Chương XVIII
Chín Khiết qua lại hỏi Cả Chanh:
- Mấy giờ rồi mà coi trưa trật vầy ta?
Chanh cẩn thận xem lại kim giây, thấy nó nhích đều mới đáp:
- Tám giờ mười bảy.
- Gay go rồi. Dự kiến quân nó chín giờ qua cầu. Mình trễ là đánh hụt hay vuốt chút đuôi, làm trò cười cho bạn Lào... Truyền lên: “Các đại cho chạy thường, nới rộng cự li - Khiết”. “Bổn đâu? Bổn! Chạy luồn lên đầu nhắc đúng lệnh, nói thêm là phải bôn tập, trễ giờ rồi.
Chú liên lạc, học sinh Việt kiều từ Pạc-xê ra vùng ta năm ngoái, vội cởi tấm choàng nhựa cài vào nịt, lánh qua lại trên đường rừng chật, vọt lên phía trước. Khiết lắc đầu:
- Số tân binh mới lên chỉ được học hai tháng, lơ ngơ lắm, mình cho truyền lệnh thử vài lần sai bét, gà không hóa quốc mà hóa ra voi!
Chanh sực nhớ:
- Đồng hồ bảnh đâu mà ông hỏi giờ?
- Tông vô đá bể nát hôm kia. Tiếc cái Pranh-ta-ni-a mới tinh hảo, hăm mốt ruy-bi, chạy đúng từng giây...
- Chà, chỉ huy không có đồng hồ thì đánh chác sao. Ông đeo tạm cái Tăng-cô của tôi, thứ rẻ rề, may mua trúng cái dùng được. Kiếm được cái tích tắc chiến lợi phẩm nào khá khá, tụi tôi làm lễ trao tặng ông cho oai.
- Ừ, hễ vô hòm rồi thì bỏ theo nghe!
Khiết cười, cài vội cái đồng hồ loại bán từng cân vào tay, trong khi hàng quân trước mặt anh bắt đầu rùng rùng chạy.
Sau trận tập kích Na Khảm diệt hai trung đội Cọp Rừng, tiểu đoàn 75 được Ủy ban Kháng chiến Lào khao hai con trâu béo như sim, chiều qua xẻ thịt cả cặp làm lương khô và liên hoan ra quân trận mới. Trời mưa dầm, cấp dưỡng xài hết sạch số củi sấy khô trong các lán, mệt ngủ vùi, hai giờ sáng dậy nấu cơm nắm và nước uống bằng củi ướt ngoài rừng, vừa quạt vừa ho sặc. Cán bộ giục mãi chỉ nghe đáp giữ nhịp: báo cáo sắp xong, chút xíu nữa, xong đây... cứ thế hàng giờ.
Chín Khiết lâu nay bớt máu Trương Phi nhiều, nhưng vẫn rất khắc nghiệt khi bước vào chiến đấu, anh em hay đùa là “ở nhà nàng dâu, ra trận mẹ chồng”. Lính rất thích người chỉ huy như thế. Một chút ẩu hay lười khi chuẩn bị có thể hại hàng loạt mạng sống khi giao chiến. Lần này cũng vậy, dù lo trễ, anh cũng nhất quyết không cho xuất quân thiếu cơm nước. Phục kích đánh đoàn xe quân sự, tiểu đoàn ra đến đường 13 có thể nổ súng ngay, cũng có thể phải nằm đợi suốt ngày dưới những đợt mưa nắng mươi phút một lần thay đổi. Bộ đội quen chịu đói khát là nết quí của bộ đội, chỉ huy để bộ đội đói khát là chỉ huy có tội. Vả lại sức người có hạn, khi địch dẫn xác đến thì quân ta đã tê bại cả người, xung phong run đầu gối, thét tiếng “sát” hụt hơi, đuổi theo địch cứ ngã lăn ra sùi bọt mép như động kinh... Sùng sục như cọp đói trong chuồng, Chín Khiết sải cặp chân dài rảo qua các bếp, vung súng ngắn đánh thức mấy cậu quản lý gật gà, hò hét quát tháo, xẻ thử những nắm cơm đang bốc khói và phát hiện ra cơm sống, cố ghìm quả đấm chực vung lên, nói gằn:
- Sau hai mươi phút tôi sẽ xẻ cơm coi lại. Hễ còn cơm sống... Thông cảm hả? Thông cảm với đứa tính đầu độc anh em?
Chín Khiết đã mệt và khản giọng khi các đại đội nhận đủ mỗi người hai nắm cơm thật chín, riêng khoản nước rót ống tre thì đành dựa vào suối khe. Còn may chiến sĩ đã được mỗi người hai viên thuốc tím từ liên khu gửi lên để tự rửa vết thương nhẹ, có thể cạo vào nước lã để uống.
Cả Chanh cũng tất tưởi đi thu xếp cơm nước, ngượng chín cả người. Đêm mưa anh thức khuya duyệt các đơn xin vào Đảng, phần cơm áo gạo tiền đã giao rành mạch cho tiểu đoàn phó và các đại đội phó, nhưng dù sao anh cũng tạm kiêm chính trị viên D.75 khi trên chưa kịp cử người về hay đề bạt từ dưới lên. Đáng lẽ cán bộ chỉ huy phải được dồn óc lo phần tác chiến...
Anh đã vào Thường vụ Ban cán sự khu, nhưng được ở lại mặt trận Tây-Nam chỉ vì chưa có ai đủ sức thay anh tại đấy. Anh không phải về làm trưởng Ban chính trị khu nhu chính ủy Hai Thỉnh rất muốn và Đảng bộ Tây-Nam rất không muốn.
Trong năm qua, quân tình nguyện Tây-Nam có những biến đổi thầm lặng. Lần đầu, các chiến sĩ thấy chính trị viên và cả cán bộ dân chính đến học chung lớp với tân binh, hò hét đâm lê vào bù nhìn rơm, rón tay tập gài mìn. Cũng lần đàu, cán bộ quân sự chong đuốc cà-boong học tiếng và chữ Lào, tập viết nắn nót: “Thửng Kh-ná câm-ma-can Tò tạn Khoẻng Châm-pa-xắc thì nặp thử xạp”[1]. Số cán bộ khu thường lui tới vùng này kinh ngạc khi nghe anh Chín Khiết, người nổi tiếng hay kình với chính trị viên, nói tự nhiên: “Ta bàn vậy đủ rồi, tôi sẽ xin ý kiến anh Chanh trước khi quyết định”. Cả Chanh cười cười khi họ đến: “Rửa ráy ăn cơm cái đã, lát anh Khiết về ta họp”. Các đồng chí Lào, vốn biết khá rõ chuyện nội bộ của anh em Việt nhưng giữ ý không để lộ, nay khỏi phân vân hỏi nhau: “Việc này nên bàn với ai nhỉ?”. Với ai cũng được.
Một chất kết dính nào đó trong suốt khó thấy cứ lan mãi trên vùng ruộng lầy chen rừng bằng ở tận cùng phía nam nước Lào, giáp Miên và Thái. Nó từ đâu đến? Từ những sửa chữa chính sách, từ những chiến thắng hào hùng khắp Đông Dương, từ hàng loạt tin vui hậu phương liên khu Năm gửi lên? Hay như Chín Khiết và một số cán bộ nữa muốn qui công cho đồng chí bí thư Phan Chanh? Thật khó tách rời phần ai đóng góp nhiều ít, thôi coi như công chung là gọn nhất.
Bước vào năm 1954, phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, cả miền giữa này của Đông Dương rung chuyển trong cơn động đất chưa từng thấy từ đầu kháng chiến, có lẽ từ khi vượn biến thành người nữa kia. Các trung đoàn chủ lực cũ và mới của liên khu Năm đánh thông thốc lên Bắc Tây Nguyên. Ta dựa rừng núi thì địch dựa biển: địch trút hàng vạn quân vào Phú Yên, Bình Định, đâm giáo vào lưng ta buộc phải quay mặt lại. Nhưng các mũi Tây Nguyên vẫn băm nát đồn to bốt nhỏ, trong khi chiến dịch Át-lăng của Pháp - Mỹ sa vào trận đồ bát quái của bộ đội địa phương và du kích.
Sư đoàn chủ lực 325 từ liên khu Bốn ào ào vượt biên giới đánh sang Trung Lào, quét địch đến tận sông Nặm Khoỏng, đánh tiếp xuống phía Nam. Khu Hạ Lào - Đông Bắc Miên hối hả gom quân phối hợp, chủ lực rất cần những chiến sĩ quen đất quen người khi đến một chiến trường hoàn toàn mới lạ. Thắng, thắng to, thắng như trẻ tre, nhưng cũng gặp chỗ tre có nhánh cưỡng lại bất ngờ, cứa tay, tóe máu. Dứt thì băng, rút kinh nghiệm, nậy cho bật khỏi mắt, lại chẻ tre tiếp! Rồi đặc công của liên khu Năm cũng sang thêm với đầu trọc và ba-lô cồm cộm những thủ pháo nhiều cỡ, lẳng lặng nhận đánh cái đồn nào xây bê-tông dày nhất, đặt nhiều đại bác lớn nhất, chong đèn điện sáng nhất. Họ lại ngại đánh những đơn vị đóng dã chiến vội vã, lính nằm lộn xộn trong những hầm hố mạnh ai nấy đào, thắp rải vô tội vạ những đèn dầu xem giờ đổi gác. Bàn kế hoạch với các đơn vị khác, họ chỉ hỏi: “Thích đánh bỏ hay đánh lấy?”. Nếu đánh bỏ, họ diệt đồn xong sẽ biến mất, cấp trên muốn đánh lấy thì cho quân bộ và dân công phối thuộc, đánh xong họ sẽ bắn pháo hiệu cho vào thu chiến lợi phẩm, tất nhiên là vào đằng cổng chính.
Ngon trớn theo chiến dịch được vài tháng, khu bỗng ra lệnh rút đại đội tập trung duy nhất của mình về, cùng tất cả số cán bộ chiến sĩ trước đây thuộc hai đại đội mạnh đã phân tán sau khi lên Lào, số này chỉ còn hơn một trăm sau nhiều năm đánh giặc không bổ sung. Tân binh từ liên khu Năm lên được ráp vào khung, tiểu đoàn 75 ra đời. Định ghép phiên hiệu ba đại đội cũ lại để giữ truyền thống, nhưng số ghép quá dài, đành đem cộng lại thành số 75, được trên duyệt. Chín Khiết làm tiểu đoàn trưởng, đề bạt được tiểu đoàn phó và chính trị phó, khuyết chính trị viên. Vì địa bàn hoạt động chính của D.75 là Tây-Nam, Cả Chanh được giao tạm kiêm chính trị viên.
Ban tham mưu khu, vẫn mang cái tên khiêm tốn là Ban nghiên cứu quân sự, thúc D.75 ra trận gấp. Ban chỉ huy tiểu đoàn dằng co xin hai tháng xây dựng, luyện quân. Anh chỉ huy phó khu giục mãi không được, tốc về Tây - Nam xem “chúng nó ỳ ạch đến bao giờ”. Anh sa luôn vào một tổ ong ngày đêm không ngớt việc. Thành lập Đảng bộ các cấp, học quan hệ Lào-Việt và các chính sách, sắp xếp bộ máy cho đến tổ trưởng tổ ba người, tất cả dồn về đêm. Ban ngày lo tập, tập và tập. Là cán bộ từ liên khu mới lên, anh sửng sốt trước kiểu luyện quân đánh đường rừng của Chín Khiết.
Cũng quả lựu đạn ấy, ở rừng không thể ném theo đường cầu vồng, nó trúng cành cây bật lại sẽ giết người ném, phải tập kiểu lẳng ngang giữa các góc cây. Cái xẻng đào hố và cặp vòng ngụy trang, những chữ thọ của lính đồng bằng, không cần bằng kỹ thuật định hướng cho khỏi lạc rừng, dùng dao mở đường, cách tận dụng các ụ mối và gốc cây trong chiến đấu. Kiếm ăn trong rừng cũng phải học kỹ... Anh chỉ huy phó bám theo một đại đội tập chiến thuật. Ta với địch luồn rừng đụng nhau là thường. Lúc ấy địch bắn như điên, còn quân ta dạt ra hai bên đường mòn, tự tìm chỗ núp. Sai ở đó. Địch theo đường mòn đi tới, sa vào hai làn đạn của ta xả từ hai bên, sẽ nằm bẹp bắn trả. Bị cây lá che khuất, quân ta có thể quét đạn vào nhau. Khiết cho tập lại: khi tao ngộ chỉ nép ngay mép đường, nhìn rõ chỉ huy, tùy lệnh tay hay lệnh miệng mà cùng dạt về một bên, lại phải trông thấy nhau để bám đuôi vận động tiến lùi, vòng đánh bọc sườn hay chặn đuôi cánh quân địch...
Trang bị nữa. Liên khu gửi áo quần xi-ta loại tốt lên, bị dầm mưa dãi nắng dọc đường quá lâu hóa bở như giấy ướt, có kiện áo quần rơi trúng gốc cây phạt nhọn bị xuyên suốt từ dưới lên trên như giáo đâm cật lực. Đành có gì mặc nấy, chỉ nhuộm lại. Bỏ đi những cái mũ ngụy rộng vành có khuy bấm một hên tránh vướng nòng súng. Đội thứ này trong rừng rất dễ bắn lầm nhau, phải thay đồng loạt bằng mũ nan bọc vải xám, thường có lớp nhựa lót trong.
Súng đạn vẫn là nỗi thèm khát kinh niên của bộ đội. Nói đủ súng cũng được thôi, mà bảo hỏa lạc rất yếu chẳng phải là ngoa. Non nửa số súng góp nhóp được là súng bảo tàng. Mút-cơ-tông và Anh-đô-si-noa, cả Lơ-ben nữa, đã qua hàng chục lần sửa mà kim hỏa không đủ sức in vết vào hột nổ đạn ĐAM. Trường Nhật hỏng ít hơn nhưng mỗi cây còn bốn năm viên đạn, ước nổ được một nửa. Rồi súng Nga hoàng dài thòng, súng thất cửu và trường Đức đều rỗng bụng, trường Anh đầu bằng hay đầu nhọn đã nhường đạn cho trung liên Bren và tự nguyện chui vào kho mật. Lấy súng địch đánh địch là lẽ đương nhiên, nhưng chỉ có thể lấy được súng đạn kiểu mới của Mỹ và Pháp. Lọc đi lọc lại, được trường Mỹ từng phát của đại chiến Một và Ga-ran nửa tự động của đại chiến Hai, chung loại đạn với trung liên Brao-ning, xếp hạng quí nhất. Tiếp tới trường Mát 36 và trung liên 24 - 29 cùng loại đạn mới của Pháp, địch đang dùng lẫn với đồ Mỹ. Tiểu liên Xten quá xộc xệch nhường đạn chín ly cho số Tuyn mới lấy. Tom-xơn, Các-bin, PM, Max, kiếm đâu xài đấy tùy vận may... Anh chỉ huy phó thấy rõ chiến sĩ ôm cây súng dùi cui gọi là có, loay hoay chắp thêm cho nó một mũi gì đâm được - con dao tông thay lưỡi lê của bộ đội Việt Bắc đã được truyền tới đây - thấy mỗi lúc một thêm động lòng. Anh về khu với nhiều ý định mới.
Tiểu đoàn 75 được phép xây dựng và luyện tập đủ hai tháng. Không hẹn trước, trên khu bỗng gọi cho nhận hơn một trăm súng Mỹ và Pháp, mỗi cây hai cơ số đạn tức 60 viên, cùng nhiều thứ khác lấy của địch. Cấp thêm cho đủ mỗi đại hai súng cối 60 ly, mỗi cây ba chục đạn. Cả tiểu đoàn nở mày nở mặt, chuyển vội những súng đói cho du kích: họ bắn vài phát lại rút vào rừng, tự nhồi lại đạn đánh tiếp, sẵn sàng nhận tất cả các loại súng thải ra.
Trận đầu chỉ cò con, “đánh cho tân binh ngửi thuốc nổ”, diệt một trung đội Koong Pạp đi tuần. Trận nhì tập kích Na Khảm được thưởng hai trâu. Đến trận này mới thực sự đánh to, diệt một đại đội Âu-Phi cưỡi ô-tô, có ít nhất hai thiết giáp mở đầu bịt đuôi. Nếu nó hỏng chỉ vì củi ướt cơm trễ... Chín Khiết nghiến răng chạy lách lên. Cả Chanh chưa hết xấu hổ, đi sau đại đội Một. Ức thật. Sai một ly đi một dặm!
Hàng quân đằng trước chạy chậm dần lại, rồi đi thường. Lệnh mới truyền từ trên xuống: “Dồn cự ly, nghỉ mười phút - Khiết”.
Trời đã ngớt mưa nhưng nền mây xám vẫn dăng thấp và dày đặc, càng đỡ tàu bay. Từng người tìm chỗ ráo ngồi thở, uống nước tre, các vệ sinh viên tiểu đội cầm ca nhôm đi rót thử và khủng bố những cậu ngại pha thuốc tím. Vài chàng háu đói mở miệng túi cơm, ngoạm vào nắm cơm nếp dẻo, vùng này không có gạo tẻ. Khói thuốc lá tỏa trắng mờ, bay mùi khét của thứ thuốc trộn đến một nửa lá rù rì khô hay thứ lá rừng khác.
Chanh len lên đầu, chợt nghe tiếng chặt cây nổi lên chan chát, dồn dập ngay bên đường mòn. Trên một thân cây ghim sẵn mảnh giấy ướt nhoẹt viết bút bi độc một chữ PHẪU, lúc này có thêm tấm vải trắng căng đứng, khâu chữ thập đỏ. Quân y đã cố ý treo sớm cho bộ đội đi qua thấy rõ và nhớ chỗ, khiêng thương về không phải hỏi đường. Lúc này anh em đang chặt cây làm lán phủ lá chuối, làm những sạp mổ cao ngang ngực. Tù đây ra đường 13 còn hai cây số rừng nữa, vừa đủ để tránh bom pháo và quân bọc sườn.
Cô y tá Hoàng Lan từ chỗ rậm chui ra, vác một chồng lớn lá chuối tươi, đi lom khom tránh dây gai xé lá. Nhác thấy Cả Chanh, Lan đặt vội lá và dao xuống một thân cây đổ to bằng thân trâu, chạy đến:
- Sao đó anh? Nhắm chừng tụi em làm việc nhiều hay ít?
- Đợi anh hỏi lại thằng Tây coi.
- Khiếp anh... Chị Thùy có thơ nào mới chưa?
- Cũng đợi, đợi cô có thêm một anh chồng nữa đem thơ lên!
Lan cấu vào vai Chanh, chạy biến. Lên Lào hai năm mà giữ chưa bị sốt rét, tài thật. Lan gầy đi đôi chút nhưng vẫn gọn khỏe, nước da sẫm đi trong mùa nắng đã trở lại trắng hồng sau vài tháng mưa.
Tháng trước Lan đột ngột xin phép tổ chức cho đính hôn với cậu Tám Thống, một đại đội phó từ liên khu mới lên. Chanh gặp riêng Lan, căn vặn kỹ, anh tự thấy phải chăm lo cho cô bé mồ côi đã sống nhiều năm bên nhà Thùy trong cảnh tản cư, tới mức hai nhà như một. Thì ra cô cậu quen nhau đã lâu, thư từ cũng lắm, và Thống rất cả ghen. Cô y tá hạng xinh giữa vòng vây của vô số chàng chưa vợ, ắt được hàng chục anh tán tỉnh cùng một lần. Thống cậy cục xin lên Lào, thú thật với Lan rằng cố đuổi theo người yêu, chứ đánh giặc nơi nào cũng là đánh. Cậu nằng nặc đòi cưới ngay. Lan luống cuống, đang ở địch hậu xa tít mù mà lỡ có thai thì khốn. Đành thỏa hiệp tạm: xin đính hôn công khai để Thống đỡ lo, đỡ ghen, mà Lan cũng đỡ phải trả lời những chục lá thư tỏ tình mỗi tháng. Các chàng kia thở dài ngả sang bóng hồng khác, bắt đầu gọi Lan bằng chị. Chanh cười xòa, thấy cũng phải, tuy ở chốn ba quân chẳng ai dạm vợ theo kiểu cổ lỗ ấy.
Khi biết Tám Thống sắp lên Lào, Lan viết thư bảo cậu phải ghé ngang qua Linh Lâm gặp chị Hai Thùy hỏi tin, lấy thư và quà cho anh Chanh. Cậu đại đội phó si tình đi hỏa tốc vượt lên trước đoàn, ở lại nhà chị Thùy hai ngày, nhận đưa lên cho Chanh chừng ba cân quà tuy đường xa và ba-lô đã rất nặng, chưa kể một thứ vũ khí nào đó bắt buộc phải chuyển đến chiến trường.
Lệnh của Hoàng Lan thiêng thế!
Cán bộ các đại đội đi sau được gọi lên họp, trong khi bộ đội xốc súng đi tiếp. Chín Khiết không truyền lệnh giục. Anh đợi cán bộ tới đủ mới bảo nhóm trinh sát đón quân:
- Các cậu nhắc lại tình hình đi.
Tiểu đội trưởng trinh sát nói gọn và rõ:
- Báo cáo, đến tám rưỡi tụi Âu-Phi vẫn dồn trong đồn Thông Vải, chưa nhúc nhích. Cụm ô-tô với thiết giáp không nổ máy thử, nằm xếp hàng trên sân. Lính cắm lều vải trên sân bay dã chiến chưa thấy nhổ lều. Chỗ đài quan sát ngó thấy rõ... A, hồi nãy em quên chưa nói. Chiều qua có chuyện kỳ lắm. Quân Âu-Phi tới đồn hồi bốn giờ, xếp xe, cắm trại, nấu ăn. Chừng năm giờ, tụ dưng tụi nó chạy ùa ra chỗ trống, chĩa súng bắn lên trời ào ào...
- Lên trời? Chắc không?
- Dạ chắc chớ. Băng nào cũng lắp xen đạn lửa. Hồi đó tạnh mưa, trời còn sáng. Đèn dù, pháo hiệu xanh đỏ bắn lung tung. Ngụy Lào trong các lô-cốt ra sân bắn bổng. Cối 60 với 81 bắn đạn đến, đạn khói, đạn nổ, nhắm vô gò hoang thôi... thiệt khó hiểu...
Đợt bắn ấy, cả tiểu đoàn cùng nghe khi sắp ngồi vào các mâm thịt trâu, ở chỗ bàn đạp. Tiếng súng nhỏ chìm trong tiếng mưa và suối, nhưng đạn cối vẳng đến khá rõ. Lệ thường vẫn thế: chúng bủa lưới phòng hờ chung quanh đồn để quân mới đến có thì giờ thu xếp ăn ngủ và phòng ngự ban đêm. Càng chắc là sáng mai có địch mà đánh, tránh được cái nạn nằm suông về không.
Chín Khiết đứng lặng, gãi cằm. Khuôn mặt mai mái xám xanh của anh sắt lại, như thêm dài và xương, mí mắt trũng thành bọc hơi giật giật. Anh hỏi bâng quơ:
- Đoán ra chuyện gì chưa?
Thêm nửa phút im lặng. Anh “hừ” một tiếng trong mũi:
- Thôi được. Ta làm phương án hai, các cha coi được không. Tôi nhắc lại: cho anh em ra chỗ phục, dọn đường tiến đường lui cho khéo, xong lùi về sau chừng hai trăm thước, cho ăn cơm, nghỉ, đợi. Mỗi đại cho đến chỗ điện thoại đây hai giao liên để sẵn sàng nhận lệnh xuất kích. Ai ý kiến?
Chỉ vài cán bộ hỏi thêm chi tiết. Kế hoạch đã bàn nát nước khi cùng đi xem thực địa, khi lên sa bàn, thông cả rồi. Sở chỉ huy tiểu đoàn đặt cách đường độ ba trăm thước, cạnh một gốc cây rất to có hốc bằng cái hang, thêm mấy tảng đá lớn có thể che mảnh bom pháo. Một đường dây điện thoại chạy từ hốc cây ra phía đường, leo lên đài quan sát. Đài này đặt trong tán một cây cao và rậm, mọc trên gò nên không nhô lên thành mục tiêu dễ chú ý. Trinh sát đã buộc một cái giàn đủ cho ba bốn người ngồi chen trong lá, trên nhìn xuống hay dưới trông lên đều không thấy. Họ thay nhau trực trên ấy trong hai tuần qua để nắm quy luật của bọn tuần đường, gác cầu, giữa đồn Thông Vải, đổi gác bằng thang dây thả xong rút lên ngay. Chín Khiết và Cả Chanh đã lên đấy dùng ống dòm xem khắp một vùng rộng dọc đường 13, con đường cổ họng của nước Lào.
Khiết vào hốc cây, quay máy hỏi tin mới. Đài quan sát vẫn báo địch không có vẻ gì muốn nhúc nhích.
Anh em tiểu đoàn bộ đã căng những tấm tăng nhựa ba thước làm lều trú mưa, không buộc võng, chỉ bẻ lá lót ngồi ăn cơm, cái phạ phe buộc thành tay nải dẹt vẫn thắt trên nịt đạn úp sau lưng. Họ quệt từng mẩu cơm nếp vào chèo pa tầu[2] dẻo màu nâu đen từ trong ống lương khô lấy ra nắp tre. Cả Chanh không giấu được thích thú khi nhìn thấy anh em nằm ngồi dưới tăng nhựa. Tiểu đoàn ra đời trong mùa khô, bộ đội chỉ có tấm choàng che mưa từ nơi phân tán đem về. Tất nhiên liên khu và khu không có ni-lông để phát. Chanh lo xa, cho người đánh voi chở cá khô lên Bô-lô-ven đổi cà-phê hạt và thuốc lá thái sẵn, thổ sản của vùng cao nguyên đất đỏ, về bán tại vùng tranh chấp, mua thật nhiều súc ni-lông đang hạ giá. Ai xin cha mẹ nuôi Lào được, cứ xin. Khi mưa tuôn xuống, mùa mưa dài nửa năm trên đất Lào, cả tiểu đoàn đã có đủ võng và tăng để khỏi nằm đất dưới mưa như một số đơn vị kém lo khác, chỉ lo gom quân mà quên những khó khăn riêng của bộ đội tập trung.
Khiết gọi Chanh đến dưới một lều:
- Ăn quách cho xong, lỡ có binh tình gì mới. Muốn chửi cha thằng Tây mà nó ở xa quá.
Một cậu liên lạc trải hai tàu lá chuối trước mặt họ, đặt lên đấy ống lương khô thịt trâu, một nắm lá chua me và đọt vừng chát hái dọc đường:
- Anh Trượng với anh Giản có ống khác rồi, các ảnh ra coi chỗ phục.
Đang cởi túi cơm nắm của mình ra, chợt Chanh thấy tiểu đội giao liên ăn cơm với pa tàu như mọi hôm. Anh hỏi sang mâm kia:
- Hà tiện dữ ta, thịt trâu để dành à?
Anh em liếc nhau ngượng nghịu. Cậu Xào nổi tiếng bẻm mép đáp thay:
- Dạ, để dành trong bụng là chắc nhứt.
- Sao? Liên hoan bấy nhiêu các cha chưa đã ngán à? ăn hết thiệt à?
- Tụi em nhận phần về làm lương khô, mỗi đứa bảy lượng. Bàn lui tính tới thấy trâu teo heo nở, lương khô chẳng được bao lăm, thôi sẵn cái thùng thiếc ta hâm luôn thùng cháo...
- Ăn no ứ tử, còn thêm cả thùng cháo?
- Khuya tụi em tiêu diệt hai phần ba, sáng nay thêm một mách nữa, xong.
Chanh rướn người trao ống lương khô sang cho họ, càu nhàu như mẹ rầy con để cố nín cười:
- Ăn đi ăn lại, ăn tái ăn hồi, ăn lủng nồi trôi rế... Nhồi vô đầy diều vậy, lỡ thương thực bỏ chiến đấu thì sao?
- Ngay bây giờ, Ban chỉ huy cho một thùng cháo phụ vô cơm cục, tụi em biểu diễn ăn thi lấy giải hen.
- Đó, chia mỗi đứa ít miếng. Đánh xong về, bắn trả tao con nai.
- Dạ được chớ, bắn nai cái để cắt mời anh Cả khúc đuôi!
Mọi người nổi cười ầm, lại nín tắp khi Chín Khiết khoát tay chỉ ra phía đường 13. Lính rừng kì cựu biết rõ “đuôi nai cái, dái dộc già” là hai thứ kích thích dữ dội nhất đối với đàn ông độc thân.
Chín Khiết nói trầm ngâm như đang tiếp câu chuyện dở dang:
- Lệnh mới sửa lệnh cũ là sự thường. Có thể đoàn công-voa lớn đi sau bị kẹt, tụi Âu-Phi dọn đường dừng lại đợi. Mình không đoán được cái kiểu đốt pháo Tết của nó. Hôm qua hăm mốt tháng Bảy, có trúng ngày lễ lộc gì của Tây không hè?
- Không. Ngày quốc khánh của Tây là cát-to giuy-dê, mười bốn tháng Bảy... Ờ, hay là lính nó phản chiến hả ông? Lính phản chiến, bắn chỉ thiên dọa sĩ quan?
- Trinh sát nói lính im xo, chẳng tỏ vẻ gì lộn xộn. Lại thêm nhiều bếp nổi khói. Thường chỉ có xe bếp lưu động nấu đồ nóng, lính đốt viên cồn hâm đồ hộp trong lều không có khói... Nó trổ cơ mưu gì nữa đây?
- Mấy bữa đi dã chiến không nghe đài. Hay là nó gãy xuơng sống ở Điện Biên Phủ, nó chịu hàng mình? Dám lắm chớ!
- Trên dặn “đàm cứ đàm, đánh cứ đánh”, nhớ ghim trong ruột rồi. Thua à? Không dễ bó giáp quy hàng vậy đâu. Bên Triều Tiên, phía ta cả triệu quân Trung -Triều mà chỉ đẩy được nó trở xuống lằn ranh cũ. Bên này Pháp với Mỹ chung lưng đấu cật, quân nó còn trụ khắp Đông Dương, đừng hòng nó chịu hàng!
- Cũng có khi tạm ngừng bắn ít lâu để lo cho thương binh tử sĩ...
- Có lý. Mà phải đợi hạ hồi phân giải!
Mải nói chuyện, hai người không để ý anh em giao liên lúi húi làm gì chỗ đầu lều bên kia. Cậu Xảo bưng đến đặt trước mặt họ hai cái ca nhôm Pháp bốc khói:
- Có đi có lại mới toại lòng nhau. Mời các anh chén cà-phê cho tỉnh táo. Cà-phê Nét, đường tây, viên xăng đặc, lấy của đế quốc sài lang hết thảy đó... A quên, thằng Vĩ xuất kho một gói bích-quy, mau!
- Có ngay!
Đó là những thứ lính giữ xài riêng, ông chỉ huy nào được mến và tin mới cho hưởng phần. Hễ giở lý thuyết xã luận ra thì lính rút vào bí mật tức khắc, đố ai moi ra. Chín Khiết nhấp cà-phê, nhai bích-quy tự nhiên chẳng đợi mời thêm, như bất cứ một đội viên giao liên nào có quyền được chia gia tài. Anh lao đến máy điện thoại khi chuông reo, lại trở về lều với mặt xịu:
- Y nguyên như cũ, mẹ cố tổ nó!
- Hay ta lên chòi quan sát?
- Trượng với Giản dồn cục trên đó nãy giờ. Thôi, mình ngủ gật một lát.
Khiết chui hẳn vào hốc cây, vo lá khô lót ngồi, rút cái lưỡi lê các-bin kiểu dao găm đẽo vội những mẩu gỗ nhọn, dựa lưng ngủ bên máy điện thoại. Trận địa tiểu đoàn lúc này hoàn toàn ắng lặng, chỉ còn nghe tiếng lao rao của gió trên lá và những giọt nước đọng rơi lộp hộp từng đợt như vãi sạn. Cả tiếng máy bay rè rè tuần đường, tiếng xe, tiếng súng lẻ gọi phu hay săn bắn của lính đồn đều tắt sạch. Không khí sôi sục lúc gà rừng chưa kịp gáy đều từ từ nhường chỗ cho trạng thái tẻ nhạt của một trận “phục kích chết”, “đợi địch cầu may”, trong đó người lính ngủ lịm bên đầu mối sợi dây giật mìn, đôi khi cả đại đội địch kéo qua như bầy trâu rừng vẫn không thức giấc, bốn năm ngày căng đầu căng mắt đủ cho anh ta tê liệt thần kinh.
Cả Chanh cũng buồn ngủ nhưng cố giữ cho tỉnh, ca cà-phê đặc không quen uống cũng giúp anh chong mắt. Anh đi rảo qua một lượt các bộ phận phía sau. Trạm phẫu sẵn sàng. Tải thương đủ võng và băng-ca tre, tùy trường hợp mà dùng. Cấp dưỡng các đại đội chuộc cái lỗi ban sáng, nhân lúc trời mưa mây mù đã hầm những nồi xương trâu với măng ngọt lừ gánh cho bộ đội ăn đỡ háo, cùng những thùng nước gạo rang đậm đen. Khác với những trận lớn bên Việt Nam, ở đây vắng những đoàn dân công tiền tuyến để đưa gạo và đạn đến, chuyển thương binh và chiến lợi phẩm đi. Vùng bưng này đất rộng người thưa, đàn ông khỏe hoặc vào du kích, bộ đội, hoặc bị địch bắt lính cả. Dân công, phụ nữ chỉ có ở vùng các dân tộc thiểu số, chứ phụ nữ Lào lùm[3] rất ít biết cõng hay gánh nặng...
- Chăn-thi! Chăn-thi đấy à? Đúng rồi!
Người gọi giật Chanh bằng tiếng Lào chính là anh Pheng, đang đi giữa hai đội viên trinh sát về phía sau, vẫn nước da sẫm và cái đầu tóc cắt ca-rê ấy, vóc người cao gầy và hai khúc chân trổ chàm trên dưới đầu gối ấy, chẳng khác chút nào so với hồi anh dẫn Chanh đi gặp các cơ sở bên kia sông Nặm Khoỏng, cũng trong mùa mưa như thế này.
- Chan Pheng! Sang bên này sông, lạ lắm sao mà phải có người dẫn?
- Không phải dẫn. Mình bị bộ đội bắt!
- Bắt?
Anh tỉnh ủy viên Lào cười rất rộng miệng, nói với hai cậu trinh sát: “cho nghỉ tí nhé”. Cả hai cậu đều chưa thạo tiếng Lào, ngớ ra. Chanh cũng cười, nói tiếng Việt:
- Giao anh này cho mình. Cán bộ của ta đấy, hoạt động bên kia sông.
- Báo cáo, ông ấy đi một mình trong rừng, vấp đường dây điện thoại, theo dây đi mãi, chúng em nghi lắm...
- Theo dây đi tìm ta là phải, các cậu bắt cũng phải, cho một đều!
Anh Pheng đặt cái gùi mây trên lưng xuống đất, rút ra cái thẫu thủy tinh nắp nhựa, mở nắp, dí tận mũi Chanh bắt ngửi một thứ mắm gì đó thơm nồng, làm bằng những hạt nhỏ màu hồng:
- Vợ mình muối được vò trứng cá pa bức ngon tuyệt, bắt mình phải đem cho bạn Chăn-thi một bình, đưa tay chứ không được gửi... Mình qua sông gấp vì thằng trưởng đồn Thôông Vải gửi thư cho It-xa-la xin nộp đồn về hàng ta, vợ nó ở làng Don Khảm quen con cháu mình. Nó xin hàng mà mình cứ đánh, tội nó lắm, mình cũng tốn máu thêm. Cơ sở mật chèo xuồng đưa mình qua khi mờ sáng, mình bắt về ngay kẻo lộ, đợi sáng mình mới băng rừng, trúng chỗ anh em phục, mình nói bạn của Chăn-thi lãnh đạo mặt trận Tây -Nam, chẳng ai biết Chăn-thi cả, mình nói cứ giải về sau chắc gặp... Hay lắm, khỏi phải tìm lâu!
Chanh bị cuốn theo tiếng cười của đồng chí Lào vui tính. Hỏi nhau vài câu nữa, anh dẫn anh Pheng đến sở chỉ huy. Trượng và Giản đã về đấy, mặt đăm chiêu. Khiết nói độp luôn:
- Bọn Âu-Phi lên xe nổ máy. Mình đưa lệnh bộ đội ra vị trí phục kích. Quái quỉ thiệt, tụi nó quay xe trở xuống phía nam, hướng Mường Khổổng! Chẳng ai hiểu gì nữa!
- Anh Pheng đây, tỉnh ủy viên Lào, mới cho biết thằng đồn trưởng Thôông Vải gởi thơ xin nộp đồn theo ta. Hay là vì chuyện đó?
Khiết lơ đãng chào Pheng, bóp trán nghĩ, lắc đầu:
- Muốn hàng ta, càng phải kín tiếng cho tụi cơ động không nghi. Hễ lộ, quân Âu-Phi đủ sức bắt giam trưởng đồn, tước súng lính ngụy liền, lèo tèo hai trung chớ mấy. Đây đồn yên tĩnh, cả lũ bắn chơi như pháo Tết, nấu ăn thêm lu bù, bây giờ trở đầu xe chạy ngược là sao?
Ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định đợi thêm hai tiếng nữa phòng địch làm động tác giả lừa ta, sau đó sẽ rút quân về bàn đạp.
Lệnh chưa kịp truyền bỗng một tốp lố nhố đi xộc tới, hối hả gọi anh Chanh anh Khiết. Dẫn đầu là đồng chí thường vụ liên chi ủy, được giao trực tại cơ quan. Mấy cán bộ mặt trận nữa, mồ hôi ướt áo bên dưới tấm choàng che mưa, thở hồng hộc. Chanh đón thư, xé bì, đọc lướt qua tờ chỉ thị từ khu ủy gửi xuống đóng dấu hỏa tốc, chợt thấy chóng mặt và hoa mắt. Tờ giây sang tay Khiết. Anh chỉ xem mà không đọc thành tiếng, lại trao cho hai đồng chí cấp phó, sau đó ngồi dựa ngửa, nhắm mắt.
Đó là lệnh ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, theo hiệp định Giơ-ne-vơ mới được ký kết. Văn bản chính thức sẽ gửi sau. Tờ giấy ngấm ẩm mồ hôi được chuyền tay gượng nhẹ, cố giữ cho khỏi rách. Nó rất dễ rách.
Trung đội bộc phá giá thiết của Sáu Cam, cõng nặng bánh khảo và khiêng cầu vác thang lích kích, dừng nghỉ trong khu rừng thưa bên đường mòn. Cam đi gặp trung đoàn trưởng ngay theo lệnh đã báo dọc đường. Các bộc phá viên đang quạt, thở, uống nước, quấn thuốc sâu kèn, chợt nhận ra một đoàn dân công nữ đến trước đang ăn cơm nắm bên chỗ họ. Đoàn này khiêng toàn thứ thùng gì lạ mắt, hẹp mà rất dài, sơn màu nâu, buộc vào đòn tre vừa hai người kê vai. Lính ta xì xầm:
- Chắc võ khí mới ra lò bay ơi, cối lớn, hay là DK cỡ cây chuối?
- Ông Liên Xô có thứ hỏa tiễn to lắm, mình thấy trong phim “Công phá Bá-linh”, dám trúng thứ này...
- Dốt hết. Súng đạn bự chác vậy, hai cô một đòn tre mà khiêng nổi, tao đi đầu xuống đất!
Lính cũ giữ ý không xáp vào chỗ nhiều cô trẻ. Lính tuổi hai mươi quen nếp học sinh và đoàn viên trai gái trêu trọc nhau, cứ xung phong tiếp cận. Thì ra các cô khiêng năm sáu chục cái quan tài rỗng để chôn tử sĩ. Chỉ mấy phút sau, các cậu măng tơ đã nhảy vào nằm ngồi thử trong các hòm đùa toang toang:
- Cái của tao hơi bó vai. Đứa nào nằm rộng tao đổi!
- Thằng Liễn ngu, ham nước sơn, lụa trúng cái bị nứt. Chôn hòm nứt xui lắm đó nghen.
Mải đùa với nhau, anh em không để ý các cô rớm nước mắt, quay đi lau lén. Đến khi mấy cô ngồi thụp xuống, úp mặt vào tay khóc hu hu to tiếng, chị chỉ huy dân công phải bước tới, nói to:
- Đề nghị các đồng chí đừng giỡn nữa, ảnh hưởng tới chị em. Yêu cầu trở về chỗ nghỉ!
Một cậu đã bước ra khỏi quan tài, còn tiếc rẻ vỗ vào sườn nó một loạt thình thình như đánh trống ếch, lên tiếng cãi:
- Người chết không sợ, người chôn mất tinh thần là sao? Nói như chị là hạ thấp phụ nữ!
- Hạ thấp hay không để đó bàn sau. Mời các đồng chí trở về vị trí!
Chị chỉ huy dân công đeo cây súng kị binh Nhật chéo lưng, có đôi mắt sắc trên gò má nhọn và nhiều mụn cá, quần đen xắn trên gối. Đám lính trẻ rút lui, còn thì thào: “Tướng này coi bộ bà La Sát lắm, đừng chọc tức mà dại!”.
- Ủa, chị Năm!
- Ôi trời, thiệt em hả Cam? Thiệt mi hả?
Đứng trước Năm Bưởi là một anh bộ đội cao hơn chị hẳn cả cái cổ lẫn đầu, vai rộng, râu quai nón rậm rì như cố đạo, nhác trông hơi dễ sợ. Năm Bưởi chụp hai vai em, cố ghìm tiếng nấc dồn trong họng.
- Lính em làm gì mà chị phải chỉnh?
- Không, không gì hết, giỡn chơi chút thôi.. Anh Chò đâu em?
- Ảnh đi lên trước coi thực địa, ít bữa nữa quay lui. Tụi nó cố giữ Plây-cu, mình cố lấy. Địa hình gần Plây-cu hơi khó đánh, núi không, rừng mỏng... Chị đưa dân công tới bữa nào về?
- Hết đợt hôm kia. Chị kêu gọi xung phong đợt nữa, chừng một phần mười xin về, số lớn đi tiếp. Chiến thắng lù lù ra đó, chị em ham lắm, đi qua thị xã Công Tum cứ trầm trồ miết.
Hai chị em kể chuyện hối hả chừng mươi phút nữa, rồi bộ đội và dân công lại rời nhau, đi tiếp. Con đường mòn rắn lượn xuyên rừng chạy sóng đôi với quốc lộ 14 nhưng cố tìm chỗ khuất máy bay. Sau những dốc dựng cheo leo từ đồng bằng lên, các đường mòn Tây Nguyên càng duỗi về nam càng ít dốc, ít đá nhọn, đất mịn lài lài dễ đi, phải cái nạn khó che mắt máy bay địch khi qua những rừng non hay đồi lau trống trải.
Mấy cậu trẻ đùa dai ban nãy chột dạ khi thấy trung đội trưởng Cam bước lầm lì giữa hàng, không bỡn cợt hồ hởi như mọi hôm. Chị chỉ huy dân công vồ vập anh, nói rất lâu với anh, chắc không khỏi kể tội phá quấy của lính bộc phá. Các cậu đâm dè dặt, chỉ thì thào với nhau và ra hiệu bằng tay hay mắt.
Sáu Cam đang nghĩ về làng Linh Lâm, cái thung lũng dài dưới chân núi rất độc đáo không giống bất cứ một làng nào Cam đã đi qua trong bấy nhiêu năm lang bạt kỳ hồ, nơi gửi lại vô vàn vui buồn của tuổi nhỏ.
Ghép những thư gần đây với tin mới nhất của chị Năm Bưởi, Cam thấy rõ một ấn tuợng chung nhất: sự chao đảo, chập chờn, ngả nghiêng của những người có tránh nhiệm. Ở đơn vị chiến đấu không ít rối ren, nhưng phải gỡ rối thật nhanh, thật dứt khoát tận bờ sát góc, không được cù cưa bạc nhạc. Nơi hậu phương khác nhiều. Người tốt không thiếu, tại sao những ông quan cách mạng như Ba Mậu chỉ nhấc đít từ ghế này sang ghế khác, những đứa sọc dưa ba rọi như Ba Mít vẫn bám mãi vào chính quyền ta như đỉa bám cổ trâu?
Cha con phủ Đỉnh trốn về tề, đội phát động như bị tháo mất ngòi nổ. Ban đầu họ định làm cuộc cách mạng ruộng đất thật kinh thiên động địa, đẩy khí thế nông dân lên bằng những đợt đấu tranh lớn, riêng Linh Lâm sẽ làm phủ Đỉnh trước, Mười Áng và Tư Chua tiếp theo và nhẹ hơn. Bây giờ bị hẫng. Đưa Mười Áng ra, dân sẽ tố khổ bằng chuyện thời Pháp thuộc nhiều hơn, chĩa mũi nhọn vào kẻ khác chứ ít oán thù ông lý trưởng nổi tiếng bình dân, còn lớp trẻ lớn lên sau Tổng khởi nghĩa sẽ ngáp, ngủ gật, chuồn khéo. Đấu Tư Chua càng khó nữa, có làm hương kiểm nhưng chưa kịp phạm tội, ngày nhận việc làng cũng là ngày được Cả Chanh giao công tác. Dù Ba Mít đã kể những vụ nóng nảy, ngang bướng, “vạch trần âm mưu bóc lột sức lao động” của Tư Chua, đội phát động vẫn ngờ ngợ: đem sắt tới lò rèn và ngồi thổi bễ cho thợ làm đồ của mình, trả công rèn bằng công cấy gặt với giá phải chăng, khó ghép vào bóc lột lắm.
Lời tố cáo ông Tư Chua được đội ghi nhận, chưa kết luận, gửi lên đoàn phát động giảm tô của huyện. Ba Mít ở vai trò thư ký, lén xóa đi năm bảy chỗ và biến thành báo cáo chính thức, trình lên đoàn ủy. Lãnh đạo đoàn duyệt hồ sơ cường hào gian ác nhưng không cho đấu vì không phải địa chủ, không bóc lột tô tức.
Tiếp đó, nhiều chỉ thị thông báo từ trên xuống, uốn nắm những gì nóng vội, quá “tả”, cơ hội, mượn phát động để trà thù riêng hay giành chức, hôi của. Đội phát động xã Linh Giang tê liệt dần, teo dần, biến thành một cơ quan trọng tài hỏa giải những vụ tô tức vụn vặt. Làm xong việc tạm cấp ruộng đất vắng chủ cho các hộ tá điền xóm Ấp và một số bần cố nông các xóm khác, tạm chia vườn chè, trâu bò, nông cụ của phủ Đỉnh bỏ lại, đội họp mít-tinh tổng kết và ra đi thở phào nhẹ nhõm, mỗi người mang ba-lô trở về ngồi ghế cũ, sống giữa vợ con. Các nhà cách mạng tài tử ấy bỏ lại sau lưng một mó bòng bong. Cái ủy ban năm người xếp theo cố, bần, trung nông dưới ngơ ngác nhìn nhau và chớ tới một hội nghị nào gần nhất để xin giao trả quyền hành. Đảng ủy và ủy ban cũ được lệnh tạm ngừng hoạt động, nhưng không có lệnh mới cho hoạt động lại, cũng ngơ ngác nhìn nhau. Những xấp hồ sơ nộp lại cho đoàn nằm trong từ “tối mật”, trong đó ông Tư Chua vẫn là cường hào gian ác, chẳng ai có thì giờ đọc, nói chi đến nghiên cứu điều tra!
Một cậu liên lạc đợi sẵn bên đường, trao cho Cam mảnh giấy của tham mưu trưởng trung đoàn: “Tối nay đồng chí với hai trung đội phó lên Ban tham mưu họp, bàn cách đánh mới. Nhớ mang các thứ chứng minh”. Cam tách sang bên, đợi đi chen sau lưng cậu trung đội phó nắm tiểu đội CK.1 mới nhập vào trung đội bộc phá giá thiết. Hai người đã cùng đưa lên tiểu đoàn và trung đoàn một đề nghị: phối hợp giữa cánh đánh liên tục bộc phá và CK.1, mở tung cửa qua nhiều lớp rào cùng một lần, tiếp đó các tổ thang cầu nối nhau lên trong khi gạch đá chưa rơi hết, địch choáng váng chưa kịp dồn hỏa lực chặn cửa đột phá.
Tiền trạm đón quân dẫn sâu vào rừng già, nơi tập kết của trung đoàn để tối mai đánh đồn. Nhìn anh em hối hả làm lán lá chuối, trải tơi lá trên mặt đất lấy chỗ nằm, Cam nhớ tới mấy câu trong thư anh Cả Chanh khoe rằng D. 75 của anh đã sắm đủ tấm choàng đi mưa, tăng nhựa ba thước, võng bằng các loại vải đủ cho không ai phải nằm đất. Ai bảo địch hậu nghèo khổ? Lính chủ lực liên khu trong mùa mưa chỉ có tơi lá nón lá, khi trải khi choàng. Đánh đồn còn đỡ, khi bôn tập hay truy kích thì vất trụi cả, sau đó ai mà lo nổi tơi nón cho mấy ngàn lính ướt?
Trong cuộc họp tối hôm ấy, Ban chỉ huy và Ban tham mưu trung đoàn cho phép trung đội của Cam đánh thử theo lối mới. Phương tiện chưa sắm đủ, tối mai vẫn phải đánh kiểu cũ thôi. Khi nhóm của Cam rập chân chào ra về, trung đoàn trưởng xua tay:
- Đợi chút, mang cái này về luôn. Quà cho lính các cậu đó.
Hai cái bao tòi sọc xanh khá to được nhấc đặt lên mặt bàn ghép bằng nứa. To nhưng không nặng lắm, vác được. Theo ánh đèn bão lúc lắc, ba anh em về đến trung đội, mở ra xem. Bốn chục gói quà hậu phương quen thuộc với khăn tay, thuốc hút, kẹo, thư thăm hỏi. Kèm theo còn thêm bốn tút thuốc lá Bax-tô, bốn hộp chanh bột, bốn hộp Nex-ca-phê, bốn túi đường trắng, hẳn là đồ lấy của địch. Một gói nhỏ rơi ra, Cam mở xem: hộp dao bào cùng một chục lưỡi Gi-lét, kèm mấy chữ của chính ủy trung đoàn “Tặng riêng ông cố đạo”. Bộ đội xúm vào xem, cười ồ: râu xồm cố đạo chỉ có ông Sáu Cam thôi.
- Anh Sáu xin cách sao mà trên cho nhiều vậy?
- Không xin, mà kể khổ đôi chút...
Trưa nay lên hội báo, chính ủy nhắc Cam đừng để râu như Tây, anh em dễ bắn lầm. Cam gãi râu, thú thật:
- Em mới hăm hai mà sao râu nó đâm ra ghê quá. Nhổ đau lắm, dao cạo không kiếm được...
- Đánh bấy nhiêu trận mà không kiếm ra con dao?
- Lính bộc phá vậy đó anh. Phơi thân đánh toác cả chục lớp phòng ngự, lót đường cho xung kích vô đồn, khi đánh trận nội thì tụi em lo thu dọn bên ngoài, số chết không kể, số bị hơi nổ hộc máu nằm ngất phải khiêng về nhiều lắm, có cậu bị lột trần truồng từ đầu tới chân. Lại còn khiêng thang cầu, gánh bánh khảo thừa... Chưa bao giờ tụi em lọt vô chỗ có chiến lợi phẩm đâu anh. Xin thêm ít bộ xi-ta còn khó, đừng hòng xin các thứ của Tây!
Anh chính ủy nhìn Cam từ đầu đến chân. Mắt anh lướt qua những mảnh vá vụng ở vai, cùi tay, đầu gối, dừng lại ở hai bàn chân xéo lấm:
- Dép đâu?
- Bánh khảo thổi bay mất, cách nửa tháng.
- Hậu cần không phát bù?
- Họ nói không có. Tiêu chuẩn hai năm một đôi, muốn cấp đặc biệt phải có lệnh trung đoàn.
- Sao cậu không xin trung đoàn?
- Các anh bận rối mù, dễ gì được gặp.
Chính ủy đắn đo một lát, thấp giọng hỏi tiếp:
- Chiến sĩ của cậu thắc mắc nhiều không?
- Nhiều anh ạ. Rồi cũng tự giải quyết với nhau, giải không nổi thì gói để dàn bếp. Lý lẽ chính là vầy: trên đâu có ép mình vô bộc phá hay CK.1, mình phải viết đơn xin hẳn hoi. Chịu không nổi thì xin rút, trở về đơn vị cũ, êm ru bà rù. Chưa có ai chạy làng đâu anh.
- Tiểu đoàn không can thiệp à? Năm Chò là anh rể cậu, gặp dễ lắm chớ?
- Anh Năm kêu giùm miết rồi cũng bó tay. Lâu lâu ảnh lại dỗ các cậu ở tiểu đoàn bộ ít bị hư hại san sẻ bớt các thứ cho trung đội em, coi như lá lành đùm lá rách...
Chính ủy không hỏi gì thêm, chỉ bóp mạnh tay Cam hơn mức thường.
Cán bộ đã lên sa bàn và xem thực địa từ trước. Đêm ấy Cam được ngủ đẫy giấc. Hôm sau trung đội mở “xưởng đồ tre”, dưới máy bay địch đánh khi xa khi gần, chặn đường ta tiến xuống Plây-cu. Pháo lớn từ Plây-cu cũng nã tới từng đợt dập dồn hàng trăm quả theo máy bay chỉ điểm, một cặp Đa-cô-ta quần treo đèn rất chậm theo đường bay hình số 8, số 6.
Năm Chò từ phía trước về, hối hả báo riêng cho Cam biết cái đồn Đác Mên sắp đánh đã tăng thêm một trung đội lính Re từ huyện Sơn Hà rút lên, gài thêm vô số mìn nhảy kiểu mới của Mỹ. Cam giục anh tìm gặp chị Năm Bưởi gấp, sau trận sẽ đi khác hướng nhau.
Mìn nhảy... chà, phiền đây. Lính bộc phá gờm thú này hơn các loại mìn khác. Bộc phá ống hay ruột tượng quét được các loại mìn cũ, lắm khi chỉ kích thích mìn nhảy đủ cho nó tống quả đạn lên ngang đầu, nổ tóe mảnh trong vòng bán kính mươi mét. Cả một tổ bộc phá ống của Cam hi sinh như vậy, khi đánh trúng bãi mìn nhảy: ống hai thước mở được cửa qua rào cũi heo, nhưng hai bên cửa phùn phụt vọt lên hàng chục trái đạn xì lửa và bùn chớp trắng, mảnh xăm nát đất.
Lần này địch gài rải rác hay dồn thành bãi? Cam đưa một trung đội phó và một tổ lên thẳng Trung đoàn xin ra đài quan sát để cố trả lời câu hỏi ấy, vì không thể hoãn trận đánh để dành một đêm bò vào sờ tận tay. Tham mưu cho anh em đi, buộc Cam ở lại vì là cấp trưởng. Hai giờ chiều, Cam được lời giải trong khi uống chè đặc Linh Lâm với anh Năm Chò tại tiểu đoàn bộ: chúng không dám gài gần lô cốt và tường bao, dồn tất cả mìn nhảy vào khoảng giữa hàng rào cũi heo và ruột gà bùng nhùng. Trung đội xúm vào bàn rất gấp, tìm ra cách đánh: bãi mìn và hai lớp rào ấy sẽ được quét bằng hai ống chất nổ tăng liều, tăng độ dài, lắp kíp điện. Đặt các ống thật nhẹ tay, dòng dây điện dài ngoài tầm văng mảnh, bấm cho nổ từ xa. Chọn người đánh, thử lại dây và pin, nối các ống, cho nổ thử một kíp điện trong hang đá, cập rập mãi đến gần cơm tối mới xong.
Tiếp đó là những chặng đường quá quen thuộc trong đời lính chủ lực chuyên lấy đêm làm ngày, với lắm thứ khiêng vác lỉnh kỉnh đi mò trong rừng đen kịt, cố giảm bước trượt bước lăn bằng cây gậy và mảnh vỏ lân tinh gài vào mũ người đi trước, bằng những câu báo vũng lầy hay cây đổ phải vượt nhanh kẻo đứt cự ly. Vào chỗ nằm chờ đánh, người lính mệt nhoài chực thiu thiu lập tức được bấm vào tay, khi cán bộ các cấp đi sửa lại đội hình, soát lại vũ khí, nhắc điểm nào phải thuộc lòng.
Giờ G nửa đêm. Giờ nổ súng là G cộng 45.
Ba mũi cùng nổ bộc phá trước sau mươi giây, bảnh rồi. Cam đánh mũi chủ công, cho các tổ nối nhau lên tới tấp. Quãng đáng ngại nhất là bãi mìn nhảy giữa hai lớp rào được quét khá gọn. Cam còn cẩn thận cho đánh thêm một ống nữa vào sâu hơn trước khi bắc cầu qua hào chông. Con nhện sắt bị chọc vào bụng mà chỉ hai chiến sĩ trúng thương nhẹ, ngon xơi quá sá!
Chính ủy trung đoàn rời đồn lúc ba giờ rưỡi, trở về nơi tập kết cùng mấy anh phái viên. Pháo từ các đồn bắn tới cứu Đác Mên còn nổ đều đều nhưng hú họa, chặn đường xuống phía nam là chính. Chỉ riêng hai khẩu nòng dài rướn tầm xa hơn, rải đạn xuống mạn bắc Đác Mên, đánh những nơi chúng nghi là bàn đạp của ta. Có lúc hai khẩu ấy chuyển làn, đạn hú rít qua đầu đơn vị thu dọn chiến trường.
Dân công và bộ đội đều nổi đuốc. Đường về hiện thành con trăn lửa khổng lồ bò chỗ hở chỗ kín. Ngậm tăm và nín hơi mãi, lúc này tha hồ cười đùa chọc ghẹo nhau. Nhiều chỗ qua rừng lau trống, khi tiến quân phải len lỏi và ngụy trang vết mòn, giờ được đạp rộng loang ra năm bảy thước như đường ô-tô đỏ loét, chỉ để cho thỏa lúc lựa chỗ đặt chân.
Hai người hối hả đi ngược chiều, soi đuốc xem mặt bộ đội, dừng trước mặt chính ủy và trao một mảnh giấy. Anh đọc lướt nó dưới luồng sáng thu nhỏ của đèn pin, bật một tiếng “à”, giục mọi người đi nhanh. Vượt qua những tốp dân công gánh nặng, những nhóm bộ đội vác mỗi người một bó súng lặc lè, họ đến một đơn vị khiêng thang cầu khá cồng kềnh. Chính ủy nhận ra ngay trung đội Sáu Cam. Ra về sớm, sao bây giờ lính bộc phá mới tới đây?
Chính ủy lách vội lên trước, gặp hai khiêng thương bằng võng buộc đòn tre, chăn phủ qua đòn. Nhận ra cậu trung đội phó đi giữa hai cáng, anh hỏi độp:
- Ai đó?
Trung đội phó giật mình ngửng đầu, giơ cao đuốc, đáp hấp tấp:
- Báo cáo chính ủy, chúng tôi là trung đội...
- Biết rồi. Mình hỏi khiêng ai đó?
- Dạ, anh Cam với Tư Lượng, tiểu đội phó.
- Lạ chưa, mình mới gặp Sáu Cam hồi nãy, ngoài đồn, khoẻ đánh như ăn gỏi...
- Đi khỏi đồn hơn cây số, trúng một trái pháo tầm xa. Lượng tắt thở rồi, anh Cam chưa. Tụi em dừng lại băng tạm cho đỡ ra máu.
Cậu trung đội phó đeo một ba-lô trên lưng, một ba-lô úp trên ngực, vác hai tiểu liên. Cả bốn thứ đều nặng tới mức nói hụt hơi, hay giọng nặng nề ấy tả nỗi đau dồn nén? Vẫn đi chen, chính ủy hỏi khẽ:
- Nhắm chừng qua được không?
- Khó lắm anh. Mảnh găm cùng mình...
Chính ủy tần ngần nín lặng. Rồi anh bấm đèn pin, bước nhanh qua những người khiêng đang thở hồng hộc, làu bàu một mình bằng giọng Quảng Ngãi:
- Vô duyên quá thể! Vô duyên cảy, trăm lẻ bảy cái vô duyên!
Trong túi anh là lệnh đình chiến khắp Đông Dương.
Sáu Cam đã ngã xuống trong trận đánh cuối cùng ở Tây Nguyên, cũng có thể là trận cuối cùng của chín năm chống Pháp.
Chú thích:
[1] Kính gửi Ủy ban Kháng chiến tỉnh Châm-pa-xắc
[2] Thức chấm làm bằng cá ống. Pa tầu: cá nhỏ hấp, nén vào ống tre to để dự trữ. Khi dùng đem nướng và quết dẻo với muối, ớt, sả.v.v...
[3] Người Lào ở thấp, tức dân tộc đa số Lào.