí tin cậy, thấy mình có ích đối với cách mạng. Tiếp liền đó, rất nhanh, anh trở lại là “ông Bảy Lo”, lo phải nhận những việc quá sức mình. Ra đến Bình Định, họp liên khu ủy, anh nói hết những gì đã ám ảnh anh suốt dọc đường, xin rút khỏi danh sách đề cử và trở về khu Cục Nam Trung Bộ gian nan bậc nhất trong kháng chiến. Ý kiến anh bị bác bỏ thẳng thừng, anh bị buộc phải lên đường ra Việt Bắc. “Rút hay không rút tùy ông, có điều ông phải có mặt trong Đại hội. Ít nhứt ông cũng kể được trong ta đánh giặc ra sao chớ!”. Các đồng chí đùa vậy, anh nghe cũng có lý và đã biến chuyến đi dài dằng dặc thành một đợt tìm hiểu đất nước từ Nam tới Bắc...

Bát cháo gan băm Cam múc ra còn nóng quá, phải đợi nguội bớt. Anh Bảy lại tủm tỉm:

- Sao đó chú mày? Phán một lời được chưa?

Cam ngồi xuống giường, trầm ngâm:

- Dạ, cũng tùy người... Đại đội em có mấy đứa chịu kỷ luật sắt không nổi, đập bệnh xin về, cũng có đứa bỏ trốn... Số đông thì rán chịu, lỡ hứa hẹn “chưa hết giặc chưa trở về”, bây giờ mặt mũi nào gặp lại bạn bè, làng xóm. Với lại riết rồi cũng quen anh à, chạy thêm một tiếng hay bỏ vài vòng sân coi như tập thêm cho thuộc nhuyễn động tác, mùi mẽ gì.

- Nghĩa là em tán thành?

Cam ngấc đầu, nhìn anh Bảy đăm đăm:

- Em nhớ hồi theo bộ đội anh Năm Chò vô Nam Bộ, các anh hăng hái lắm, nhưng mà rất... rất lộn xộn. Đơn vị bầu cán bộ rồi đuổi cán bộ, trên ra lệnh dưới cãi cù cua, kêu họp bảy giờ thì tám giờ mới gần đủ, có anh còn say mèm. Gây sự với du kích ủy ban hoài. Kỷ luật vậy làm sao đánh trận lớn được... Tới bây giờ kỷ luật rất căng, rất hắc, em nghĩ là đúng. Nhưng mà em không đồng ý cái kiểu phạt làm nhục, phạt lấy oai cho lính sợ chỉ huy. Có những anh cán bộ phạt nhốt hầm tròn giữa trưa nắng, phạt ngủ chuồng trâu không mùng cho muỗi đốt, phạt chạy sáu tiếng tám tiếng, đến nỗi anh em phát đau ốm, ngã ngất, lại còn đay nghiến là giả bộ.Có lần em đấu tranh trong chi bộ chống một cán bộ trung đội ưa làm phách kiểu đó, bị anh ta thù thiệt dai. May là ảnh đổi đi nơi khác rồi, dễ thở hơn... Nói cho cùng, em cũng không biết làm sao cho phải, kỷ luật vừa nghiêm minh vừa tự giác là hay nhứt... Chết cha, nói dông dài miết, cháo anh nguội ngắt rồi!

Anh Bảy húp từng thìa cháo ấm. Chị Sáu Lễ bước vào từ nãy, không lên tiếng, chỉ lặng lẽ ngồi gọt cam trên cái giường bỏ trống bên cạnh. Chị biết, anh Bảy đã rất nhiều lần nghe kể những điều na ná như thế và tệ hơn thế, anh chỉ hỏi để hiểu thêm một thanh niên đang háo hức đi giết giặc. Nom nét mặt tươi tỉnh của chồng, chị biết anh đang vui sau một câu chuyện không vui.

- Tóm lại, em chịu được tới mút mùa chớ?

- Dạ, chịu được. Đời lính mà, phải tập chịu đựng hết thảy, kể cả những gian khổ ta gây cho ta!

- Cái thằng, lý sự như ông cụ non!