Chương XVII
Đồng chí liên lạc của Ban địch vận tỉnh sờ nắn cái cổng gỗ lớn, mừng rỡ:
- May họ chưa khóa. Vườn rộng, nhiều khi kêu cửa lâu lắc anh à. Anh vô thẳng phía sau, chỗ cửa hé có đèn sáng hung đó.
- Cậu vào luôn chứ?
- Dạ không được. Cấm. Chỗ anh Hai nhiều tài liệu mật, của Tây với Mỹ không hà.
Thạch Sơn xốc ba-lô, đi hết khúc đường rải đá băng vườn nhà Bảy Suyền, qua nhà trên, bước vào căn buồng được chỉ. Anh chớp và nheo mắt vì măng-sông sáng chói, trong khi nghe tiếng Hai Khánh và Bảy Suyền kêu ồn, chào, giục bỏ ba-lô ngồi nghỉ, uống nước. Anh bật ho khi hít khói thuốc lá dày đặc, thứ khói thơm đặc biệt ít bay mùi trong các hội nghị.
Khánh, Suyền và một người đàn bà trẻ ngồi quanh bàn đứng dậy xoắn xuýt đón Sơn. Anh đặt ba-lô, cởi túi đết, úp mũ nan lên trên, chào lại và nhìn quanh. Trên bàn đặt một chai và mấy li nhỏ, một chùm nem chua và chả lụa to, một gói thuốc lá, dưới đất vất đầy lá chuối lột ra. Khánh chừng đã ngà ngà, rót rượu mời Sơn.
- Rượu ngon không có bạn hiên... trời rét, làm một li ấm bụng đã Sơn.
Suyền đỡ lời ngay:
- Đúng anh Sơn có cái lộc ẩm thực. Chị Lệ Châu, là chị họ em, mới ở An Tân lên thăm, đem cho mấy thứ ngon lâu ngày không đụng, mời anh Hai liên hoan phá giới một trận thử coi. Cha, lạnh vầy mà anh Sơn đeo trấn thủ trên ba-lô chớ không mặc, đúng người Bắc giỏi chịu lạnh.
Son đón li rượu a-nít, điếu thuốc Cô-táp, que tăm xóc nem chua, lóng ngóng chưa biết đối đáp ra sao. Suyền đóng ngay nút chai, xốc bốn góc tấm vải dầu trải bàn, tụm gọn mọi thứ và nói rất tự nhiên:
- Khai vị bấy nhiêu thôi, ép nữa anh Hai lại la rày cho coi. Chị hốt lá rồi bưng cơm lên mời các ảnh đi.
- Đủ cơm mời khách không, Bảy?
- Tụi em ăn sau cũng được, khỏi lo.
Mâm cơm bưng lên rõ là cố ý giả nghèo. Trên cái mâm gỗ nứt nẻ, chỉ có cái âu sành đụng cơm, đĩa rau muống luộc, bát nước rau, một khúc cá chuồn muối mặn chát. Đã thế Bảy Suyền còn lèo thêm:
- Trên chưa phát khoai sắn khô, cú ăn cơm trắng về sau ta bù.
Hai Khánh cười thầm, khen Suyền đóng kịch giỏi. Anh cố lắm mới nuốt được chén rưỡi, còn Sơn cứ quét sạch mâm.
Đợi khi chỉ còn hai người ngồi uống chè nhấm nháp, thứ chè gián rất, đậm nước của Quảng Nam, Thạch Sơn mới cà rà hỏi thăm chuyện Khánh. Khánh đáp dè dặt, anh không ưa kiểu núp trong tối dòm ngoài sáng của Sơn, cũng không bằng lòng vì Sơn xồng xộc vào nơi anh ở.
Sơn hỏi như chọt nhớ ra:
- Khánh này, cậu có quen phụ nữ nào tên là Duyên không?
- Duyên... Hàng trăm cô lấy tên Duyên, cả những cô thái thậm là vô duyên!
- Cô này là Trần Thị Mỹ Duyên, Xi-mo-nét Mỹ Duyên, hồi ở Đà Nẵng gặp cậu nhiều. Nhớ ra chưa?
Một làn hơi âm ấm tỏa nhanh trong ngực Khánh, bỗng chốc nóng dội lên đến khó thở. Sơn hiểu được gì về Duyên? Bình tĩnh, chớ vội...
- Mỹ Duyên thì biết quá đi chứ. Bà ấy là vợ ba của ông bố dượng mình, ông tú Đỉnh ở Tây Quảng đó. Mình là con bà hai, gọi bà Duyên là dì Ba.
- Sao bà ấy có vẻ...à... thân thiết với cậu rất ghê... gọi anh, xưng em của anh...
- Cậu gặp bà ta bao giờ?
- Ấy là trong thư, chứ bà ta ở vùng địch...
Làn hơi nóng ban nãy dồn cả lại, bốc ngùn ngụt lên đầu Khánh. Anh bật dậy đi qua lại, gằn giọng:
- Ra thế đấy. Bà dì Ba gửi thư cho mình, cậu chặn bóc xem, mừng hí hửng: tuyệt, ta nắm được bí mật thằng Khánh rồi, nó trai gái với dì nó, thế là loạn luân, trị được rồi. Bây giờ cậu lấy cung mình. Cậu là công an mật hay thứ gì chẳng biết, lâu nay giấu không nói, mặc kệ cậu. Mình chỉ nhắc rằng chúng ta đều học luật ít nhiều, muốn trị mình thì phải đưa ra tòa, mình có quyền cãi. Giả thử mình nói bà Duyên chán ông chồng già, muốn ve vãn mình, mình cóc thèm của thừa, thì cậu truy mình vào đâu?
- Khánh, Khánh, sao cậu nặng lời thế?
- Hồi bé, có lần mình nấp trong nhà thờ xem con chiên xưng tội với cha đạo. Ông cha ngồi chỗ kín như buồng đẻ, lên giọng âm u hỏi con đã phạm tội gì trước Đức Chúa trời. Con chiên quì bên ngoài, đấm ngực khóc lóc. Cậu thích vai cha cố lắm hở?
Thạch Sơn dường như thấy mình quá vụng về. Anh hối hả rút trong túi dết ra cái bì thư giấy tốt có in hình máy bay nhiều màu, đặt lên bàn:
- Đây, thư đây… Cậu nóng khiếp đấy Khánh...
Khánh đến cầm bì thư, lật qua lại, thấy rõ nél chữ Mỹ Duyên cùng dấu bóc ra dán lại, nói xẵng:
- Cậu đem thư đến nhằm mục đích gì, cho ra quách đi.
- Thì chúng mình biết nhau bấy nhiêu năm, ghé thăm nhau...
- Nếu chỉ có tình cũ thì mình cảm ơn cậu. Ta đi nghỉ, sáng mai mình sang Trại sớm, bên ấy lắm việc.
- Mình muốn nhờ cậu giúp bắt liên lạc với Mỹ Duyên, thế!
- Xin thưa thật: nếu đồng chí Thạch Sơn muốn nắm thêm chứng cớ viết tay của tôi về vụ vi phạm đạo đức, thì tôi đủ khôn để từ chối.
- Trời đất, sao cậu nhìn đâu cũng thấy thủ đoạn thế hở Khánh?
Khánh bước ra cửa buồng, gọi Bảy Suyền thật to:
- Kìa ông chủ nhà, bỏ khách cho tôi tiếp một mình à?
- Dạ, để mời anh Sơn đi rửa ráy đã, chỗ nằm có rồi. Ăn hết nhiều, ở hết bao nhiêu.
Đợi Sơn buồn rầu theo Suyền ra ang nước. Khánh mới cài then buồng, bóc xem thư Duyên. Bảy năm rồi. Bảy năm. Bảy năm... Con số ấy gõ nhịp trong lòng Khánh như tiếng đập của toa xe lửa, của lò rèn, của trái tim nào rất to và chậm.
Một nàng Kiều cũng không thể long đong hơn...
Pháp nổ súng chiếm Sài Gòn, anh ruột đi về theo Đệ nhứt sư đoàn. Mỹ Duyên vào cứu thương. Vô mặt trận, dạt về Mỹ Tho, rời Cần Thơ, sắp chạy vô Đồng Tháp, địch vây bắt trọn gói cả y sĩ, y tá, cứu thương.
Nhờ biết cách tự làm cho xấu và vàng da như đau gan, Duyên không bị hiếp, ít lâu sau Tây dùng làm thông ngôn để hỏi cung người bị bắt tới số trăm. Ngót năm sau ra khỏi trại giam, Mỹ Duyên về thành và thấy gia đình tan nát: anh ruột hy sinh, em gái lớn bán bar kiêm điếm lậu, em gái nhỏ loay hoay nuôi bà mẹ bại liệt hai chân ở nhà người bà con, nhà Duyên đã cháy trụi. Mài guốc tìm việc làm, tìm không ra. Chủ nhà giục đi nơi khác, họ cũng ngột ngạt với hàng chục họ hàng chạy giặc đến nhờ vả.
Duyên lui vào một con hẻm ở khu Bàn Cờ, thuê căn nhà tranh nhỏ, mở quán bán quà vặt, trà thuốc, hằng ngày đẩy cái ghế có bánh xe đưa mẹ ra trông hàng. Hai chị em hai gánh quà bán rong qua các xóm nghèo, chị bò bún, em xôi chè, đi có cặp cho đỡ sợ lính và du côn. Khi hàng ế hay bị phạt vạ đến sạt vốn, Duyên làm công nhựt phụ thợ nề, phụ bếp ở các quán to, lãnh cộng sổ cho các tiệm Tàu ngày vài giờ...
... Em làm đủ mọi nghề nhằm tránh quay lại cái nghề kinh tởm ngày xưa: nghề gái nhảy, me Tây me Tàu me quan me trọc phú. Trẻ là đĩ quí phái, tuổi sồn sồn làm me, bị đuổi ra thì làm đĩ có giấy phép, gom tiền mua em út để mở nhà chứa làm mụ chủ dầu. Nhiều lúc túng đói quá, em chút xíu nữa trượt vô vết xe cũ anh à, xưa vung tiền một đêm bạc ngàn mà bây giờ nói khô cổ mới vay được vài chục đồng, trả lãi mỗi ngày năm phân đúng. Mà rồi em cưỡng được, em cưỡng tới lần thứ ba thứ tư thành quen...
Bà mẹ chết. Con em nhỏ học được nghề thêu đan, kiếm đủ ăn. Mỹ Duyên vào làm thư kí cho một hãng buôn đồ mĩ nghệ của người Việt, chủ là một khách làng “nhót” rất quen đã thôi ăn chơi, cố làm giàu, cũng giàu lên nhanh. Duyên bị ép mãi phải ra quầy làm chân tiếp khách chào hàng, lương gấp đôi các nhân viên khác vì thạo tiếng Pháp và biết tiếng Anh, khách ngoại quốc đến mua ngày càng đông. Mấy năm khốn đốn nhất đã qua. Duyên giao thiệp nhiều với các nhà báo nước ngoài, họ hay thuê Duyên dịch các bản tin hàng ngày, vừa rẻ, vừa nhanh. Ghé qua tiệm mĩ nghệ, ném mảnh báo tiếng Việt cắt sẵn cho Duyên, bước sang tiệm giải khát bên cạnh làm vài li, khi quay lại đã có bản dịch Duyên ngoáy vội khi quầy vắng. Chủ hãng cũng ưng ý: khách ngoại quốc ra vào tấp nập là cách quảng cáo tốt nhất không mất tiền.
Và đến đây, Duyên bỗng đổi giọng hẳn:
... Làm gì đi nữa, em vẫn giữ tâm hồn của nàng Madeleine ăn năn sám hối mỗi khi nhớ lại khúc đời xấu xa trước kia. Em vững lòng tin ở chân lí của Chúa, hướng về Đấng Cứu Thế đang cứu chuộc chúng ta, dù cho đến nay em chưa lãnh phép thông công, chưa được dự lễ. Anh may mắn hơn em rất nhiều, em muốn tìm đến anh lắm. Nếu tình xưa nghĩa cũ đang còn thì nhứt rồi, không thì em cũng được anh rao giảng cho những lẽ đạo huyền diệu. Nhưng nào biết anh ở đâu, anh ở đâu?
Một tín đồ nhận chuyển thơ này tới tay anh, em tin ảnh trọng lời hứa nên viết dài. Em nhắc lại lời cầu nguyện đêm đêm của người con gái mồ côi: cầu chúc anh mãi mãi bằng an trong tay Chúa.
Với muôn ngàn yêu thương
Mỹ Duyên
Khánh đang đọc lại lần thứ hai thư Duyên, nghe tiếng gõ cửa đúng ám hiệu: hai tiếng nhanh, ba tiếng rời. Cô Lệ Châu đến ngủ với Khánh như mọi đêm. Khánh ngồi nín lặng. Gõ nữa. Lại gõ. Khánh bước tới cáu kỉnh rút then. Lệ Châu bước vào không tiếng động, êm như mèo, cài then ngay:
- Lão công an mật ngủ rồi. Anh mắng lão, em nghe sợ quá.
- Tối nay anh bận, em ngủ chỗ khác nhé. Chịu khó tí.
- Thơ Mỹ Duyên còn đó chớ chạy đâu! Anh không nói chớ em biết rành lắm. Gái ca-va khét tiếng ăn xài ở Đà Nẵng, nhơn tình của anh, lạ gì. Phủ Đỉnh bao vợ ba, vợ ba bao lại con trai vợ hai... Tưởng ô-voa lâu rồi, mụ còn nhào vô kiếm chác...
- Im! Đi ra, đi!
Lệ Châu bĩu môi. Ả có sẵn cái môi dưới thưỡi ra, khi bĩu môi thì nó dài phát khiếp, trông có vẻ gì ma quái. Ả giật mạnh cửa, nện gót đi ra, không kín tiếng nữa. Mọi hôm ả hay nhắc: “Em giữ ý là giữ cho anh thôi”.
Khánh đọc kĩ lại lần nữa. Thư viết sao cho lọt vào tay địch cũng chẳng mắc vạ, nói đến Cách mạng bằng giọng của giáo dân. Ngày viết đề cách đây bốn tháng, bì và thư đều nhàu, chắc qua nhiều tay đọc và mổ xẻ. Duyên còn làm chỗ cũ, còn dịch cho nhà háo nước ngoài nữa không?
Khánh vặn cho đèn măng-sông xì hơi, thắp cái đèn thẫu heo hắt, nằm trằn trọc. Anh chợt nhớ ra: Thạch Sơn chỉ thấy tên trong thư là Mỹ Duyên, nhưng lại nhắc vanh vách là Trần Thị Mỹ Duyên, Xi-mo-nét nữa. Cậu ta từ Việt Bắc vào chưa lâu... Lại thêm ả Lệ Châu, biết rành rọt hết, do đâu? Bí mật thành bật mí, chắc chắn phủ Đỉnh đã rõ ngọn ngành từ xưa mà không muốn ra tay trị mình, có thể muốn nhường lại Duyên cho mình.
Mình sạc thằng Sơn quá lời. Nó bị méo mó nghề nghiệp, mắt hay gườm gườm, lời nói ậm ờ quanh co, chứ thiếu gì cậu tình báo chiến lược hay cơ sở luồn sâu leo cao của ta trong lòng địch vẫn giữ được vẻ hồ hởi, xởi lởi?
Cái khó nhất lại nằm ở mình. Mình còn yêu hay hết yêu Duyên? Mình đã trót “già nhân ngãi” nay có nên “non vợ chồng”? Biết bao lần mình cứ phải tự hỏi: tôi là ai? Tôi có thật sự nghĩ đúng những điều đang nói đang làm không? Tại sao trong người tôi luôn luôn có ít nhất một đôi kéo cưa lừa xẻ? Tại sao vô số người khác có thể tin Đảng, tin chính nghĩa Kháng chiến, tự tin khi theo cánh mạng, còn tôi lại cứ chập chờn, ngả nghiêng, chao đảo, không tin ai mà cũng chẳng tin mình? Bên ngoài nhìn vào, tôi còn giữ được cái vai trí thức tiến bộ, có lẽ tôi biết ngoại ngữ nhiều nhất trong toàn liên khu, làm việc không hăng bốc nhưng cũng không quá bê trễ. Dạo này tôi nghiện thuốc lá, thích rượu nhưng không uống say hay la cà nhậu nhẹt, có nhân tình biết tránh thai và tránh tiếng, đó là những tật xấu không quá quắt, phê cứ phê nhưng có thể ngoảnh mặt được... Bên trong, tôi vẫn không biết mình thực sự là ai!
Sáng hôm sau, Khánh và Sơn được dọn mâm riêng “để các anh bàn công tác cho dễ”. Một đĩa khoai luộc chấm muối đậu phụng, một âu cháo trắng ăn với muối hầm, Suyền vẫn giả nghèo. Hai người lặng lẽ húp cháo, ăn khoai. Khánh mở chuyện trước:
- Mình nhận đêm qua có nóng với cậu. Mình không thích cái kiểu úp úp mở mở của cậu. Ừ thì cậu có dính vô tổ chức bí mật trong thành, mình không tò mò, nhưng cậu nên nhớ Ban địch vận tỉnh chiến trường này cũng nắm không ít cơ sở ngụy quân ngụy quyền, nhân mối nội tuyến đủ hết, mà mình là phó ban chứ không phải chị cấp dưỡng hay chú liên lạc. Cậu thấy đấy, mình chưa hề kể làm quà cho cậu tí bí mật nào của ngành mình. Hay là cậu mới được biết thằng Khánh thuộc thành phần địa chủ quan lại, hãy cảnh giác?
Sơn bật cười ồn:
- Mình biết cậu là con quan phủ từ dạo ở Hà Nội kia, ông mãnh ạ! Chẳng qua mình vụng ăn nói, với lại... cậu đừng giận... ngay dạo ấy mình đã khác cậu. Mình quen nếp suy tư đơn giản, theo đường thẳng tuột, còn cậu... thế nào ấy... theo hình sin ngoằn ngoèo... không, hình hy-péc-bôn đúng hơn, có khi đột ngột nhảy từ vô cực âm lên vô cực dương hay ngược lại... mình không nắm bắt kịp ý tưởng của cậu, đành ngậm mồm. Nhưng vẫn quí cậu, tin cậu lắm chứ, vì đường trục tung độ và hoành độ của chúng ta là một, chỉ khác nhau ở nét đồ thị. Chúng ta cùng theo cách mạng, mỗi đứa một kiểu, đã sao? Cậu hiểu mình chứ?
Khánh lặng lẽ chìa tay qua bàn. Sơn cầm lấy, bóp mạnh không nói.
- Xong một mục. Tới khoản thứ hai: cậu muốn mình giúp gì về Mỹ Duyên? Đã nắm được chưa?
- Nắm được đã chả nhờ đến cậu! Cô ấy không viết trong thư, nhưng ngót năm qua được thằng phóng viên Pháp mê dài, giới thiệu về dịch tin cho hãng AFP chi nhánh Sài Gòn. Cố vấn tin cậy nhất của cô là đảng viên ta, cô phục mà không biết chỗ ấy, được hỏi ý kiến. Chị cố vấn khuyên cô nên làm, nay mai nếu tụi AP hay UPI của Mỹ muốn tuyển thì chớ do dự. Duyên còn ngại cái tiếng xấu Việt gian, tay sai của Tây, phải thuyết khá lâu mới chịu. Gần đây chuyển sang tập sự phóng viên, hay đi với tụi Anh Mỹ, diện ngất trời, nhanh nhẹn nổi tiếng, tụi nhà báo Việt Nam phải ghen: “Cô ấy dùng nụ cười tình mở được mọi cửa”. Các nhà báo còn đang đấu khẩu với cảnh sát bên ngoài, đã thấy Mỹ Duyên đi ra, máy ảnh có hình và máy ghi âm có tiếng rồi, AFP dùng xong cô bán những chỗ đầu thừa đuôi thẹo cũng được khối tiền tiêu thêm. Tối qua thấy cậu bực, mình chưa rút ra cái khoản này...
Sơn móc túi đặt lên bàn một xâu năm chiếc nhẫn vàng đánh trơn, mỗi chiếc ước một đồng cân, kèm một mẩu giấy nhỏ: “Hễ anh từ chối, suốt đời em oán trách”.
Khánh xem giấy, ngẫm nghĩ rồi khoát tay:
- Nộp quĩ kháng chiến hộ mình, trả lại cũng khó.
- Nhưng Duyên biếu riêng cậu!
- Mình nhận của một người làm trong cơ quan Pháp, ăn lương Pháp, chưa phải đồng chí ta. Tất nhiên là mình giấu kĩ. Còn cậu, đến đợt chỉnh huân sắp tới, cậu sẽ thành khẩn khai đã đồng lõa với việc làm xấu xa của mình, không đấu tranh can ngăn. Mình sẽ làm bao nhiêu bản phản tỉnh, chịu bao nhiêu lời phân tích mổ xẻ? Nếu sợ lộ bí mật, khó ghi tên người ủng hộ vào sổ, cậu vất xuống sông hồ nào đó, hay là chọn nhà nào khốn khổ quá cậu đánh rơi vào một chiếc.
- Khiếp quá Khánh ơi, cậu làm mình choáng váng mất!
- Nếu cậu ngậm miệng trong chỉnh huấn, lương tâm có để cậu yên không?
Thạch Sơn rên một tiếng trong mũi, thong thả nhét xâu vàng vào túi.
- Mình biết chuyện nhà cậu, Sơn ạ. Nghèo, chắt bót cho con đi học không đủ, lên khỏi tiểu học đã phải làm prê-xép-tơ[1] ăn miếng chín, nhảy vào luật vì cả làng kéo đến van vỉ sau nhũng vụ xử kiện oan ức không mướn được thày cãi, cậu quyết chí làm trạng sư chứ không làm quan tòa hay quan huyện. Cậu dồn ý chí như mũi đinh nhọn, mình rất trọng cậu, cậu gọi một tiếng theo Việt Minh là mình theo ngay... Hoàn cảnh mình cậu biết rồi đấy, từ bé đã thấy cảnh đời phức tạp, phải uốn mình theo bao nhiêu lề luật đối xử ăn nói phức tạp, bảo làm thế nào mình suy tư theo đường thẳng được. Cùng một hàng bà mẹ, mình phải gọi mụ phủ Đỉnh bằng mẹ, người sinh ra mình là me, người vợ lẽ nhỏ hơn em mình là dì, đóng cẩn thận vai đứa con ba mẹ, lỡ sai một lần là bị lườm nguýt hàng tháng. Bố đẻ là cha, bố dượng là ba, cấm lẫn. Mình loay hoay trong bụi gai tre, còn quí vị lãnh đạo chỉ dán cho mình cái nhãn ghi rõ: “Xuất thân địa chủ quan lại, bản thân tiểu tư sản (lớp trên)”, coi như hiểu hết về mình rồi, khỏi phải đánh vần từng trang tự khai lí lịch với kính lão không đủ số và đèn dầu lù mù! Cậu cho mình được yên thân đi Sơn!
- Cậu viết thư cho Mỹ Duyên chưa?
- Chưa. Đang phân vân.
- Sao thế? Khuyên theo kháng chiến thôi mà.
- Duyên không chờ đợi nhiều lời. Chỉ cần ba chữ “anh yêu em” là giao công tác gì cô cũng nhận. Xa nhau bảy năm, mình viết thế sợ giả dối. Con người khác xưa nhiều quá.
Thạch Sơn đắn đo:
- Hay là... bây giờ qua lại giữa hai vùng không khó lắm... mình cho cơ sở đón cô ấy ra vùng ta gặp cậu mươi hôm, ở nơi khuất vắng gần đây, tha hồ chuyện trò, tìm hiểu lại. Cậu khuyên bảo cô ấy... Chắc Mỹ Duyên sẽ đi.
- Chắc chắn đi. Chí ít cũng để biết nên đợi mình nữa hay nên lấy chồng. Duyên hăm bảy tuổi rồi, gánh nặng mẹ già em dại đã giảm, hẳn nghĩ nhiều đến mai hậu.
- Thỏa thuận thế nhé. Cô ta thỉnh thoảng vẫn đi lấy tin viết bài ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng cho AFP và các báo nước ngoài nữa đấy.
Tự dưng cái máu châm chọc quái quỉ của Khánh nổi dậy. Anh nói nửa thật nửa đùa, mà lại kinh sợ khi cảm thấy mình quá chua chát:
- Mỹ Duyên được dẫn về trạm hẹn, háo hức chờ được viếng thánh địa là vùng tự do, chờ được gặp thiên thần hộ mệnh riêng là Hai Khánh đã được cô chắp thêm hai cánh trong tưởng tượng. Đồng chí Khánh được lệnh công tác xa. Đồng chí Thạch Sơn, vô tình hay cố ý, cũng vắng. Cô phóng viên đầy người phấn sáp lụa là - phải làm đẹp để gặp người cũ chứ - được dẫn tới gặp cán bộ ta. Một vị cán kì cựu, chân chất nông dân, mặc bà bà đen vá với khăn cháo lòng vắt vai, ngồi co một hay hai chân lên ghế nhả khói thuốc rê, hoàn toàn đúng mốt hiện nay. Để thêm phần long trọng, vị ấy sẽ nói toàn những từ ngữ mà đám thị dân ở với Tây bấy lâu ít được nghe: “chị gì...à chị Duyên... Yêu cầu chị thành khẩn báo cáo quá trình phục vụ âm mưu nô dịch của đế quốc khi chị công tác tại cơ quan gì của Tây... phải, hãng thông tấn, tức là điều tra tình hình kháng chiến cung cấp cho thực dân xâm lược. Giấy mực đó, viết đi, khai cho triệt để, không được viết tắt hay xen chữ Tây vô...”.
Thạch Sơn bật kêu:
- Cậu đang kể chuyện năm Bốn mươi lăm!
- Năm ấy tự vệ cầm giấy ngược. Mình nói chuyện mới tinh khôi. Hôm trước mình đi Thăng Bình, trạm gác biết đọc cả, nhưng nhất định đòi xem giấy giới thiệu con ngựa. Dằng co lâu, họ bàn riêng cũng lâu rồi cho đi, dặn lần sau con ngựa phải có giấy tùy thân của nó! Việc như trên dám xảy ra lắm chứ!
Sơn quàng túi dết qua vai, khoác quai ba-lô, cười gượng:
- Thôi để cậu nghĩ thêm, chả vội. Cậu không ưa bị thành kiến, nhưng... cậu cũng mang nặng thành kiến với những người ít học, mộc mạc, mà cậu xếp chung cả gói vào nông dân... Lần sau ta bàn tiếp, còn gặp nhau nhiều!
- Ấy cũng tại thiên lí tha hương ngộ cố tri, hay mình bị đa thư loạn tâm chăng. Xin quan anh cho hai chữ đại xá! Con nhà địa mà dám chê nông dân, liệu thế cũng quá liều!
Con người thứ hai trong Khánh nổi cáu: “Độc mồm vừa chứ!”.
Đợi đến bữa tối vắng Lệ Châu - có lẽ hờn dỗi - Bảy Suyền mới khuyên nhẹ nhàng:
- Em nghĩ anh Hai nên làm lành với anh Thạch Sơn, gặp hay viết thơ tùy anh. Anh Sơn ngủ chung với em, khen anh Hai nhiều lắm, mà anh Hai cứ ngạo ảnh hoài, như chọc tức...
- Cậu nghe hết đầu đuôi à?
- Dạ, cũng có.
Khánh cười khô khốc, tuôn thẳng thừng:
- Tài liệu của mình cậu lén đọc cả. Chuyện riêng của mình với Mỹ Duyên cậu dò ra cả. Mình cãi với bạn cậu rình nghe cả. Nhiều lần mình muốn hỏi cậu: cậu đón mình về vỗ béo lâu nay để làm gì? Nuôi heo gà đến bao giờ cắt tiết? Mà nói cho cùng, cậu là người thế nào hở Suyền?
Mặt hơi tái, Suyền thò tay lấy chai rượu đế “vỏ dền” cạnh mâm, định đút xuống dưới bàn. Khánh giữ lại:
- Đừng cuống. Chai chưa khui mà cậu lo mình say? Chẳng qua mình lên một cơn chán ngán, muốn đập bát đĩa, xô bàn ghế, hét to những lời kiêng kị phạm húy, ngược ngạo một lần cho xả hơi. Mở ra, rót đi. Mình uống cho tửu nhập ngôn xuất, lột bụng dạ ra như bóc bánh chưng, cậu nhấp cầm chừng cho tỉnh mà nhớ đúng nguyên văn, khỏi xem trộm nghe rình mất công.
Khánh dốc cạn một li nguyên, nhai một lần ba miếng nem chua.
- Mình cóc cần cậu trả lời. Cậu là con người gì, theo ai chống ai mặc cậu, thì thầm thì thụt với những phủ Đỉnh, Ba Mậu, Hùng Minh, Lệ Châu, dăng lưới nhện chung quanh mình, kệ xác, mình cứ làm việc của mình. Kháng chiến xong mình sẽ đi học thêm, dạy ngoại ngữ, dịch sách, lấy vợ đẻ vài đứa con cho vui nhà. Không còn địch đâu nữa mà vận, mình thất nghiệp, không phải đảng viên khó được tin dùng, xin được làm đứa lao động trí óc kiếm sống thôi.
Bảy Suyền đã trở lại nước da xanh vừa phải. Cậu ta rót tiếp cho Khánh đầy li, nhìn thẳng vào mặt Khánh:
- Anh Hai bực chi nói vậy, chớ bao nhiêu chỗ muốn rước anh Hai!
- Ai rước?
- À.. như em đây... rước anh về làm thầy, làm cấp trên, làm anh cả trong nhà, hễ làm luôn anh rể nữa thì số dách!
Khánh lại cạn li, cười phì phì:
- Lệ Châu à? Vĩnh viễn không, cô ấy bĩu môi trông kinh quá. Cậu chọn cho mình đám khác nhé. Người hiền lành phúc hậu, nhu Hai Thùy trên Linh Lâm đang giúp nuôi thằng con mình.
- Anh thích chị Thùy lắm à?
- Xin nói rõ, mình thích những người như Thùy. Chứ mình coi Thùy như bà Ma-ri-a trong tượng ảnh, coi Cả Chanh như ông thánh Giô-dép thợ mộc, có ai đi mê người trong tranh như Tú Uyên thời xua... Li nữa mày!
*
* *
Khoảng một tuần sau lần gặp Thạch Sơn, Trại tù hàng binh đón rất nhiều khách mới. Hàng binh không còn lính lê-dương gốc Đức hay lính Nhật như xưa, hầu hết là lính Bắc Phi thuộc Pháp, gốc A-rập. Tù binh lê-dương cũng hiếm hoi, chiến tranh càng ác liệt thì sắc lính nhà nghề ấy càng ít kẻ ham tuy lương to nhất trong quân đội Pháp. Trại tù binh đầy những lính quân dịch Pháp, mặt bấm ra sữa, suốt ngày mếu máo sướt mướt nhắc mãi điệp khúc: “Tôi bị động viên, tôi không thề chống luật”. Trại tù hàng binh ngụy ở xa cũng đầy những nhóc con bị bắt lính, nghe rối mù những cái tên bảo vệ quân. Việt binh đoàn, thân binh, vệ sĩ, bảo hoàng, hương dõng, hương vệ, khố đỏ, khinh quân... trăm thứ bà dằn, chỉ có cán bộ chuyên môn mới hiểu hết được.
Khánh bận lên lớp ngày hai buổi cho tù binh mới, giao hẳn việc lập hồ sơ cho Bảy Suyền và anh Tư Tuyển mới nhận việc. Ai cũng rối mù.
Tư Tuyển là anh bạn học của Khánh hồi nhỏ ở Quy Nhơn, đã cho Khánh mượn sách cấm về chủ nghĩa Mác trước Tổng khởi nghĩa. Tản cư khỏi thành phố tiêu thổ, với gánh nặng sáu đứa con - sau thêm hai nữa là tám - với bà vợ rất đoảng và bà mẹ vợ ốm yếu, Tư Tuyển chạy ăn đến bạc mặt. Sáng dạy trường công, chiều và tối dạy tư kiếm thêm, lúc nào anh cũng tất tưởi như ma đuổi. Cha làm thầy mà con chỉ học không quá tiểu học, đứa lớn lo làm nuôi đứa nhỏ. Qua sáu bảy năm, vợ bớt đoảng đã làm được bánh kẹo cho con đi bán, con nối nhau học nghề kiếm ăn, Tư Tuyển mới nổi máu xông pha khói lửa cho biết mùi kháng chiến, lâu nay anh chỉ chống Pháp bằng động tác nhảy hầm tránh bom.
Khánh ghé thăm Tuyển nhân một chuyến đưa tù binh về trại chính liên khu. Ngắm người bạn trẻ hơn, đã cao lớn càng cao lớn hơn trong bộ ka-ki ngoại, đôi đờ-mi bốt lộp cộp, súng ngắn ngang lưng, mũ nhựa Mỹ hình mũ sắt trùm đầu, xắc-cốt chữ nhật bên hông, Tuyển rầu rĩ gãi tai:
- Trông cậu oai phong lẫm liệt, mình mê quá. Mình bị ông bà già ép cưới vợ sớm, vướng một chùm vợ dại con thơ, mất gọn mấy năm đánh Tây, nghĩ thiệt xấu hổ... Ờ, mình dạy học, đào tạo nhơn tài, đồng ý... nhưng xin thú nhận là mình bán cháo phổi để kiếm tiền chớ chẳng yêu nghề, mà học trò cũng chẳng ham gì môn mình dạy. Mình giảng văn học Pháp từ đệ nhị đến đệ tứ niên, đọc thuộc lòng kịch Coóc-nây, Ra-xin, thơ Vi-nhi, Muýt-xê, văn Huy-gô, Ban-dắc cho những đứa mới bập bẹ tiếng Pháp, ưa chọc thầy cười chơi, cái đám lèo-lèo mè-dồng lo bố-cu tết bớp[2] chỉ giỏi nghề quay, cóp... Cậu có công tác gì gần mặt trận hơn, cho mình theo với. Ra Quảng Nam dạy tù binh, được lắm chớ. Người thay mình sẵn rồi, có một cậu đíp-lôm đang làm văn phòng, đôi khi dạy thay mình thường được bọn học sinh khen là giảng dễ hiểu, trình độ thầy trò xấp xỉ nhau mà!
Tư Tuyển mang ba-lô ra Quảng Nam, nhận việc ở Trại mới năm hôm thì gặp đợt tù binh mới. Khi lập hồ sơ mới vỡ lẽ ra: bọn quân dịch người Pháp tự viết bản khai được phần lớn, số lính gốc nước khác viết rất chật vật, có đứa mù chữ, còn số lính gốc A-rập hay châu Phi đen thì chịu bó tay. Đành phải gọi từng đứa một lên lấy khẩu cung và viết hộ để chúng vẽ chữ thập hay điểm chỉ vào, mất lắm thì giờ.
Hai Khánh cho Bảy Suyền đến Ban địch vận tỉnh mượn tài liệu về tình hình chính trị xã hội các xứ châu Phi thuộc Pháp, về chế độ quân dịch Pháp gần đây đã sửa đổi. Suyền có xe đạp, đi và về chỉ mất một ngày. Lần này cậu ta đi đến ngày thứ ba chưa về. Khánh sốt ruột nghĩ: “Hắn bị bom dọc đường hay nhảy về tề?”.
Chiều ấy Khánh rời Trại sớm vì ngấm mệt. Suyền đợi ở nhà với mâm cơm bày sẵn úp lồng bàn, nói vội:
- Xin lỗi anh, em phải về Linh Lâm đón bác tú Đỉnh. Bác đang chờ gặp anh cách đây hơn chục cây số. Mời anh ăn sớm ta đi cho kịp. Gấp lắm.
- Việc gì thế?
- Dạ, bác về thành. Ghe biển đón khuya nay.
Khánh ngồi phịch xuống ghế, trừng mắt:
- Ai cho phép cậu chỉ huy mình? Ông phủ Đỉnh đi đâu tùy lòng ông ấy, mình không phải thằng hầu bưng tráp theo quan!
Suyền vẫn nhũn nhùn nhùn:
- Dạ, đó là bác tú nhắn anh, em đâu dám lệnh lạc gì. Có điều bác dặn nhứt thiết phải gặp anh trước khi đi, quan trọng cực kì, bắt em đạp xe về hỏa tốc. Hễ anh thấy gặp bác không tiện thì để em chạy báo lại cho bác khỏi trông.
Khánh nhấc lồng bàn ném vào góc nhà, xới cơm ăn, không nói. Rốt cuộc mình chỉ vùng vằng suông làm điệu, mình sẽ làm theo tất cả những gì ông phủ Đỉnh với Bảy Suyền đã sắp xếp sẵn. Đêm nay chắc phải đi, nào biết được ông phủ sẽ truyền lại những gì. Một bản đồ tuyệt mật đi tìm kho vàng chôn giấu trong rùng núi Linh Lâm? Một số đầu mối riêng để bắt liên lạc với ông ta, nhận vàng hay tiền, trao tin mật, sẵn sàng đưa người về tề? hay chỉ đơn giản là nghe những lời xót của, đã không lấy được đất La-phạt còn phải bỏ luôn ấp Hường Hiệu cùng tất cả nhà cửa, giường tủ, số trâu bò chưa bán kịp?
Bảy Suyền đợi Khánh ăn gần xong mới báo thêm:
- Dạ thưa, bác tú còn dặn là nếu anh muốn đi với bác thì mang đồ theo luôn, giây tờ với đồ quí thôi, ghe còn đủ chỗ, an toàn lắm...
- Câm đi Bảy! Mình gặp ổng lần cuối cho trọn tình nghĩa, hết!
- Thì bác nhắn sao, em thưa vậy...
Cưỡi ngựa dễ lộ, hai người đèo nhau trên chiếc xe đạp của Suyền. Các trạm gác vắng người trong đêm mưa khá rét. Cách biển vài cây số, Suyền gửi xe đạp nhà quen, dẫn Khánh đi bộ qua nhiều trảng cát và rừng phi lao, đến một chòi ven biển của dân chài bỏ trống. Sóng đêm vỗ bờ ì ùm bên ngoài, nơi bãi ngang vắng ngắt không nhà không thuyền. Tàu nhỏ của Pháp hay vào gần bờ, xổ đạn lửa bắn cháy tất cả những gì cháy được, nên cái chòi này nép rất kín giữa những bụi phi lao thấp, đến tận nơi mới thấy.
Ông phủ Đỉnh trông hơi gầy hơn dạo làm tang cho bà vợ cả chết vì thương hàn, nhưng vẫn rất quắc thước với bộ râu đen nhánh, rậm và dài, được nuôi để hóa thân thành cụ tú Đỉnh phó chủ tịch Liên Việt huyện Tây Quảng. Ông mặc bộ bà ba đen bạc màu lẫn bùn ở gấu quần, đeo cái tay nải to chéo trên lưng, nón ướt đặt bên cạnh, đúng là ông lão nông gia trưởng tản cư xa về thăm quê, ngại tàu bay tàu biển nên phải đi đêm, ghé nghỉ chốc lát. Chị Tôn Nữ Huyên Tâm thập thò sau lưng cha, mặc kiểu gái buôn, tóc búi. Còn một anh chàng lực luỡng nữa có gánh đôi bầu to nặng đi theo, nhác thấy Suyền vào đã vội mang tơi đội nón ra ngoài đứng gác, Khánh thoáng thấy hai quả lựu đạn cài móc vào thắt lưng quần đùi.
Suyền báo tin yên ổn cả. Ông phủ dựng lại tấm phên che cửa, sửa mảnh quạt mo cau che ánh đèn dầu. Chị Huyền Tâm bưng đặt trên chõng khập khiễng một cái mẹt nặng. Khánh tò mò ngắm mâm nhậu khác thường: tất cả đều là đồ hộp mở vất nắp, hình tròn và quả trám, vuông và chữ nhật, cao và thấp. Chỉ có ổ bánh mì hình gối, mấy gói bích qui và kẹo được gói trong giấy kính, nhúm muối riêu cùng mấy quả ớt đặt trên giấy rơm nội là không đóng hộp. Anh không thấy phủ Đỉnh đưa mắt hỏi Suyền, hất hàm phía anh. Bảy Suyền lắc đầu. Phủ Đỉnh cau mày một loáng lại tươi mặt ngay, xòe hai tay:
- Các thứ là của anh em đồng chí gởi cho con đó Khánh. Đưa về chỗ con bất tiện, ta mở tiệc ở đây hưởng chung cái lộc của con. Con nhớ anh Trọng Béo chớ? Tức là Tô Trọng Huân?
Khánh giật mình:
- Trọng Béo, làm Việt quốc ở Hà Nội hồi xưa?
- Đích thị, ảnh rất nhớ con, khen con, cứ tiếc hoài con không bắt liên lạc với đảng bộ Quốc dân ở Quảng Nam. Bây giờ ảnh về Huế, lãnh chức cao ở chỗ Thủ hiến Trung Việt. Ảnh gởi quà theo ghe, nhắn con muốn tống cựu hay nghênh tân tùy ý. Thêm mấy chai cô-nhắc với sâm-banh đây. Ta vừa nhấm nháp vừa bàn chuyện còn gần ba tiếng nữa. Chung quanh gác kỹ rồi.
Khánh như đang chiêm bao. Trong vùng của ta, Việt quốc đã dựng lưới ngầm đến đâu, móc nối những ai? Việt quốc hàng Pháp, làm gián điệp cho Pháp, nói mẽ rằng dựa vào Pháp giành độc lập, Pháp không nguy hiểm bằng cộng sản tay sai Nga-xô Trung-cộng, Khánh đã đọc cả mớ truyền đơn và tài liệu mật của chúng đưa về Ban địch vận, chẳng lạ gì. Chỉ vô cùng lạ là Khánh đang đón ly rượu từ tay một đảng viên Quốc dân gọi anh bằng con, bên một đứa cũng là Quốc dân lâu nay vờ tôn anh làm thầy. Khánh là con ruồi sa lưới, sa lưới...
Cũng trong chiêm bao, Khánh cầm thìa xúc mọi thứ được trút vào cái vỏ hộp to và dẹt dùng làm đĩa trên tay mình, không phân biệt được xúc-xích, giăm-bông, cá trích trong dầu ô-liu, ba-tê gan, phó-mát cứng và mềm, tôm hùm bóc vỏ, dưa chuột muối chua. Anh cắn nhai hú họa lát bánh mì phết bơ được giúi vào tay, buông nó để đón ly rượu ai đó mời, chạm vào mấy cái ly chìa trước mặt, uống cạn một nửa. Anh quyết giữ không say, nhưng sao cứ choáng váng thế này?
- Trên Linh Lâm tụi nó chưa bày trò gì căng lắm đâu con. Ban đầu cũng tính đấu ba làm cái điển hình. Ba xuống huyện xuống tỉnh, lễ phép thưa quí đồng chí vầy đây: “Tụi địa chủ quan lại có nợ máu ở lại hết trong thành, đứa nào mắc kẹt cũng tìm đường trốn. Tôi tự xét có lỡ dại làm quan với đế quốc phong kiến, mang tội với đồng bào thiệt đó, nhưng mà còn nghĩ tới tổ tiên nòi giống, rán ở lại vùng chánh phủ Cụ Hồ để lập công chuộc tội, Đảng biểu sao tôi làm vậy. Tôi biết trước sau cũng phải xóa bỏ giai cấp địa chủ, trả ruộng cho nông dân mới là công bằng xã hội. Đảng chưa biểu nộp thì tôi nộp cũng chẳng ai nhận. Bây giờ Đảng chưa cho nộp mà ra lệnh giảm tô triệt để, tôi đâu dám cãi chối gì. Thôi thì xin cho tôi trả lại cái Liên Việt, tôi lui về làng phục tòng quí ông bà nông dân, đem ra đấu tố tôi xin quì nhận hết là xong!”. Nói vậy rồi về. Các chả bàn sao đó, chắc có uốn nắn cho đội phát động ở xã, về sau tụi nó chỉ kêu ba ra trụ sở, cấm không cho thu tô hơn mức hăm lăm phần trăm, bắt xóa hết nợ lưu niên. Bấy nhiêu thôi!
Khánh thốt luôn câu hỏi nằm trên đầu lưỡi:
- Họ nhân nhượng vậy, sao ba đi?
- Ở lại mà bị bao vây như quản thúc, chẳng làm được gì, biến là phải.
Câu hỏi tiếp của Khánh tự nó bật ra:
- Ba làm gì?
- Chuyện hơi dài... thôi để cháu Suyền kế sau. Ba với ba nó một dạo thân thiết lắm. Suyền nó nói con chưa đi nó cũng ở lại, trò phải theo thầy tới đâu thì tới (Khánh nghĩ nhanh: nhện chưa xực hết con ruồi, đời nào nhả!)... Ba đi, để khó khăn lại cho con đó. Tụi nó không bắt bớ hay cách chức con ồn ào đâu, sợ rút dây động rừng, số trí thức về trùm chăn hết. Chỉ có chỉnh huấn dài ngày, truy liên quan, phản tỉnh, tập thể xúm vô xây dựng. Sau đó đẩy nhẹ qua chỗ vô quyền, hằng ngày ngồi dịch một chồng tài liệu tiếng Pháp Anh thu của địch để các vị lãnh đạo đọc tham khảo, hay là mở đài chép tin đọc chậm... Con cứ làm. Tới khi thiệt ngán rồi thì Bảy Suyền nó lo liệu. Anh em bên kia vẫn quý con lắm đó... Chà, ngồi miết mỏi chân, uống nước rồi ta ra ngoài một lát đi con.
Chị Huyền Tâm không hề mở miệng, rót trà Long Tỉnh pha trong hộp sữa bột Chi-gô ra mấy cái chén sứ. Khánh nhận ra bộ chén đời Minh rất đắt tiền được phủ Đỉnh xếp vào gia bảo. Một viên công sứ đã vật nài xin đổi ngang trọng lượng vàng tây, không được, phải ngang vàng diệp kia.
Phù Đỉnh khoác trùm lên người và tay nải một cái ba-đờ-xuy sờn rách quấn khăn quàng trùm tai, bước ra ngoài. Mưa đã dứt, gió dịu, tiếng sóng bớt hung hãn. Khánh choàng áo mưa chiến lợi phẩm, bước theo. Lão sắp nói riêng gì đây? Đừng hòng moi lấy một chút bí mật hay một lời hứa hẹn nào nhé. Tôi để ông đi thoát thân là may rồi, chớ có vòi vĩnh!
Men theo rìa rừng phi lao, họ đi qua một bóng đứng gác trong tối, đi xa thêm vài chục bước nữa, dừng dưới bóng cây. Một bàn tay mập run run nắm ngửa tay Khánh. Bàn tay kia nhét vào đấy một gói nhỏ và nặng, uốn các ngón tay cụp lại.
- Ba tích cóp nhiều năm, gần đây cố vớt vát thêm, con cầm năm lượng mà tiêu. Vàng diệp hay hột xoàn khó bán, ba đưa toàn thứ khâu vàng cửu một hai chỉ...
Khánh giật mình, ấn trả gói vàng vào tay phủ Đỉnh. Không kịp. Phủ Đỉnh nói nghèn nghẹn:
- Ba biết lắm, xưa con đã ghét ba, về sau con vừa khinh vừa gờm, nhứt là từ khi con... con thân với Mỹ Duyên, ba với con thành tình địch. Mới đầu ba giận hết sức, lần hồi ba nguôi, lại cứ thương con. Ba già rồi, say mê chốc lát vung tiền ra bao Mỹ Duyên. Ít lâu cũng chán. Con với Duyên còn trẻ, sống được với nhau cả đời, ba đâu nỡ phá đám. Ăn ở không giá thú, chia lìa khỏi cần giấy tò, phần ba khỏe ru. Chỉ muốn phần con thu xếp sao khéo khéo, tránh được tiếng đồn thế gian, ở với nhau nơi nào thiên hạ ít quen như Sài Gòn, Đà Lạt, Hải Phòng, cần tiền ba chu cấp thêm. Muốn vậy mà ba chẳng nói ra được. Dù sao ba cũng còn cái sĩ diện của ông quan, của người cha dượng... Với lại, ba nói thiệt, nói hết... về già không con, ba khao khát có con lắm, ba thèm được một đứa như con lắm. Mỹ Duyên hay ác khẩu, nói ba vãi tiền ra mua Khánh, ba lợi dụng Khánh. Bậy. Muốn dùng con như người tâm phúc thì có, lợi dụng thì không. Ba chết đi, để gia tài cho ai? Cho mẹ con bà cả riết róng, chịu nhịn đói làm giàu? Cho me con là người lạnh lùng với ba? cho Mỹ Duyên để ăn chơi phá tán? Mỗi lần xuống sức ba lại làm di chúc, dành của nổi cho các bà vợ, dành tất cả ruộng đất nhà cửa trâu bò cho con. Sau mỗi làn gặp con ba lại thất vọng, lại xé, lại rầu. Con tin ba hay không tùy bụng, lần này xa nhau chưa biết còn gặp lại hay là vĩnh biệt, ba mới bộc bạch cho con thông tỏ ngọn ngành. Con coi phủ Đỉnh là đứa lắm thủ đoạn, đúng, vậy chớ nó còn nghĩ tới tình cha con, tình đời ấm lạnh!
Cơn mê quái gở dẫn Khánh đi tiếp. Những tiếng ám hiệu gõ cộc cộc bằng bơi chèo. Tiếng chào kèm tiếng thở dài muôn thuở của chị Huyền Tâm bạc phận. Vòng tay ôm ghì đột ngột của phủ Đỉnh chung quanh vai anh. Đôi bầu to kĩu kịt nhấc đặt lên xuồng. Mây đen dãn ra cho sao hiện rậm nhấp nháy. Xuồng nhỏ vào sát chân sóng, chuyển người và đồ đạc ra chiếc thuyền to có cột buồm đậu mé ngoài. Vòng ra biển chỉ một tiếng là xong, thắp đèn hiệu cho tàu tuần của Pháp khỏi bắn lầm, dựng buồm hay chèo tay tùy gió, thong dong vào cửa Đại, sáng mai lên bến ăn cao lâu Hội An trả tiền Đông, mua hay mượn đồ thay đi dạo phố, đợi giờ vào trình diện ở nơi đón tiếp hồi cư...
- Về được rồi, anh Hai!
Tiếng Bảy Suyền đánh thức Khánh dậy. Anh thấy mình đứng gần chân sóng, thủy triều lên đã thè lưỡi đến gấu quần. Túi ngực Khánh nặng lệch một bên với gói vàng năm lượng. Me gửi vàng, Mỹ Duyên gửi vàng, nay phủ Đỉnh cũng ấn vàng vào tay, những chiếc nhẫn dễ bán tiêu nhất không ai nghi ngờ...
Thì đã sao? Đã sao? Thiếu gì cán bộ đọc bản phản tỉnh đã thông đồng với quản lý ăn xén từng chút gạo chút mắm của đơn vị để sắm ka-ki ngoại, mua đồng hồ Vi-le hay Mô-va-đo, thậm chí ăn bớt cả tiền hòm của tử sĩ, cho bó chiếu đem chôn, để dồn mua xe đạp Xtéc-linh? Thiếu gì đứa sấn vào xin làm con nuôi nhà đại địa chủ, cưới vợ trùm buôn lậu, bị lật tẩy thì nhảy theo địch? Mình dại ở chỗ quá thật thà, quá lí tưởng hóa con người cách mạng, quá nghiêm khắc với bản thân, buộc thằng Khánh phải tự lột xác như ve sầu lột vỏ mà chẳng cần biết đến mưa to gió lớn bên ngoài. Mình chẳng chừa một khoảng lề để xoay ngang tạt ngửa...
Khánh ngồi trên chỗ đèo hàng cho Bảy Suyền đạp hổn hển, chìm vào suy nghĩ miên man, cả khi phải bước xuống leo dốc. Anh mặc nguyên áo ướt vấy bùn lăn ra giường, lịm đi trong giấc chiêm bao kéo dài đã nhiều giờ, mặc cho Lệ Châu loay hoay cởi dép, xếp gọn chân tay, buông màn, ghé nằm bên cạnh.
Chú thích:
[1] Dạy kèm trẻ, gia sư
[2] Tiếng Pháp đùa: học trò nhà nước đầu bò lắm