Chương VIII
Năm 1950 sôi nổi chuẩn bị Tổng phản công cũng là năm rộn rịp nhất của làng Linh Lâm và vùng thung lũng sông Linh được gọi là Xê-ca-đơ, tức Chiến khu Hai.
Ba thôn có từ xưa là Linh Lâm, Linh Trung, Linh Hạ được ghép thêm một thôn mới ra đời là Linh Thượng gồm hơn một trăm gia đình từ vùng bị chiếm Bắc Quảng Nam tản cư vào, dựng nhà rải rác mé trên Linh Lâm chừng một cây số. Những ai nhấp nhổm tạm bợ, cả những người chưa thật đáng tin cậy, đã tự ý dời đi hoặc được khéo léo mời đi vào sâu hơn trong vùng tự do liên khu 5 để tránh bom đạn và dễ làm ăn. Bốn thôn ven sông Linh họp lại thành xã Linh Giang.
Linh Hạ sẵn nghề đánh cá sông, nay khá giả thêm nhờ đóng thuyền và trồng gai đan lưới bán khắp nơi. Linh Trung cắm trên vùng đất chật, vốn ít dân, bỗng đông nghịt lên khi xưởng dệt của bộ đội chuyển đến với một trăm rưởi thợ và ngót bốn trăm người nhà, dựng trại và đặt khung cửi trong các khu rừng già quanh làng. Đồng bào ở Linh Thượng làm nhà và vỡ đất trồng trỉa xong, thường xin giấy xuống đồng bằng buôn lên muối mắm và các mặt hàng khan hiếm khác, cũng làm thêm nhiều nghề từ quê gốc mang tới. Chỉ riêng xưởng quân giới Cao Thắng đóng tách rời chỗ đông dân, lọt thỏm trong rừng sâu với những khu trại to nhỏ, rất nhiều công nhân và gia đình họ, cho đến nay vẫn nằm ngoài quyền kiểm soát của ủy ban xã, chỉ liên hệ với bên ngoài qua một trạm đặt trên bờ sông.
Chỗ rốn của Xê-ca-đơ vẫn là Linh Lâm, điểm nút của đường bộ 56 xuống tận biển và đường thủy sông Linh nối vào nguồn Thu Bồn. Ở đây có cơ quan xã, vạn ghe, chợ và tiệm quán, gần đây mở thêm nhà y tế và trường tiểu học bốn lớp có đủ y tá và thầy giáo. Máy bay đến quần tìm nhiều lượt, chỉ thấy rừng xanh chen ruộng rẫy xanh, rốt cuộc đành trút bom xuống mấy dãy nhà ngói của đồn điền La-phạt và ngôi đình nằm lộ thiên trên gò, thường thả trượt vì vướng núi phải bay cao.
Linh Lâm tăng số dân, số nhà, cũng ngày càng đông khách qua lại. Các đơn vị bộ đội đi đánh trên Bắc Tây Nguyên hoặc lui về luyện quân, các đoàn dân công gánh vũ khí ra mặt trận Bắc Quảng Nam và đem chiến lợi phẩm về, các bộ phận tiếp tế và chuyển hàng cho quân giới và quân nhu, tất cả lũ lượt kéo qua Linh Lâm hầu như hằng ngày. Ủy ban và xã đội bàn lui tính tới mãi về trật tự an ninh, chạy thương lượng với các cơ quan, xin công an huyện và huyện đội cử người lên lập các trạm kiểm soát đường bộ và đường sông, cũng chỉ giảm bớt khó khăn một phần. Cuối cùng, xã đội trưởng Tám Doãn phải rút du kích và dân quân đi mở một con đường mới xuyên rừng, vòng tránh xa làng, từ truông Dơi tách xéo xuống quãng bờ sông vắng giữa Linh Lâm và Linh Trung, căng dây kéo bè bằng mây song và buộc lồng vào đấy hai chiếc bè to. Tiếp đó, lại sửa khu lán trại mà một đại đội đã dựng để luyện tập trong ba tháng, nhà và sạp nằm còn tốt, cách bến mới không xa. Để khách qua lại khỏi giận hờn, Tám Doãn dựng thêm một cổng chào với tấm biển chữ lớn: “Nhà khách xã Linh Giang”. Xóm chợ và bến vạn từ đấy đỡ tràn ngập người, nhưng lại xảy ra một điều rất không ngờ: khu nhà khách biến thành chợ.
Đồng bào các làng Kinh và Thượng làm ăn khá, thừa khoai sắn bắp và nuôi được nhiều heo gà, lại thiếu các thứ hàng vùng biển và bắt đầu ưa dùng hàng ngoại. Phong trào “bài trừ ngoại hóa” và bao vây kinh tế địch còn mạnh dưới vùng xuôi, đám con buôn lậu “chửa ở Tam Kỳ, vô Bồng Sơn đẻ” bị chặn bắt rất nghiêm. Ở nơi ven núi và gần địch này không có con buôn. Bộ đội và dân công đổi chút ít hàng mang theo người lấy thức ăn đỡ đói, ai mà dám ngăn cản!
Chợ phiên Linh Lâm vẫn họp hai ngày một lần, vào ngày lẻ âm lịch, nhưng người lui tới giảm đi nhiều. Bà con ngóng đợi những đoàn lớn kéo qua, hối hả mang đến khu nhà khách những thứ để dành sẵn: gà, trứng, thịt rừng khô và tươi, trái cây, nếp, bắp, khoai, sắn, đôi khi khiêng cả heo và đánh trâu bò tới, còn dân chài lưới dọc sông gặp con thuyền nào xuôi cũng hỏi ngay nhà khách vắng hay đông. Khách trút ra các loại thuốc tây, đá lửa, dầu lửa, ni-lông đi mưa, đôi khi cả áo quần ka-ki, đồng hồ, bút máy ngòi vàng. Mỗi người đem theo một ít, nhưng hàng trăm cái “một ít” gộp lại thành khối lớn không đếm xuể.
Một số gia đình tản cư quen bán quán bắt đầu mang quà đến nhà khách. Ban đầu chỉ là vài gánh mì Quảng, bánh tét bánh ú sơ sài. Về sau là những chiếc đò chở của ngon năm bảy món và những lều quán dựng sẵn có đủ bàn ghế tre và bếp than hâm thức ăn, đun nước. Tám Doãn chặn không nổi, và cũng không hiểu nên chặn hay để mặc, đành giao cho thôn đội Linh Trung cử mỗi ngày một tổ đến giữ trật tự, cấm đốt khói ban ngày, tịch thu hàng xa xỉ phẩm như rượu và thuốc lá Cô-táp, Bát-xtô. Anh thường nghe báo cáo về những vụ xô xát nặng nhẹ của dân quân với khách, chẳng bao giờ trông thấy các thứ bị tịch thu. Cứ thế, chính quyền xã chịu chấp nhận sự ra đời của chợ Mới, bến Mới chưa từng có trên bản đồ. Còn may là đường chuyển thương bệnh binh về quân y viện và đường dây liên lạc Bắc Nam chỉ đi qua chợ Huề Bình chứ không xuyên ngang Xê-ca-đơ.
Cuối năm ngoái, Tám Doãn nổi khùng gắt um lên khi nhận chỉ thị của ủy ban huyện Tây Quảng: tại Linh Giang sẽ đặt một cơ quan mật lấy tên là Trạm biên chính Hai, xã phải hết sức giúp đỡ làm nhà ở, kho tàng, tiếp tế và bảo vệ cho thật tốt.
- Nữa! Thời đánh Tây, cơ quan nào mà không tối mật, công tác nào không tối khẩn! Các chả quen nước sông công lính, quên mất tụi này ở xã chỉ có cơm nhà áo vợ nợ đùm đề!
Doãn làm huyện đội phó gần hai năm, bị đạn xuyên phổi trong khi chỉ huy một đơn vị du kích Tây Quảng đi dự chiến mé Trà Kiệu. Viên đạn nằm lì trong ngực khiến anh yếu hẳn, phải xin về xã, chẳng dè xã anh biến thành chiến khu với vô vàn công việc hóc búa. Nghe bảo cấp trên định tách Xê-ca-đơ thành khu quân sự trực thuộc tỉnh, lập Ban chỉ huy riêng, Doãn sốt ruột chờ ngày bàn giao để lãnh việc nhẹ hơn. Người thay không thấy tới, chỉ thấy việc mới dồn dập trút xuống đầu.
Anh tốc xuống huyện. Huyện đội trưởng là bạn cũ nghe cự nự một hồi, chỉ cười xòa, đưa anh xem mấy nghị quyết chỉ thị mới về khu đặc biệt Hạ Lào - Đông Bắc Miên và Liên quân Lào - Việt. Bộ phận hậu phương của khu này lấy tên là Phòng biên chính, đặt một trạm gốc ở huyện Tam Kỳ, trạm thứ hai ở Linh Giang, trạm ba sát biên giới, phục vụ cho các cánh quân của bạn và của ta đã chọc thủng biên giới, đang tiến đánh nhiều hướng.
- Nhiệm vụ quốc tế đó mày. Hết kêu rên chưa?
- Tại tụi bay cứ úp úp mở mở...
Doãn đưa về xã một nhóm cán bộ, hai Lào ba Việt, dẫn họ đi xem thế đất, chọn chỗ đặt trạm hơi xa làng xa sông, trên mối đường xuyên núi đi về Bến Giằng. Du kích và dân quân cũng nhăn nhó như Doãn khi bị điều, nghe lọt tai mới bốc hăng, làm hùng hục: “Rõ rồi đó nghen. Tới khi tổng phản công là mình công tất cả Đông Dương, ào ào tới tới, thằng Tây hết chỗ rúc!”.
Các đơn vị Tây tiến lần lượt kéo qua, mang toàn súng ống tốt, mặc loại quân phục xi-ta chỉ đánh rất bền được gọi là xi-ta biên chính, đặc biệt là được cấp cả dép lốp ô-tô của hiếm. Có những trung đội nói toàn tiếng lạ, anh em phiên dịch giới thiệu là bộ đội Tây Nguyên, chỉ một số cán bộ xã biết là bộ đội Lào. Xen kẽ với bộ đội là những đoàn dân công gánh và cõng rất nhiều thùng vũ khí, kiện quân trang, sọt muối. Càng về sau muối tuôn lên càng nhiều, có thêm mấy con voi và những đàn trâu thồ, ngựa thồ nữa.
Trong mấy tháng cuối cùng ở Linh Lâm chữa bệnh, Cả Chanh hay đến Trạm biên chính Hai, cùng ăn ngủ và săn bắn với mấy đồng chí Lào ở đấy. Anh cố học tiếng Lào, chữ Lào, phong tục tập quán Lào, cách nấu nướng ăn uống Lào, những kiểu đi đứng nằm ngồi Lào, cùng với hàng trăm kiểu xoay xở tháo vát của người ở rừng và sống nhờ rừng.
Anh em Lào ở trạm rất khoái anh học trò vô cùng tò mò này, thi nhau dạy. Họ thường đến chơi nhà Chanh và lò rèn ông Chua, nơi có thế sửa vá quân trang hay đóng cán con dao găm, nhoáy cái là xong. Hai Thùy tập làm món lạp bằng thịt hay cá băm sền sệt ăn sống mà người Lào từ dân đến vua rất thích ăn bằng tay mỗi khi tiếp các bạn mới của chồng, nói được năm bảy câu chào hỏi dễ nhất trước khi nhường cho chồng tán dông dài hàng giờ bằng tiếng Lào và ngửa cổ cười hô hố. Khi biết tên Thùy, các bạn đem ghép tên hai vợ chồng và gọi Cả Chanh là ai Chăn-thi, xá-hải Chăn-thi[1]. Họ tiếc mãi không có thì giờ và thiếu voi khôn, không thể đào hố bẫy để bắt những con voi rừng hay rống văng vẳng trên núi ông Tượng, đem về luyện cho chở người, lái hàng. Giá một con voi nhà trẻ khỏe mua bên Lào những hai ba chục ngàn Đông Dương chứ ít đâu!
*
* *
Bà con Linh Lâm xì xào:
- Ba Mít đi hội dưới huyện về, coi bộ tơ tưởng lắm. Chắc có việc trọng đại.
- Xì, cha đó thì hồi nào chẳng trọng đại. Người ta kêu chả là anh “đại ngôn, đại thanh” xưa nay rồi.
- Hay là mụ gì mì Quảng bánh xèo ở Huề Bình đá đít?
- Trời biết được...
Trong ủy ban xã Linh Giang, đồng chí Hùng Minh tức Ba Mít thường tự nêu gương là không hề có tư tưởng nặng gia đình, khác hẳn với số đông cán bộ xã, thôn, xóm luôn luôn kiếm cớ “ghé về chút xíu” để giọi mái nhà dột hay làm cỏ miếng ruộng trước ngõ. Một vợ bốn con của đồng chí cào bới kiếm ăn ra sao là việc riêng của họ. “Khuya ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm, trưa nhai mỏi hàm năm ba hột mít”, họ cứ vậy mà sống, trong khi đồng chí phó chủ tịch thường trực xã Linh Giang ngồi chễm chện giữa trụ sở ủy ban với mái tóc nuôi dài chải bóng và khuôn mặt rỗ hoa ngày càng béo trắng ra. Đồng chí ăn cơm tháng tại một quán gần đây, tiền cơm ngốn hết hai phần ba số thóc và tiền chi cho cơ quan xã, còn khi chiêu đãi cán bộ trên về thì đã có cụ tú Đỉnh rộng tay bao hết.
Đồng chí Hùng Minh hay than thở rằng ủy ban xã đùn hết việc cho mình. Sự thật cũng đúng như vậy.
Ông Tư Chua vẫn còn làm chủ tịch xã, nhưng mỗi lần hỏi tới công việc chung lại được nhận một tràng “nói chữ” của ông phó đến ù tai, đành quanh quẩn tới lui giữa xóm Mới, lò rèn và binh công xưởng Cao Thắng, anh em ở xưởng quen coi ông như người nhà. Tám Doãn mệt nhoài với trách nhiệm xã đội trưởng, chẳng mấy khi nhớ mình cũng là phó chủ tịch. Trong số bốn ủy viên còn lại thì ba người lo ngành của mình đủ bở hơi tai, chỉ có bác ủy viên kinh tài là Mười Áng chăm đến trụ sở nhất, làm việc ăn ý với đồng chí Hùng Minh nhất.
Khác với cụ tú Đỉnh nuôi bộ râu thật dài cho xứng với một vị nhân sĩ trí thức có tuổi, cũng khác với ông Tư Chua chừa hai chòm râu mép lơ thơ hai bên khóe miệng trông buồn cười như hề tuồng, bác Mười Áng ngồi đâu cũng rút cái nhíp hay lượm hạt thóc, sờ sờ nhổ trụi râu. Bộ mặt nhẵn nhụi với kiểu cười tít mắt làm rung cặp má sề sệ khiến cho bác Mười được coi là người dễ gần dễ thân hơn cả trong số cán bộ cùng lứa trên dưới năm mươi tuổi. Dân làng đã quên lối thưa bẩm năm xưa khi đến ông Cửu Áng nộp tiền xin áp triện, ai nhớ cũng chép miệng cho qua vì Cửu Áng ăn hơi nặng nhưng chẳng mấy khi đánh đập cùm kẹp ai. Trong năm năm sau Cách mạng, bác Mười Áng lần lượt làm trưởng ban Bình dân học vụ, trưởng ban Đỡ đầu dân quân, phó chủ tịch Liên Việt xã. Đồng chí Hùng Minh đưa bác vào Đảng năm ngoái, tiếp đưa vào ủy ban xã. Trong chi bộ Linh Giang số đông thấy ngờ ngợ, vài người phản đối thẳng thừng. Rồi những thắc mắc cũng nguôi lắng dần khi bác Mười tỏ ra vừa thạo việc vừa cần cù sổ sách giấy tờ phân minh mà xử sự với đồng bào cũng nhiều bề dễ dãi. Những ai xét nét nhất đều lần hồi đổi ý: đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại...
Cả Chanh sắp lên đường sang Lào cùng với một đại đội Tình nguyện quân nữa rút từ trung đoàn 108, đã được bổ sung và huấn luyện thêm trong vài tháng. Bà con bạn bè kéo đến thăm đầy nhà, có lúc ngồi chật cả Câu lạc bộ Thanh niên. Nhiều người đem biếu anh những thứ thuốc quý để dành: mật gấu, cao hổ cốt toàn tính, hột châu kết dưới đáy chai mật ong lâu năm, thuốc dấu gia truyền liền thịt liền xương. Anh em Cao Thắng sửa và tặng anh một súng ngắn Vích-ke cỡ chín ly, chuôi lắp hai má bằng ngà voi có khắc tên anh rất đẹp. Cha anh rèn cho một dao găm thép cực tốt, Năm Bưởi may cho cái bao da dâu láng bóng... Cả Chanh nhận một phần, lựa lời từ chối một phần, có lúc rớm nước mắt.
Hùng Minh đến chào anh với vẻ mặt lạnh lùng và lời nói nhát gừng. Trong những tháng sinh hoạt ghép với chi bộ Linh Giang, Chanh đã nhiêu lần góp ý với chi ủy và với riêng Hùng Minh, bị phàn ứng khi nhẹ khi nặng. Bây giờ Chanh lại kéo cậu cơ sở cũ của mình ra một góc, nhắc lại đề nghị mà anh đã nêu hai lượt trước chi bộ: cần xử lý số ruộng đất của tú Đỉnh, trước hết là thu lại phần “đất mơ hồ” bị bao chiếm và buộc lão phải giảm tô giảm tức theo chính sách đã ban hành năm 1949 - chi bộ không hề nghe nói đến chính sách này, cũng không biết ai đã ỉm đi, im lúc nào.
Chanh biết Hùng Minh sẽ khó chịu, nhung không ngờ cậu ta xấc xược đến thế:
- Anh cứ lo cái bản phận của anh cho trọn. Việc của tụi tôi để yên tụi tôi lo, anh đừng ôm rơm mà nhặm bụng!
Cậu nói xong bỏ đi ngay, không chào ai cả. Chanh đứng ngẩn ra ngó theo, không hiểu tại sao con người quanh năm nói hùng hồn về lập trường giai cấp và quyền lợi của dân cày lại đột ngột cáu tiết như vậy. Lão phủ Đỉnh đã mua được hắn hay đây chỉ là một cơn tự ái, sĩ diện?
Chanh đi được vài hôm, Hùng Minh cưỡi xe đạp xuống huyện lần nữa. Chiếc xe này do ủy ban mua và sửa theo đề nghị của bác Mười kinh tài, vì cán bộ thường đi họp xa và mượn ngựa mãi của cụ tú Đỉnh cũng khó coi. Thật ra chỉ một mình Hùng Minh dùng nó, đi thăm họ hàng hay dự huấn luyện dài ngày cũng mang theo.
Cậu ta xuống đón đoàn cán bộ quan trọng do đồng chí Trà Đình Mậu tức Ba Mậu dẫn đầu, về chỉ đạo thí điểm xã Linh Giang. Bác Mậu dặn riêng cậu chỉ đón sau khi Cả Chanh lên đường, bởi “thằng cha đó tới đâu gây bè kéo cánh tới đó, phá quấy lung tung, mà dân Linh Giang cứ tưởng nó tốt mới thiệt rầy rà”.
Sau khi nhận quyết định “được phép rút” khỏi chức vụ bí thư Đảng ủy và quyền giám đốc sở hỏa xa, Ba Mậu trở về Quảng Nam. Bản nhận xét anh cầm theo chỉ nêu những mặt tốt chung chung và mặt yếu chung chung mà ai cũng có ít nhiều. Các đồng chí ở liên khu góp ý bằng miệng khá mạnh, nhưng khi đặt bút viết thì vẫn muốn nương nhẹ đối với một đảng viên kỳ cựu, vả lại Ba Mậu đã tỏ thái độ đau xót thành khấn mỗi khi gặp mặt. Tỉnh đưa anh trở về làm phó chủ tịch Tây Quảng như cũ, còn vào huyện ủy hay không thì sau sẽ tính. Tuy vậy, mỗi khi làm việc với cán bộ xã, thường kiêm cả công tác công khai lẫn bí mật, anh vẫn quen tuyên bố bằng giọng thấp và trịnh trọng: “Thay mặt huyện ủy và chính quyền huyện, tôi giao nhiệm vụ cho các đồng chí...”.
Chuyến đi hai chục cây số từ huyện về Linh Giang được tổ chức rất chu đáo. Cùng đi với Ba Mậu có một cậu mới tuyển vào văn phòng Nông hội tỉnh được xuống xã cho biết đó biết đây, một cán bộ kinh tế huyện, một tiểu đội phó cảnh vệ huyện, một chú em liên lạc, một con ngựa loét lưng mà bộ đội qua đường vừa đổi lấy bò thịt. Hùng Minh đạp xe vượt lên trước, ghé vào các ủy han xã dọc đường 56 báo tin đoàn sắp tới, phải sẵn sàng báo cáo và lo ăn uống nghỉ ngơi. Con ngựa không chịu cho đặt yên, đá hậu sa tiền chán lại lăn ngửa ra đất, đồng chí phó chủ tịch đành đi bộ với anh em, tay chống cây can cong đầu bằng mây uốn, cái ba-lô to tướng đặt trên lưng ngựa do chú liên lạc dắt cuối hàng, hành quân mỗi chặng độ bốn năm cây số từ trụ sở này đến trụ sợ khác. Tất nhiên một đoàn cán bộ tỉnh và huyện quan trọng như thế phải được đón tiếp trọng thể bằng những bữa tiệc xả láng diễn ra sau vài chục phút báo cáo tình hình.
Chiều ngày thứ hai của cuộc “lữ thứ hành quân”, đồng chí Hùng Minh đợi sẵn ở quán chị nhân tình bán mì Quảng bánh xèo tại chợ Huề Bình, dẫn đoàn về xã. Dọc đường cậu phân trần:
- Xã nghèo quá, chẳng có chỗ nào ăn ở cho đàng hoàng bác ơi. Quỹ xã thu vô bao nhiêu, Tám Doãn vét nuôi du kích ăn tập với dự chiến hết trơn. May nhờ cụ tú nhà khá giả, tánh khí cũng hào hứng, xung phong rước khách về nhà...
- Cụ tú nào, lâu nay không nghe nói?
- Dạ, hồi xưa kêu là quan phủ Đỉnh đó. Giờ cụ làm phó chủ tịch Liên Việt huyện, người hiền khô mà trí lự lắm, chữ Tây chữ Tàu đọc ro ro. Bác về nghỉ nhà đó hay nhứt. Chắc bác ở liên khu lâu, ít gặp cụ tú?
- Ồ, có gặp sơ sơ giữa hội nghị, ổng tới chào mình... Nhớ nhắc ổng xếp cho mình một buồng vắng vắng, đủ bàn ghế, cán bộ tới hội báo cho tiện, còn cái vụ quỹ xã túng thiếu thì chú mày khỏi lo, sắp thu thu vô không kịp ghi sổ, quên rồi à?
- Dạ, cháu nhớ quá chớ bác!
*
* *
Trong cái ba-lô to sù bằng da bò thuộc của Ba Mậu có ba loại quần áo. Bộ com-lê xéc-giơ màu xanh trời kèm giày da, sơ-mi và ca-vát dành cho các buổi lễ, mít-tinh, họp nhân sĩ trí thức. Bộ bà ba đen vải nội dùng khi dạo thăm đồng với bà con nông dân. Hai bộ quân phục cùng màu xám, một bằng xi-ta chỉ đánh, một bằng pô-pơ-lin ngoại, hợp hơn cả với đợt công tác tại vùng chiến khu này, nơi bộ đôi qua lại trút áo quần ra đổi nhiều đến nỗi già trẻ lớn bé đều mặc đồ lính.
Cụ tú Đỉnh là người chu đáo và tế nhị. Cụ nhường cho đoàn cán bộ cả một nửa tòa chính đường, gồm có phòng khách đã đặt nhiều bàn ghế để hội họp, một phòng to kê thêm phản làm chỗ ngủ, còn buộc cô Huyền Tâm dọn sang ở chung với mẹ để nhường buồng cho ông phó chủ tịch huyện nghỉ và làm việc một mình cho yên tĩnh. Bà vợ cả cùng con cái đích thân xuống bếp điều khiển việc nấu nướng, các bữa cơm của đoàn đều sang và lạ miệng như giỗ tết. Cụ tú chỉ gặp cán bộ vào bữa ăn để tiếp khách, hoặc vào những tối rảnh rỗi quanh bàn trà cùng nhau đàm đạo dài dài về ta thắng Tây thua hoặc nhân tình thế thái. Được phép ông Ba, cụ cho người lùng mua thứ rượu sắn ngâm thuốc nam quý như tắc kè, tam xà, ngũ xà, các dược liệu bí truyền miền núi, mời vài ly trước bữa để anh em ngon miệng tăng sức, lại xếp sẵn vài chai cùng thức nhắm khô trong buồng ông Ba để đãi cán bộ đến làm việc. Cụ sốt sắng nhường con ngựa Hường ông Ba dùng, đốc người nhà đắp thuốc chữa loét lưng và tẩm bổ cho con ngựa còm của huyện. Tuy cũng là cán bộ cấp huyện hẳn hoi, cụ không bao giờ hỏi xem đoàn này sẽ làm gì ở Linh Giang, không tò mò hóng chuyện khi anh em bàn công tác bên cạnh cụ, lắm lúc kín đáo lui ra ngoài để họ được thoải mái. Cả đoàn đều tấm tắc khen cụ chủ nhà tốt bụng và khéo cư xử. Riêng Ba Mậu, có vốn Tây học khá nhưng thiếu phần Hán học, khen thêm phần kiến thức uyên bác của cụ.
Thêm một sự tình cờ thú vị nữa: đoàn về xã được bốn ngày thì anh Hai Khánh, con trai cụ tú, cũng về phép thăm nhà. Ba Mậu và Hai khánh quen nhau ở Huế. Khánh đọc mấy bài báo tiến bộ của “Người nhà quê Trung Kỳ”, nhờ bạn giới thiệu cho gặp tác giả để ngỏ lời cảm phục. Ba Mậu mến cậu học sinh trẻ măng, tài hoa và có chí, thường rủ đến chơi nhà và cho mượn sách báo. Nửa năm sau anh bị bắt và kết án tù cộng sản, Khánh càng kính yêu anh gấp bội, ghép thêm vào hình ảnh thầy Trà Đình Mậu vầng hào quang dành cho các bậc tuẫn tiết vì giống nòi Hồng Lạc.
Hai người bạn chênh tuổi gặp nhau, mừng khôn xiết. Mậu gạt ngay kiểu xung hô thầy trò, dù sao Khánh cũng là phó ban địch vận của tỉnh và đã vượt anh về trình độ học vấn. Họ ôn kỷ niệm xưa về xứ Huế thơ mộng, từng lúc ngả sang nói hàng giờ bằng tiếng Pháp, những lúc ấy chỉ có cụ tú Đỉnh và anh thư ký trẻ của Khánh là Bảy Suyền có thể hiểu và chen đôi câu đưa đẩy. Khi cần xem thực địa, Ba Mậu thường nhờ Khánh dẫn đường vì Khánh có ngựa riêng và Ba Mậu ngại đi bộ trên vùng rùng núi lắm dốc và vắt này. Một súng ngắn của Khánh cũng đủ bảo vệ, đồng chí cảnh vệ huyện đeo mút-cơ-tông ở nhà lo quét dọn, giặt giũ thôi. Từ đó, đồng bào các thôn ven sông Linh thường gặp anh Hai Khánh cùng ông cán bộ tóc hoa râm cưỡi ngựa xem địa thế, từng lúc ghé hỏi anh em cán sự thôn hay du kích về mùa màng, an ninh. Đôi người biết công tác của Hai Khánh, đoán rằng ta đánh ngày càng to, hẳn cấp trên định lập thêm vài trại tù hàng binh trong Xê-ca-đơ.
Không vội vã, Ba Mậu mỗi ngày một lần gọi từng nhóm cán bộ đến báo cáo, tùy nơi xa gần mà hẹn chiều hoặc tối. Anh nắm tình hình đảng viên luôn thể, vì hầu hết anh chị em có chút ít cương vị ở xã, thôn, xóm đều đã được kết nạp ồ ạt trong năm ngoái và đầu năm nay. Phó bí thư chi bộ Hùng Minh theo sát anh trong những cuộc tiếp xúc ấy, bí thư Tám Doãn quá bận cũng ưng ý, chỉ dè dặt khuyên đoàn anh Ba nên ở nhà khác thì hơn. Chọn mãi chẳng được nhà ai cả, được mặt này lại mất mặt khác: chật chội, đông trẻ con, không bảo đảm chính trị, thiếu người lo cơm nước. Chỗ Câu lạc bộ Thanh niên rộng rãi nhưng Hùng Minh gạt đi ngay, bảo rằng gia đình Cả Chanh sát bên cạnh chỉ có hai người đàn bà, một vắng chồng và một góa chồng, dễ sinh tiếng đồn nhảm. Đình làng và khu nhà đồn điền La-phạt bỏ trống đấy nhưng dễ ăn bom. Mấy tiệm buôn Tàu trong xóm Chợ luôn có người ra vào. Đành đóng trụ sở trong nhà cụ tú mà Tám Doãn vẫn quen miệng gọi là dinh quan phủ.
Sau mươi hôm nắm tình hình, Ba Mậu chỉ thị cho chi ủy mở cuộc họp chi bộ. Nghe Hùng Minh bảo họp trong phòng khách cụ tú, Tám Doãn nói rất xẵng:
- Họp Đảng mà đưa vô dinh quan phủ là dứt khoát tôi không dự, phê sao đó phê!
Liên tiếp mấy tổ trưởng thác bệnh hay bận việc rất gấp xin kiếu không đến, nhưng hứa sẽ báo cho đảng viên đến. Hùng Minh cho cắt nhiều khẩu hiệu giấy vàng trên vải đỏ, trang trí khá đẹp. Ba Mậu mặc quân phục còn nếp gấp, đeo súng ngắn Côn 45 mượn của Hai Khánh, ngồi sau trên ghế chủ tọa và lật lật xấp tài liệu chờ khai mạc, với đồng chí cảnh vệ chống mút-cơ-tông ngồi chéo mé sau. Các cửa phòng khách đều khép, gia đình cụ tú rút hết xuống nhà ngang hay ra vườn, phục dịch trà thuốc cho hội nghị đã có hai đảng viên tá điền ở xóm Ấp lo liệu.
Triệu tập tám giờ sáng, chín giờ mới có đảng viên thôn Linh Lâm đến lác đác, mười một giờ thì hết hẳn những người đến muộn. Kiểm lại, chi bộ hơn bảy chục chỉ 28 người đến họp, chi ủy năm đồng chí chỉ có mặt phó bí thư Hùng Minh và chi ủy viên Tư Chua, chủ tịch xã. Ba Mậu túc sôi lên, vẫn cố ngồi lật lật tài liệu trong khi đảng viên phì phèo những điếu thuốc Thượng cuốn nguyên lá to đùng, uống thứ chè quắn thơm ngon nhất của cụ tú biếu, tán gẫu chuyện rừng chuyện ruộng, thú núi cá sông, nhiều người giở mo cơm nắm ra ăn.
Cứ phải khai mạc thôi. Hùng Minh hùng hổ nói một tràng chữ chính trị về kỷ luật sắt của Đảng nghe nhức cả tai. Ba Mậu bình tĩnh lại, cắt ngang đà diễn thuyết của cậu ta, nói về tầm quan trọng cực kỳ của đợt học tập này. Những chủ trương mới của Đảng sẽ đem lại quyền lợi hết sức to lớn cho bà con ta, đặc biệt là nông dân nghèo khổ. Chi bộ bắt đầu nghe chăm chú, gật gù ưng ý khi anh cho hoãn ba ngày để các đồng chí kịp “kiếm thứ gì cho vợ con bỏ vô nồi”, bật cười vui thích vì nơi họp sẽ chuyển sang trường tiểu học - các cháu nhường lớp cho Đảng vài ngày chẳng hề gì. Mọi người hỉ hả ra về, còn Hùng Minh bị Ba Mậu xạc một trận rất đáng kể.
Ba ngày sau, chi bộ họp tiếp, lần này được sắp đặt kỹ càng hơn. Hai lớp của trường tiểu học nép dưới cây đề tán rộng đã được tháo dỡ phên liếp, kê lại bàn ghế, căng nhiều biểu ngữ lớn. Một thày giáo trẻ chưa vào Đảng họp các em học sinh ở nơi khác, cho ôn lại nhiều bài hát kháng chiến và vở ca kịch “Hội nghị Diên Hồng”. Ba Mít gọi họp riêng một số đồng chí lâu nay ăn ý nhất, dặn phải lên tiếng hưởng ứng nhiệt liệt sau khi cấp lãnh đạo nói xong, cũng nhắc lại lượt nữa phải nhớ cái tên Hùng Minh để gọi cho đúng. Đồng chí phó chủ tịch huyện thay mặc bộ bà ba đen, vắt vai cái khăn cũ như ông lão nông, không đeo súng ngắn, cho cậu cảnh vệ ra gác trước cổng để xua những người tò mò chứ không kè kè bên lưng cấp trên nữa. Và tất nhiên anh đi bộ đến chỗ họp, tán chuyện xuề xòa với mọi người trong khi chờ đợi.
Chi bộ tới gần đúng giờ và gần đông đủ, chỉ vắng sáu đồng chí đi dự chiến, đi dân công, đau ốm. Càng rõ trước đây họ nghĩ giống Tám Doãn: họp Đảng ở nơi trái khoáy quá thể, cãi cấp trên không được thì cứ né tránh phần mình.
Ba Mậu dành một giờ để nói về tình hình thế giới, trong nước, trong liên khu, tỉnh, huyện. Anh thường được khen là người diễn thuyết đĩnh đạc, hấp dẫn, luôn luôn làm chủ thời gian theo thói quen giảng bài. Không khí chung từ từ bốc lên, rộn rịp lên.
-... Chẳng cần nói đâu xa, bà con xã mình đây quanh năm đưa đón bộ đội ra trận, quảy gánh đi dân công tiền tuyến tới sát địch ở Quế Sơn, Duy Xuyên, cũng thấy ta mạnh địch yếu. Một xã như vậy, toàn cõi Đông Dương cũng vậy. Thằng Tây kiệt sức rồi. Phía ta thì Hồng quân Trung Hoa đưa hàng triệu quân dồn tới sát biên giới, Bắc Triều Tiên đang tổng công kích ào xuống giải phóng nửa nước phương Nam. Liên bang Xô-viết sẵn sàng tung các thứ võ khí tối tân ra giúp ta giành độc lập...
Hội trường rào rào tiếng xuýt xoa, tiếng kêu khẽ vui thích. Ba Mậu tinh ý, cho nghỉ luôn mười phút để mọi người tha hồ bàn tán. Cả những ai ngại họp và hay ngủ gật nhất cũng bị cuốn vào cơn say chung, cười nói mỗi lúc một hăng.
Đồng chí đồng bào Linh Giang phải làm gì để Tổng phản công được toàn thắng? Ba Mậu biết phải rèn nhanh khi sắt đang nung trắng. Giờ sau, anh lật ngửa quân bài giữ kín.
-... Thanh niên trai tráng tòng quân giết giặc, vô du kích gìn giữ xóm làng, năm nay đông đảo bằng cả chục làn năm ngoái. Ai lo súng đạn cơm áo cho chiến sĩ? Chính bà con ta lo. Chiến sĩ đông gấp mười lần, bà con ta phải đổ thêm mồ hôi, trút thêm của cải, tăng đóng góp lên gấp mười lần, chớ sao nữa? Hay là người ở hậu phương cứ việc ăn no mặc ấm, để mặc kệ con em mình ngoài mặt trận nhịn đói cởi trần, đánh Tây bằng tay không? Hay là đợi Tổng phản công xong xuôi, mình được hưởng độc lập rồi, được lãnh phần người cày có ruộng rồi, mới thắp cho các liệt sĩ một cây hương để giả bộ thương tiếc? Hay là cứ bo bo ai lo đầy nồi nấy, tới mai sau con cháu lớn lên nó nhổ vô mặt mình, nói cha ông người ta để lại danh thơm cho gia đình, còn mình vô phước phải gánh chịu sự khinh miệt của làng xóm vì cha ông mình chui nhủi, trốn tránh khi Tổ quốc lâm nguy. Không, trăm ngàn lần không! Bà con Linh Giang, Đảng bộ Linh Giang đã theo Đảng từ hồi bóng tối, cầm võ khí nổi dậy lập chánh quyền từ trước Cách mạng tháng Tám, tới nay vẫn giữ vững khu căn cứ bất khả xâm phạm này của Kháng chiến, sẽ dẫn đầu toàn huyện toàn tỉnh về tinh thần đóng góp nuôi quân, về cách làm ăn tập thể hoàn toàn mới mẻ!
Ba Mậu nói mỗi lúc một to, mặt đỏ bừng bừng, ngắt mỗi câu bằng một nhát chém mạnh tay vào không khí.
Cả chi bộ cũng hừng hực, sùng sục, hơi thở dồn dập và mắt long lanh, uống từng lời cháy bỏng như rượu nặng độ.
-... Vì vậy, tỉnh và huyện chủ trương làm thí điểm hai việc tại Linh Giang, hai việc gắn liền với nhau. Thứ nhứt: lập quỹ Tổng động viên, mỗi gia đình sẽ góp vô đó một nửa tài sản hiện có, trừ ruộng đất chưa động tới. Quỹ ấy sẽ dùng một phần làm nghĩa vụ kháng chiến, phần lớn hơn sẽ phục vụ cho việc thứ hai: thành lập Nông đoàn sản xuất tập thể, làm chung hưởng chung. Chi bộ ta được nhận vinh dự lãnh đạo dân chúng Linh Giang làm thí điểm, mở con đường mới cho toàn huyện toàn tỉnh noi theo, quyết xứng đáng với lòng tin của Đảng và Chánh phủ!
Ba Mậu cho nổ quả bom giữa lúc người nghe say bốc nhất. Anh rất mừng khi thấy chi bộ không hề xao xuyến, không ồ à hay đưa mắt nhìn nhau phân vân. Bước khó khăn nhất đã vượt qua rồi, anh tiếp sang phần cụ thể.
Nộp vào quỹ một nửa tài sản đây chỉ là động sản, gồm lương thực, trâu bò, cày bừa cuốc thuổng dao rựa, nồi đồng mâm thau, chăn mùng... Những thứ động sản không đáng giá như chén, bát, đũa, hay những thứ chỉ hợp với từng người như áo quần cũ thì không phải nộp. Các loại bất động sản như ruộng đất, nhà cửa, ao cá, cây ăn trái chưa động tới, số thu được sẽ chọn một phần gửi ra tiền tuyến, như lương thực, chăn mùng, heo bò thịt. Còn lại sẽ là cái vốn ban đầu xây dựng Nông đoàn. Xã ta có khu đồn điền năm trăm mẫu tây của tên thực dân La-phạt, đã phát vỡ hoang trên ba trăm mẫu, trồng cà-phê, thuốc lá, chè, trẩu, cùng các loại cây khác chừng hai trăm mẫu, nay bỏ hư hỏng phần lớn. Nông đoàn dùng vốn do quỹ Tổng động viên cấp, vỡ hóa số đất đồn điền làm ra lương thực cho kháng chiến và cho mình cùng hưởng. Bước đầu chỉ chọn số nam nữ thanh niên khỏe mạnh để dựng trại, đào giếng, cày cuốc trồng trỉa, về sau cả gia đình sẽ chuyển tới định cư hẳn...
-... Cứ vậy, xã Linh Giang sẽ phất lên lá cờ đầu làm ăn tập thể như các nông trang xã hội chủ nghĩa ở nước đàn anh Liên bang Xô-viết, từ khắp các nơi đồng bào sẽ kéo tới học kinh nghiệm của những người khai sơn phá thạch chúng ta, cũng như năm năm trước đã từng học kinh nghiệm xây dựng du kích Việt Minh!
Anh rút khăn tay lau mồ hôi trán, cho nghỉ lần nữa. Tám Doãn lầm lì suốt buổi, giờ rời ghế trên chủ tịch đoàn bước thẳng ra sân. Hùng Minh nhấc ly nước chanh trên bàn giục anh uống. Mười Áng túm tay ông Tư Chua kéo tới trước diễn giả:
- Dạ thưa, tôi hoan hô còn sợ mang tiếng lấy lòng. Bác Tư đây chánh thị là cách mạng nòi, bác tuyên bố: nghe anh Ba hô hào vậy, bà con nhảy vô lửa chẳng từ nan đâu. Bác hẹn bác xung phong mẫu mực trước, hề hề... trong nhà sót một hột muối cũng cắn đôi cho chiến sĩ, phải chưa bác Tư?
Ông Tư vung tay oang oang:
- Y sì vậy đó. Người ta hi sanh cả tánh mạng, tự tay đốt nhà làm tiêu thổ, lưu lạc đói rách theo Chánh phủ đánh Tây, mình đây mới góp nửa tài sản đã ăn nhằm gì! Đừng có tiếc thóc bồ trâu bầy, một trái bom là tiêu hết, chỉ còn cái hố với cái miệng thế gian chê cười! Quý nhứt nhà tôi có bộ đồ rèn tích góp ba đời đó, tôi đem xắn đôi, lập cho Nông đoàn một lò rèn dao cuốc ngay tức thời, cần nữa thì thằng Tư này nhảy vô ngồi rèn cho bà con. Đâu xa không dám nói, chớ nội huyện Tây Quảng đây tay nghề đập búa không ai qua mặt nổi lão Tư Chua!
Ba Mậu hồ hởi siết tay ông chủ tịch xã chỉ thoáng gặp một lần. Lát sau anh sực nhớ lời Hùng Minh mách ông Tư là cha Cả Chanh, giật mình nghĩ: “Mình vô ý quá. Lão ta hùng hổ khoác lác vậy chắc có dụng tâm, không gây uy tín cá nhân thì cũng tính kế chạy chánh sách...”.
Trong phần thì giờ còn lại, anh giảng về những sai lầm lệch lạc có thể xảy ra, nặng nhất là dân chủ quá trớn, tự do vô chánh phủ. Anh nhấn đi nhấn lại rằng kỷ luật sắt của Đảng chỉ cho phép đảng viên bàn bạc để thi hành chứ không được bàn lùi, bàn ra. Thiếu phục tùng đa, hạ phục tùng thượng, quên điều đó là loạn, loạn to. Anh báo vắn tắt, coi như quyết định có sẵn từ trước, rằng đồng chí Hùng Minh được chỉ định làm trưởng ban quản trị quỹ Tổng động viên, và tài sản cụ tú Ung Viết Đỉnh sẽ được cấp trên định đoạt sau này, theo đúng chánh sách của Đảng đối với một phó chủ tịch Mặt trận huyện. Thay vì cho năm bảy người lên tiếng hưởng ứng nhiệt liệt như đã sắp xếp trước, anh đổi ý cho chuyển sang thảo luận tổ, để những phần tử đáng ngờ như Tư Chua không được dịp lấn lướt gỡ uy tín.
Trong bữa trưa có món thịt bò non nhúng dấm ngon tuyệt trần, Hùng Minh cùng cả đoàn nâng cốc chúc mừng buổi lên lớp rung chuyển lòng người của đồng chí phó chủ tịch. Cụ tú vuốt râu cười khà, đặt thêm vài chai lên bàn, bấm Hai Khánh cùng rút lui để anh em tha hồ bốc thơm nhau. Ba Mậu cao hứng dốc cạn nhiều ly đến lảo đảo, lăn ra ngủ suốt chiều, chỉ được mời dậy khi phải tiếp các tổ trưởng đến hội báo.
Chi bộ chia làm sáu tổ. Riêng tại Linh Lâm có ba tổ: cơ quan xã một, xóm Mới một, các xóm khác một. Ba thôn Thượng, Trung, Hạ mỗi thôn một. Các tổ trưởng Đảng lâu nay làm việc hăng, đáng tin cậy, Hùng Minh đã cam đoan với Ba Mậu họ sẽ “phục tòng ro ro”. Bây giờ, họ báo cáo rất bình tĩnh và lễ phép mà cứ như giội từng gàu nước lạnh vào mặt Ba Mậu cho tỉnh rượu.
Xếp sang bên năm bảy chục lời hỏi thêm để làm cho xứng ý cấp trên, còn một loạt câu căn vặn thật hóc búa.
Tám Doãn cùng tổ cơ quan đòi xem tận mắt bản nghị quyết của tỉnh và huyện mà anh Ba đã nói miệng. Thu một nửa tài sản của dân là việc lớn tày đình, không thể dựa vào lời nói gió hay. Lại nữa, đồng chí phó chủ tịch huyện chỉ là đảng viên thường, sao có quyền chỉ đạo chi bộ và chi ủy? Ai giao quyền, quyền hạn tới đâu, xin cho xem văn bản!
Tổ Linh Lâm I tức tổ xóm Mới cương quyết không chịu để Hùng Minh làm trưởng ban quản trị. “Ảnh có chữ nghĩa, ăn nói lợi khẩu, làm giấy tờ thì được, chớ đùng để rờ vô chỗ gạo tiền”. Họ giới thiệu năm người, trong đó có Tám Doãn và cả chị Năm Bưởi, người đã bị Hùng Minh gạt ra ngoài đợt học tập này vì “có vấn đề đạo đức đang phải tra xét”, thật ra chỉ vì hay cãi lý chẳng biết nể ai.
Tổ Linh Lâm II đợi cụ tú Đỉnh nộp một nửa tài sản y như mọi người, để lại sau thì tẩu tán hết. Về điểm này số đảng viên xóm Ấp, hầu hết là tá điền của lão, cứ xói vào kể tội vợ chồng lão dù chủ tọa sốt ruột ngắt lời nhiều lần. Có người còn nói “đoàn ông Ba Mậu ăn xôi chùa ngọng miệng, che chở nhà giàu, chỉ vơ vét dân nghèo”.
Một nhóm đảng viên có máu mặt ở Linh Hạ bảo khi nào Cụ Hồ xuống lệnh toàn dân cùng nộp thì họ nộp, giờ chẳng tội vạ gì đem thân làm thí điểm trước. “Đó rồi hư việc thì ông Ba Mậu xách gói đi biến, lũ mình bị thí luôn. Ông khác về sẽ nói: thôi thôi, chuyện cũ cho qua, nay có chủ trương mới, đảng viên phải triệt để chấp hành...”. Ba người trong số ấy đã bỏ họp ra về.
Dè dặt nhất là bảy đồng chí tổ Linh Thượng. Từ quê xa đến được kết nạp cho đủ chỉ tiêu thi đua phát triển đảng, tài sản không có gì, họ “cứ là xin một lòng theo Đảng tới cùng”. Nhưng vì đã gặp quá nhiều cán bộ lưỡi dài tay ngắn trên những chặng đường tản cư, họ chỉ mong mỏi đồng chí phó chủ tịch huyện ở lại xây dựng Nông đoàn chí ít là một năm, đừng đem con bỏ chợ.
Cuốn sổ biên bản dưới tay cậu văn phòng nông hội tỉnh, thư ký của đoàn, đã kín tám trang chữ mà các tổ trưởng vẫn lần hồi nhớ ra thêm từng xâu thắc mắc. Dưới ánh đèn măng-sông ri ri sáng xanh rực - cụ tú Đỉnh đã hào hiệp biếu dầu lửa mua rất đắt tại khu nhà khách - dễ thấy mặt Hùng Minh tái mét. Ba Mậu vã mồ hôi đến sẫm hai nách áo.
Một cơn tức giận dữ dội đang bốc cháy trong Ba Mậu. Anh cố ghìm mình đến run tay nghẹn họng để khỏi đập bàn thét lớn: “Câm họng! Cho phép bàn bạc dân chủ thì các người nói xóc óc, phá ngang, nhẹ không ưa cứ ưa nặng! Để coi, mệnh lệnh cấp trên ấn xuống các người trốn đâu? Hay là muốn khai trừ, giải tán chi bộ, lập chánh quyền quân quản?”. Anh chịu không nổi nữa. Phải quát vào mặt chúng nó. Phải thẳng tay...
Anh bật dậy đi vội ra hiên, hít một hơi dài, cố xả ngọn lửa trong ngực qua mũi miệng. Sau lưng anh các tổ trưởng xin nhau thuốc hút, nói khẽ:
- Để ảnh nghĩ câu giải đáp...
- Đói hung rồi mấy cha. Trưa mới gặm mấy trái bắp luộc, lọt đâu mất.
- Học giỏi đi, cấp trên cho bò heo đánh một trận bế mạc, xực chết thôi! Cả xã nộp nửa tài sản, làm gì cho hết!
- Chớ đó nghen. Dân chưởi nát mặt, ăn vô dễ, nhả ra khó...
Ba Mậu chắp tay sau lưng, đi thong thả vài vòng trên sân gạch xa ánh đèn. Người anh nguội dần, mát dần, nhưng một cảm giác lạnh mơ hồ lại từ từ thấm vào anh qua các lỗ chân lông, mỗi lúc một tăng. Anh ngửng nhìn mảnh trăng thượng tuần nhòe nét trên lớp sương mù, thấy nó nhợt nhạt như mất máu. Những con đớp muỗi nhào lộn chúi chồm, có lúc xẹt qua sát đầu anh, đang chơi trò chọc tức con người thù địch hay rình bắt chúng. Tiếng “bép, bép” vẳng từ xa của cọp gọi nhau giữa cuộc săn hay của con chim tơ-cang luôn theo đuôi cọp, các tay săn thú nói khác nhau. Tất cả chung quanh anh đều lạ mắt lạ tai, chứa đầy hăm dọa lẩn khuất. Tới đây đất nước lạ lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kiêng. Đừng nóng, đừng hấp tấp...
Anh quay vào chỗ hội báo, nét mặt đã trở lại tươi tỉnh:
- Sáng mai các đồng chí cho thảo luận tiếp. Nhớ nhắc anh chị em có thái độ xây dựng. Trên dưới cùng làm, cùng chịu trách nhiệm, phải chưa? Đưa khó khăn ra thì nên nghĩ luôn cách vượt khó khăn. Chiều mai tôi giải đáp, giờ lo kiếm ba miếng đã!
Đêm ấy Ba Mậu thức gần trắng, chìm sâu trong cô đơn như trong mù rất đặc và lạnh. Hồi bước vào ngành xe lửa, anh được Cả Chanh đưa đi giới thiệu khắp nơi, chia sẻ cho anh rất nhiều mến phục của tập thể. Dần dà về sau anh thấy mình xứng đáng hơn Chanh, anh sắp xếp lại, anh lấn lên... Kể ra, mình cũng làm hơi quá một tí đấy, nhưng lại thêm cái nạn phù thủy khiến ít âm binh động nhiều, cũng không ngờ thằng Chanh bỏ đi dễ dàng như vậy... Chỉ hơi quá một tí thôi mà, các cha ở liên khu phê mình nặng lời kinh khủng, còn may mình giữ được bình tĩnh, giả dại qua ải cho xong… Kể cũng tội nghiệp, nó đang leo dốc theo hướng Tây kia, hướng con cọp kêu bép bép ban nãy. Nó rất thật thà, thật thà là cha đứa dại, mình thay nó là phải thôi, đáng lẽ nó ở lại giúp mình về nghề xe lửa thì hay tuyệt. Mình chỉ cần giữ chức giám đốc Sở hỏa xa vài năm cho xứng với công lao làm cách mạng từ thời Mặt trận dân chủ, sau sẽ nhường cho thằng Chanh hay ai cũng được, mình lên nữa càng hay, nếu lui về nghỉ thì cũng là cán bộ liên khu, đỡ bị coi thường. Cứ như về Đảng thì chán chết, mấy đứa mới nho nhoe đã được vào huyện ủy, mình chịu khó vận động mà vẫn trượt, hồi năm 47 ở ngay Tây Quảng đây thôi. May mà được mấy cha bạn cũ đưa về làm bí thư hỏa xa, không thì chỉ trụi thùi lụi một chữ đảng viên trong lý lịch!
Mãi đến gà gáy đầu Ba Mậu mới trở lại thanh thản, ngủ thiếp rất say.
*
* *
Một người khác trong đêm ấy thức thắng đến sáng, là Hai Khánh.
Một lần nữa Bảy Suyền đi công tác lại “tình cờ” nhận được lá thư của cụ tú Đỉnh gửi Khánh. Ông cha dượng rủ anh về thăm nhà, nhân tiện giúp ông chút việc gấp. Đến bữa cơm, Bảy Suyền như ngẫu nhiên nhắc tới thằng bé Phan Chung con chị Năm Bưởi, người ở Linh Lâm xuống nói nó đẹp và khôn không thể tả. Chị Năm bảo chồng chị cũng họ Phan như chị, chẳng phải nó lấy họ theo mẹ đâu.
Hình ảnh đứa con rơi lâu nay chập chờn khi xa khi gần chung quanh Khánh, bỗng chốc hiện lên sắc nét như một thiên thần mũm mĩm trong tranh Phục hưng. Không chịu nổi nữa. Anh phải thấy nó ít nhất một lần, một lần thôi, tới đâu thì tới! Suốt buổi chiều Khánh lang thang quanh xóm, ra quán làm vài ly đế lậu, rẽ xuống bờ con sông cạn ngồi thẫn thờ ngắm nước chảy. Đến sẩm tối anh hối hả về thắng ngựa, phóng vào trại tù hàng binh, báo cho chính trị viên trại biết anh sẽ đi phép mười ngày, nhờ chuyển luôn mấy chữ cho anh trưởng Ban địch vận tỉnh.
Đến Linh Lâm, anh cho Bảy Suyền sang ngay lò rèn ông Tư thăm dò trước. Trong hai tiếng chờ đợi như ngồi trên lò than, Khánh hết rét lại sốt. Từng lúc, anh thấy Năm Bưởi khóc rũ rượi, ngất trên tay anh, lại thấy cô ấy chồm tới cây súng Nhật treo trên phên, lên đạn đánh rốp, trợn mắt quát đuổi thằng Sở Khanh. Gặp anh đứng đón ngoài cổng, Bảy Suyền lắc đầu ngay:
- Chỉ nghe tin anh về hồi nãy, quơ áo quần cho vô ba-lô, ôm con đeo súng đi biến mất. Em hỏi chị Thùy, qua lò rèn, sục trong xóm Chợ, không ai biết chị Năm đi đâu. Tới bến vạn người ta mới nói chỉ quá giang ghe tiếp phẩm của bà Tô Xáng, chắc là con bị đau ốm sao đó phái đi bệnh viện Huề Bình...
Sáng hôm sau Khánh cưỡi ngựa đi Huề Bình. Chị Xáng nói Năm Bưởi bồng con đi khám thật. Nhưng Bưởi không hề đến bệnh viện đóng trong xóm khuất, cách chợ Huề Bình chừng một cây số.
Bưởi lánh mặt anh nhanh gọn, quyết liệt, thật không ngờ!
Trong những ngày chưa mở lớp, Khánh đưa “Người nhà quê Trung Kỳ” đi xem cảnh dọc sông Linh cho khuây khỏa, hoặc vác súng hơi đi bắn chim. Khánh không muốn làm cái việc mà ông cha dượng thiết tha nhờ: cố thuyết sao cho Ba Mậu đừng động tới tài sản của cụ nhân sĩ trí thức, hay chí ít cũng hoãn thật lâu để ông kịp chạy bớt. Nói thẳng thế nghe chướng tai lắm. Tuy vậy, cái ý ấy từng lúc cứ xì ra qua những câu chuyện bao đồng và Ba Mậu đoán được. Chỉ một điều Ba Mậu không biết: sau khi được nghe chủ trương tối mật của huyện, Hùng Minh về xã đã báo ngay cho tú Đỉnh, và trong khi Hùng Minh trở xuống đón đoàn cán bộ, lái buôn đã kịp lùa đi hơn chục con trâu, chở đi bằng thuyên ba trăm ang thóc. Của đáng giá trong nhà tú Đỉnh kịp náu xuống đất khá nhiều. Trong khi chưa rõ ông phó chủ tịch huyện sẽ xử sự ra sao, cứ nắm đằng cán là hơn.
Bảy Suyền rút cây bút máy Kao-lô hai vành cài vào túi Hùng Minh, nhờ cắt người dò tung tích Năm Bưởi. Hùng Minh chọn ngay thằng Bảy Bòng, em ruột Bưởi, đang ngày càng thân với cậu ta. Bảy Suyền gửi luôn cho Bòng một dao xếp Con chó đang dùng, hẹn sẽ thưởng thêm.
Trưa nay, Bảy Bòng chạy sang ấp, báo tin chị Năm đã về nhà, buổi chiều sẽ đi bẻ bắp vần công trên Linh Thượng. Nó chỉ biết về gốc tích thằng Chung ngang mức dân làng, chẳng hơi đâu để ý chuyện lắt léo của đàn bà. Nó sướng phát cuồng khi được Bảy Suyền cho mượn cây súng hơi đến sáng mai, cho hẳn một gói đạn vài chục viên.
Khánh và Suyền đến đúng lúc, chỉ có Hai Thùy ở nhà với cái bụng chửa bốn tháng rưỡi đang đạp máy may, bé Chung ngủ trên giường buông màn bên chị. Suyền đưa một tấm vải nội nhờ chị may gấp cái áo cổ vuông, đợi lấy ngay. Thùy vui vẻ xếp bộ bà ba may dở, làm giúp cho hai anh cán bộ rất quen chồng chị nhưng chưa gặp chị lần nào.
Khánh ngồi ghé xuống giường, run tay vén màn, chợt thấy choáng váng như trúng gió. Tin đồn không sai, quả thằng bé giống anh như đúc và đẹp tuyệt trần!
Thùy đang đo vải, quay lại cười tươi:
- Các anh đợi lấy áo thì xốc nó dậy chơi một lát. Ngày ngủ nhiều, đêm lại thức quấy mẹ nó hoài à. Chung, dậy, dậy con!
Khánh luồn tay nâng ngửa nó lên, nhắm mắt, cố gượng cho qua con xây xẩm mặt mày. Anh úp mặt trên bụng con, thở dồn dập, làn da trắng hồng mát rượi tỏa mùi sữa thơm vào đày ngực anh. Một tiếng nấc trào lên miệng, anh cố nuốt xuống. Con tôi đây, đứa con bị ruồng rẫy đây, tội nghiệp thằng nhỏ thiên thần của ba...
Hai hàn tay tí xíu túm lấy tai và tóc anh. Anh ngửng đầu, thấy cái miệng cười toét và cặp mắt hạt nhãn chớp chớp ngái ngủ. Nó thức giấc mà không khóc nhè đòi mẹ như những đứa trẻ khác, cười ngay, chơi ngay với người lạ, rõ là đứa bé được bế chuyền tay từ khi mới sinh...
Những gì diễn ra sau đó, Khánh không nhớ nữa. Óc anh chỉ ghi lại như chụp ảnh đứa con sờ mặt anh, đứa con lóp tóp ăn chuối, đứa con chập chững đi không vịn trong khi anh ngồi xổm, duỗi tay hờ và nhích giật lùi, đứa con bén hơi nhào vào ngực anh và cười rinh rích. Nó chỉ biết kêu mẹ, kêu “mẹ Xùi” tức là Thùy, chưa từng gọi cha hay ba lần nào. Có lúc Khánh nghĩ rất nhanh một vụ bắt cóc: anh bảo Thùy để cho bồng nó sang lò rèn chơi, chạy thẳng về ấp, địu con phóng ngựa biến luôn, Bảy Suyền ở lại thu xếp và xuống sau bằng xe đạp. Không được, Năm Bưởi sẽ rống lên như cọp cái mất con, xách súng đi lùng anh cùng trời cuối đất!
Suyền giục mãi anh mới rứt ra về, chân nặng kéo lê từng bước. Về đến ấp anh vào chỗ buồng xép dành cho mình, buông màn nằm ngay. Suyền kín đáo đặt bên đầu giường anh một chai ruợu thuốc, gói thuốc thơm Cô-táp, một chùm chả lụa nem chua mới mua ở xóm Chợ, ấm tích nước chè ngon pha đậm. Sau một đêm không chợp mắt, mọi thứ đều hết nhẵn.
Khánh chào tạm biệt Ba Mậu trong bữa ăn sáng. Hai người bạn lệch tuổi đều có bộ mặt phờ phạc và lời nói lơ đãng. Đoàn Ba Mậu hối hả chia nhau đi nghe các tổ thảo luận. Ông cha dượng đã sắp sẵn một gói quà to để Khánh mang theo tẩm bổ, giúi thêm những hai chục ngàn đồng tín phiếu. Khánh thờ ơ nhét gói tiền dày cộp vào xắc-cốt: ông ấy mới bán trâu thóc lu bù, đưa bấy nhiêu chỉ là con số lẻ, chẳng đáng là bao.
Nghe Suyền bảo muốn hỏi thăm bác tú đôi điều, Khánh gật đầu, cưỡi con ngựa tây cao lớn của mình lên dương Nai xem lại cảnh Linh Lâm. Đã quá rõ là giữa Suyền với tú Đỉnh có một mối dây nào đó khăng khít và bí hiểm mà họ giấu anh. Kệ xác họ. Thì cũng như cánh đảng viên cộng sản thậm thụt thì thào sau lưng “quần chúng Khánh” đấy thôi! Ở trại tù hàng binh, nhiều lúc anh cố nín cười và phớt lờ khi thấy một số anh em tỏ vẻ quan trọng bằng những điệu bộ “hội kín”, anh đánh giá họ là những người mộc mạc, trung thành, nhưng lại hẹp bụng và rất đa nghi đối với những ai ít giống mình, có lẽ vì dốt hơn là vì kiêu.
Vùng núi Ngọc Linh chót vót phía tây-nam chưa đủ nắng để tan sương, còn nhiều vệt mây trắng vắt ngang những đỉnh màu tím loãng lẫn vào chân trời, ở đấy mùa mưa đến sớm, trong khi Linh Lâm mới lác đác dông chiều thì nước nguồn từ trên cao xuống đã nâng mực dòng chảy sông Linh lên kha khá so với đợt hạn vừa qua tô đậm thêm những nét chữ Hán mà có lần Cả Chanh đã tả như ông thầy địa chính cống: chữ nhân, chữ đại chữ thái, chữ thiên, gì gì nữa tùy mắt mỗi người.
Một con mang lông vàng màu lá khô đang cúi uống nước trên bờ bên kia, mưa chưa đủ tạo vũng trong rừng. Cũng gần chỗ ấy, hôm nọ Khánh gặp lại cặp cá măng lửa mà dân chài sông Linh gọi là ông Măng, bà Măng: dài chừng thước rưỡi, đỏ rực như lửa thật, luôn luôn bơi sóng đôi, từng lúc quạt đuôi rất mạnh hất lên trời hay lên tận bờ một con cá vài ba cân, xoay đầu đớp ngay con mồi vừa rơi chạm nước. Chúng lên xuống dải sông này từ lâu lắm, chỉ vắng đi một dạo khi quân giới đánh cá bằng mìn nhiều, nay mới trở lại.
Khánh dựa cây đứng lặng, những kỷ niệm xưa dồn dập đến làm anh nghẹn ngào. Vạt cỏ êm lọt giữa những bụi sim lòa xòa rậm lá kia là nơi anh với Mỹ Duyên “loạn” với nhau một lần. Xa hơn nữa có cái rãnh đất nẻ đầy lá khô, anh giấu hai cây súng mua cho du kích Linh Lâm. Giữa đường từ dương Nai này đi truông Dơi, anh đặt chỗ hẹn gặp và hộp thư cạnh gốc cây si già, Năm Chò hay thằng nhỏ Sáu Cam đến hai ngày một lần nhận tin anh báo về “phe địch thù”... Mới đấy mà đã năm năm lẻ mấy tháng. Mỹ Duyên biệt tăm. Sáu Cam ra khu Tư học tiếp. Năm Chò đánh Tây ở mạn bắc Thu Bồn. Cả Chanh sang Lào không hẹn ngày về. Những con người ấy lần lượt đi xa, trong khi nhiều biến động mới nữa sắp diễn ra trên đất này.
Chọt có tiếng “tố hộ” vang gần. Một con công to sải đôi cánh màu lục óng ánh sà xuống sườn dốc phủ cỏ trước mặt Khánh, kéo cái đuôi gấm biếc thêu lắm màu xanh tím vàng, nghiêng nghé cái đầu nhỏ đội mũ trắng, nhìn quanh, phân vân ngó Khánh và con ngựa đứng im dưới bóng cây, lại thong thả đập cánh bay đi như nhường chỗ.
Khánh xem giờ, chép miệng, dắt ngựa đi xuống ấp. Anh rời Linh Lâm với cảm giác mình đã nuốt vào cổ nhiều lưỡi câu, mỗi lưỡi kéo theo một sợi dây cước vô hình không cắt bỏ được.
Chú thích:
[1] Anh, đồng chí