← Quay lại trang sách

Chương 4

Chúng mày ơi, thằng Phu mới tậu một đồng giờ Pôn-giốt mặt đen, mới bóc tem nhá. Kính mời nhà A4 cùng chiêm ngưỡng!

Lớp trưởng Lê Tùng rao to tiếng khi kẻng khu ký túc xá khua báo hết giờ tự học, sắp ăn cơm. Anh chính trị viên đại đội chuyển ngành đi học này, thân cao to với mắt hơi lồi, bị chứng thấp khớp đục khoét bên trong, chỉ thiếu gương mẫu vào các giờ thể dục sáng sớm và thể thao chiều.

Sáu Cam nằm trên giường tầng hai, đang nghiền ngẫm cuốn Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu và kiếm ý để làm tiểu luận, phải lồm cồm leo xuống?

- Đưa mình coi thử...

- Trước khi xem, phải tạ ơn Bác Tôn, trưởng ban Bổ túc văn hóa trung ương. Thằng Phu dạy bổ túc sáu tháng mới mua được đồng hồ.

- Ờ, xin tạ ơn Bác... Mà này, chúng mày học Trung Văn, mù chữ Nga là phải. Phải gọi là Pa-liốt, trọng âm ở iốt, nghĩa là chuyến bay. Các cô mậu dịch lại cười cho!

- Hơi sức đâu! Các cô nhìn cái biển xanh trên túi áo mình, Trường đại học Tổng hợp lại đọc ra Bách hóa Tổng hợp, cánh ta thành mậu dịch tất!

- Ơ hơ hơ, cùng nghề càng đỡ chẹt nhau chứ sao!

Trong căn nhà nền cao lợp lá cọ, đặt mười hai giường đôi của sinh viên trong khu ký túc trên bãi Phúc Xá, bên ngoài đê sông Hồng, tiếng khua bát đũa nổi dậy. Sinh viên túa ra sân trong khi nhà bếp hối hả bày thức ăn, bưng cơm. Loa truyền thanh ồm ã đưa tin, vang động khắp mười căn nhà lá cùng kiểu với nhà A4 của sinh viên đại học Tổng hợp I Hà Nội. Các trường đại học mọc lên rất nhiều sau ngày ta tiếp quản miền Bắc, trường sở chen lấn nhau, các khu ký túc được dựng hối hả và cố nuôi sinh viên với giá rẻ nhất-học bổng hăm hai đồng, tiền ăn tháng mười lăm đồng, tiền nhà điện nước không phải trả xu nào, sinh viên đi dạy thêm hay làm thêm tự do kiếm tiền bỏ túi, nhà nào khá giả thì hưởng thêm của nhà chẳng sao.

Giới sinh viên đã hiện rõ ba tầng: từ các tỉnh xa và thôn quê ra Hà Nội học thường nghèo, đi bộ và nhịn quà sáng; cán bộ và bộ đội chuyển ngành vào trường sống khá hơn nhờ được hưởng 95 phần trăm lương tại chức thay vì học bổng 35 đồng trước đây. Còn sinh viên con nhà giàu hay công chức lưu dụng vẫn sang nhất-một thư ký đánh máy ở sở nào đấy cứ lĩnh lương cao hơn Bác Hồ. Thôi thì nước ta chưa thống nhất, đành chịu những bất công kéo dài ít lâu nữa, dù miền Bắc đã giải phóng đến năm năm. Số này đi học bằng xe Mô-by-lét, Xô-lếch, về ở nhà lầu hai ba tầng, nhưng hay than thở ngày nay khó sống hơn trước, và nơm nớp sợ tư sản sẽ bị cải tạo, sợ công chức lưu dụng phải xếp lại theo lương cán bộ kháng chiến về, sợ không được ở Hà Nội khi ra trường.

Oai nhất trong giới trung lưu ở lớp Ngữ Văn khóa Ba là “bố” Lê Tùng. Anh ấy cũng là người Sáu Cam mến nhất trong lớp, tuy chỉ phục vừa vừa thôi, vì mải lo vợ con nên học ở mức trung bình. Các thầy cô giáo, lứa nghiên cứu sinh và trợ lý trẻ được giao lên lớp một số giờ chuyên đề, thường bối rối hoang mang khi thấy cậu sinh viên đồ sộ này bước vào lớp trong bộ quân phục sĩ quan, đi giày cộp bằng da đen, gọi thầy cô bằng đồng chí. Khi biết Tùng là phó bí thư chi bộ toàn khoa-cán bộ giảng dạy cùng chung chi bộ với sinh viên-lương và thâm niên cộng lại lĩnh cao hơn so với thầy cô, thì người trên bục giảng đến giờ nghỉ lại sán đến Tùng, nói rụt rè và bẻ ngón tay không ngớt: “Em là đoàn viên đã lâu, học lớp cảm tình Đảng, nhờ anh theo dõi giúp đỡ...”. Và Tùng giúp đỡ họ thật tình, xoa dịu bớt những lời chê trách đối với các thầy cô non kém, vực lên được không ít người có vết đen hay lỗ hổng trong lý lịch xin vào Đảng. Anh cũng quý cậu lớp phó thua mình tám tuổi, gốc miền Nam và luôn bốc, hăng, lắm lý sự nhưng sẵn sàng nghe anh em đập mình, sẵn sàng gánh việc vặt khi lớp trưởng về Hải Phòng thăm vợ con.

Chiều nay, Tùng và Cam cầm bát đũa xuống nhà ăn cùng một lần. Tùng huých tay Cam khi đến gần sân bóng chuyền đầy người hò hét chung quanh cuộc đấu giữa hai đội Toán và Hóa:

- Lại đằng này, tớ hỏi tí chút.

Hai đội đang hăng phục hận, cổ động viên bên ngoài gào thét đứt hơi đến át cả còi trọng tài. Bố Tùng kéo Cam vào góc vắng nhất, thấp giọng:

- Tớ bảo, tình bạn thôi nhá.... Cả lớp với cả phòng A4 đều bảo cậu đang bị rối tình cảm. Cậu về ký túc rất khuya, ngủ trằn trọc, ngồi viết thư hàng buổi. Ông Yên đọc bản khóa luận về văn học dân gian liên khu Năm của cậu, bảo chỉ đáng điểm ba, cậu làm lạo thảo cho xong. Lớp điền kinh buổi sáng cậu cũng bỏ... Mình không tò mò đâu, nếu có gì mình giúp được thì cứ nói, không thì cậu giữ riêng... Mình cũng chẳng ưa những người nhảy vào ngồi xổm trong đời tư người khác, dựa cái thế hơn tuổi, hơn cấp, lên lớp dạy đời. Tùy cậu trăm phần trăm đấy...

Cam liếc nhìn những nét lo lắng rất thật tình trên mặt ông anh cùng lớp, cảm thấy không muốn giấu chút gì với anh cũng như với anh Năm Chò. Nhưng vẫn phải hỏi thêm:

- Tối qua, nghe bảo bà nào nặng một tạ đến gặp anh, chắc lại đưa thư tố cáo tôi lần nữa, bà Ất chứ ai!

- Tớ cũng định nói. Bà ấy than vãn mãi rằng cậu bỏ rơi mẹ con Hoàng Lan hàng nửa năm không lui tới, cả nhà trách cậu lắm.

- Ừ ừ, cái mụ thần nanh đỏ mỏ ấy, mụ La Sát ấy, chửi tôi nát mặt khi gặp tôi đến thăm Hoàng Lan, còn gửi thư đến Đảng ủy nhà trường ghép tội cho tôi ve vãn vợ lính vắng chồng. Còn may là anh làm chứng hộ. Mụ ấy đầy bụng rắn độc. Ôi, chuyện tận đẩu đâu, các anh biết thế nào mà xử, chỉ đánh một dấu hỏi to tướng vào lý lịch thằng Phan Cam về khoản đạo đức!

Kẻng lại khua báo ăn cơm. Cơm nghèo thôi, mỗi ngày hai bữa đủ no nhung rau nhiều đạm ít, một bát canh chỉ nổi tí váng mỡ gọi là có con lợn sổng chuồng chạy qua vườn rau muống hay bắp cải. Rất may là bố Tùng nẩy sáng kiến “kết nghĩa” với một mâm sinh viên gái, các cô ăn yếu nên sáu người chỉ xơi được hai phần ba số cơm, chỗ còn lại họ đưa sang cho mâm Tùng và Cam vét sạch. Bù lại, mâm con trai chở các cô bằng xe đạp từ bãi Phúc Xá đến hai cơ sở của trường Tổng hợp ở cách khu ký túc đến bốn cây số.

Trận đấu bóng chuyền ngoài kia sôi nổi. Cấp dưỡng khua kẻng mỏi tay, cả dãy bàn nhà ăn vẫn bỏ trống. Hai vị lớp trưởng Toán và Hóa nhân lúc đổi sân, hổn hển chạy vào bếp, vừa vuốt mặt đầm đìa mồ hôi vừa thề độc rằng anh em ăn xong sẽ rửa sạch mọi thứ, các chị cứ bỏ đấy về nhà, chưa nghe trả lời đã co cẳng chạy biến vì trọng tài đã toe toe xướng giao bóng.

Xong bữa cơm đạm bạc, bố Tùng kéo Cam ra khỏi cổng ký túc, rẽ sang phía bãi sông Hồng có một đoạn đường khô ráo, giúi cho Cam một điếu Hoa Hồng loại bốn hào một gói. Diêm Thống Nhất dạo này tệ quá, đánh ba que mới châm được một điếu, tiếp đó mồi chuyền cho nhau. Tùng dặng hắng vài lần, thấp giọng:

- Tớ báo tin mới nóng giòn đây. Cậu Thống hi sinh trong đợt tiễu phỉ trên biên giới, mãi tận Hà Giang.

Cam sững người, ấp úng lâu mỏi thốt:

- Anh không nói ngay với tôi...

- Đêm qua cậu về khuya, vật vã mãi mới nghe tiếng ngáy. Thống nó bị hàng chục viên tiểu liên vào ngực, anh em khiêng ngót một ngày mới đến trung đoàn. Đường xa quá không chở về được, không đợi được, phải chôn vào nghĩa trang xã. Xe con Tổng cục cán bộ đưa gấp cô Lan với thằng bé... gì nhỉ... là thằng Nhứt... lên Hà Giang chiều hôm qua, nhận mồ mả, sau bốc về đâu tùy ý. Chắc vài hôm nữa mới làm truy điệu được. Thống là chiến sĩ thi đua Quân khu nhiều năm, có thể phong anh hùng quân đội. Mình chỉ gặp vài lần mà mê nó ra phết.

Đến quãng lầy lội, Tùng xoay người trở bước thong thả:

- Hồi Đảng ủy cử mình đi tìm sự thật về lá thư bà Ất, may gặp nó về họp ở Hà Nội. Lan giận phát khóc, Thống ta lại bật cười, thằng Nhứt thì hàng chục lần đòi mình dẫn đến chú Cam, lăn ra đất. Bà con xa, pháo trăm lẻ năm bắn không tới, nhưng bà Ất mắc cái bệnh khác oai quyền kinh khủng, Thống nó bảo thế. Trên đường về mình ghé vào thăm bà ấy ở Phà Đen. Ông chồng dạy tiểu học gầy như que củi, bà vợ phát phì, đặt bên nhau thành con số 10. Tập kết mang ra bốn con, sinh liên tiếp thêm hai đứa nữa, nhà chật chen không lọt, ầm ĩ ngày đêm những chửi, cãi, khóc. Bà ấy nói ráo hoảnh: “Chặn trước thằng Cam với con Lan thì vừa, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”.

- Bây giờ xoay ngược trăm tám mươi độ, trách tôi bỏ rơi!

- Có thể vì Thống hi sinh rồi, bà ấy hối... Sáng nay tớ gọi nhờ dây nói văn phòng, mấy cậu quen ở Tổng cục hẹn bao giờ truy điệu sẽ gọi điện về ký túc cho mình hay cho cậu, phải đợi Hoàng Lan về. Tội nghiệp, cả hai vợ chồng đều mồ côi bố mẹ, Thống lại lặn lội quanh năm trên biên giới, thảo nào thằng Nhứt nó đòi cậu đứt hơi...

Đèn điện trước cổng ký túc đã bật, tiếp các nhà đều lên đèn. Mỗi nhà hăm bốn chỗ nằm chỉ được thắp hai bóng 75 oát, điện yếu hẳn so với năm ngoái, nhiều sinh viên phải tự túc thêm đèn dầu nhỏ thắp riêng, dù Ban quản trị đã nhắc mãi nội quy chống cháy.

Dừng trước cổng, Sáu Cam ngập ngừng:

- Còn câu hỏi đầu tiên của anh, để lúc khác tôi nói rõ. Tóm gọn là chuyện trở về miền Nam anh ạ. Anh Năm Chò tiểu đoàn trưởng chuyển về nông trường Sao Vàng ở Thanh Hóa viết thư báo đã nhận giấy gọi tái đăng, tiếp đó gặp mấy cán bộ vào bàn việc vào Nam. Thế nhưng anh ấy cấm tôi không được rời trường, tốt nghiệp rồi sẽ hay. Tình cảm có rối thật đấy. Anh bảo tôi làm gì bây giờ?

Bố Tùng gãi cằm hơi lâu mới đáp:

- Chà, cái này... mình không có quyền tò mò... việc tối mật...

- Thì tôi nhắc lại câu anh ban nãy: tình bạn thôi mà!

- Mình không biết chủ trương mới nhất ra sao. Để mình nhờ mấy đứa quen hỏi dò hộ cậu. Tạm xếp lại, tạm gác đấy đã nhé.

Anh Tám Thống đền nợ nước đã trên hai tháng, dãy bằng và huân chương từ quân công hạng ba trở xuống đã lồng kính treo san sát trên căn buồng chín mét vuông dành cho vợ con anh ở khu nhà nhân viên y tế nép vào một góc bệnh viện Phủ Doãn, mà cô vợ Hoàng Lan vẫn chưa ra khỏi vẻ người và dáng vóc đờ đẫn của người mới góa chồng. Một ông cán bộ tổ chức nào đó thử gợi ý rằng chị ta chưa thỏa mãn chính sách, mắc tư tưởng công thần, bị cả chi bộ quật cho ngay không kịp thở, phải nhanh chóng xua tay rút chạy? “Tôi chỉ nêu vấn đề để các đồng chí suy xét...”. Nhưng vẫn không thoát ngón tay chỉ mặt của cụ bí thư: “Anh tưởng ai cũng là đứa đểu giả như anh?”.

Cộng hòa dân chủ Đức bắt đầu viện trợ cho bệnh viện Phủ Doãn. Cả một hệ thống hiện đại để nấu ăn, xay thịt, rửa bát đĩa bằng điện dưới vòi nước áp lực cao, vòi thuốc tẩy, vòi nước sôi giội sạch cuối cùng, lò sấy khô, tính ra giá thành tốn gấp sáu lần khi rửa mọi thứ bằng tay vì nhân công đang thừa. Nhân viên và bệnh nhân đang xin được miễn ăn các thứ thịt cá táp nham cho vào máy xay điện, biến thành bột nhão tổng hợp.

Hoàng Lan cùng với con được ưu tiên xếp vào các nhà được viện trợ, dựng chỗ góc sân bỏ hoang lâu nay. Nhìn ngoài trông xinh gọn, dọn vào ở khi còn rét cũng rất ấm áp dễ chịu. Mái lợp tôn mạ chống rỉ, vách bằng bìa dày phủ nhựa bóng loáng, nền gỗ dán dày cách mặt đất năm tấc, chia thành những căn hộ chừng trên dưới hai chục mét vuông, khối người thèm muốn. Đến mùa nóng bức mới từ lo lắng đến hoảng hốt: nhà chống rét chứ không chống nóng. Cửa sổ bé tẹo, tất cả các chỗ hở trên vách đều theo hướng Đông Tây để hứng ánh mặt trời, không có lỗ cắm phích mở quạt trong các buồng nhằm chống cháy, các giàn chạy nước nóng ven tường vách được nghỉ chơi dài ngày trong khi chủ nhà dắt con sơ tán ra những nơi có quạt, có bóng cây che mát đến xế chiều.

Không một lời nào trách các bạn Đức đã hiểu quá ít về đất nước nhiệt đới chúng ta. Họ làm việc hùng hục giúp ta, ai cũng thấy, ai cũng mến phục. Nhưng bấy nhiêu kẻ ăn lương kỹ thuật, kế hoạch, xây dựng, đều mù câm điếc cả hay sao? Phê bình họ chỉ là húc vào bức tường cao-su, cũng đôi lúc là tường đá tảng gây u đầu sứt trán. Các vị cao cấp nhất của bệnh viện là những nhân vật tầm cỡ quốc gia và quốc tế, may ra vài tháng mới trông thấy đi qua một lần, chỉ dừng nửa phút để nghe ông chủ nhiệm khoa khoát tay về phía nhân viên nói đôi câu về đời sống, lại gật gù và đi tiếp. “Ờ, được, thế là khá, cố lên nhé”.

Cũng chẳng ai trách các vị ấy được. Họ chăm lo đẩy khoa học thế giới lên các đỉnh cao mới, chớ nên quấy rầy họ. Chỉ ngại là đám lau nhau trung gian, đã từng được gọi “trung thì ít, gian thì nhiều”, do nhiều lần trôi giạt mà biến thành những cán bộ lăng xăng “nay tuyên huấn, mai tổ chức, ngày kia bảo vệ”. Đến đâu họ cũng tỏ ra mình thạo việc bằng cách “nêu vấn đề” để tỏ ra mình có mặt là vô cùng cần thiết. Cho họ đi học có hệ thống ư? Học bấy nhiêu năm không tăng lương là thua bạn đồng cấp, là bất công, là dại. Ai cũng nhắc như tụng kinh: “Cán bộ phải vừa đỏ vừa chuyên”, nhưng khi xét người xét việc thì phần lớn các vị cấp trên chỉ xét theo lý lịch, thâm niên, tính ngoan ngoãn dễ bảo được coi là đỏ, còn chuyên là tài luồn lách xoay xở qua hàng trăm bàn giấy để kiếm cho được mươi con dấu đỏ trong hạn ngắn nhất.

Căn buồng mới nhận mười sáu thước vuông của mẹ con Hoàng Lan chiều nay ầm ĩ. Thằng Nhứt không chịu tắm nước lã tuy trời đã trở nóng. Nó lên năm tuổi, mặt mũi giống hệt Tám Thống, chỉ bấy nhiêu cũng đủ cho mẹ nó chiều hơn chiều vong. Suốt mùa rét Lan đun nước tắm cho nó chỗ gần chuồng lợn tập thể bằng bếp mùn cưa, trấu, dầu lửa, tiếp đó nấu thêm món gì phụ vào một suất rưỡi cơm cặp lồng, tắm xong cho con và dọn rửa xong mọi thứ thường đã tám giờ tối. Ngày quần quật từ bốn giờ rưỡi sáng đến lúc này mới tạm dứt. Còn may là Lan đã chữa lành các chứng bệnh từ địch hậu Hạ Lào mang ra Bắc, mới một con, anh Thống đi vắng lâu và chịu khó cùng vợ giữ kế hoạch mỗi khi về Hà Nội, để lại cho Lan tới hai phần ba số tiền anh được nhận, cả trước và sau khi phong quân hàm. Lắm chị vợ bộ đội sống vất vả hơn Lan nhiều. Nhưng hầu hết đều chê Lan: “Chị cưng con quá đó: Cứ như con nhà giàu cầu tự. Năm tuổi mà hờn mẹ còn lăn ra đất, mẹ ngồi bên khấn vái, chị leo cửa sổ trốn con đi làm... nói chị đừng giận, đúng là con hư tại mẹ...!”.

Lan biết mình dạy con sai phương pháp. Nhưng mỗi lần nó khóc ầm nhà, lăn ra đất, mẹ càng van xin nó càng vật mình, đập đầu côm cốp, người mẹ nào không mềm nhũn ra?

Anh Thống nhiều lần thấy cảnh ấy. Anh phớt tỉnh, túm tay vợ kéo lại khi Lan chực lao tới xốc con dậy, kéo tay Lan ra khỏi buồng và khóa cửa đánh tách, nói thật to: “Cứ nằm đấy, ba má đi coi xi-nê”, và giả điếc không nghe tiếng gào xé họng của đứa con sau lưng. Lan bật run cả người, nhưng anh ấy rỉ tai: “Anh dặn bà Tiệp rồi, lát nữa bà ấy bồng con về, rửa ráy, cho ăn, cho ngủ. Anh biếu bà hai lít mật ong, một lạng hổ cốt toàn tính, quà biên giới mà. Em để con hư quá rồi đấy!”.

Anh Thống kéo Lan đi thăm một ai đấy, xem kịch hay phim mới ra lò nào đấy, Lan cứ loạn ù vì tiếng khóc của con đuổi mãi sau lưng. “Thằng Nhứt hư, cả bầy em nó hư theo, nhà mình thành địa ngục mất thôi”. Anh Thống luôn luôn có lý. Có lý mà thiếu tình. Và tất cả những lời dặn khôn ngoan ấy chỉ đến với Lan mỗi năm vài lần, mỗi lần vài ba ngày, may lắm được bốn năm ngày. Ai dám ngăn anh làm nhiệm vụ vào? Chắc chắn không phải Lan, người đồng chí và đồng đội sống giữa lòng thủ đô Hà Nội, chỉ làm y tá mỗi ngày tám tiếng, chỉ đánh vật với đứa con cứng đầu, tiền nuôi nó lại là của người chồng sống nay chết mai nơi rừng núi. Mỗi lần anh về thăm vợ con, Lan sa ngay vào cơn hốt hoảng khi nhận thấy anh gầy đi, da tái sạm hơn, môi thâm sốt rét rừng khi nói những lời âu yếm và soạn ra tất cả những gì sắm nắm hàng nửa năm để mang về giúp vợ con nhưng vẫn áy náy vì thằng kia đứa nọ chưa được may mắn như mình, lâu nay vẫn thân cò lặn lội, vợ con nó ở tít tỉnh Thừa Thiên bên trong giới tuyến, còn chưa nói đến đám đồng đội quê gốc ở Liên khu Năm và Nam Bộ. “Em phải thấy vợ chồng mình ít khổ như ngàn vạn cặp chia cắt khác, còn được lâu lâu gặp nhau...”.

Dù sao, thằng Nhứt vẫn đòi có ba nó. Ba Thống gặp nó ít quá, như ông khách lạ ghé ngang, và mỗi lần Ba Thống về nó lại bị đem đi gửi ở một buồng bà hay cô nào đó vào ban đêm đến tận sáng. Ba đem cho nó kẹo bánh nhiều, nhưng nó không được ở buồng má, nằm chung giường với má, nghe má kể chuyện đời xưa, được má quạt hay gãi lưng cho ngủ. Ba Thống cho kẹo bánh, chở xe đạp nó đi chơi, mua các thứ nó thích ở cửa hàng mậu dịch thiếu nhi, nhưng nó cứ mê chú Sáu Cam hơn ba nó. Đôi lúc nó tần ngần tự hỏi: “Ba Tám Thống tốt hơn hay chú Sáu Cam tốt hơn?”. Nó thường ngủ thiếp đi trước khi tìm được lời đáp.

Sáu Cam bước vào căn buồng lắp ráp trong khu nhà viện trợ của Hoàng Lan. Đúng cái cảnh mà anh đoán trước: con nằm lăn lộn trên sàn ván, gào thét và quật gáy côm cốp để dọa mẹ, còn cô bạn cũ Hoàng Lan đang thút thít lau mắt:

- Anh Sáu à... nhà hết các thứ nấu nước sôi rồi, mà nó cứ nhứt định tắm nước nóng như hồi còn lạnh... Nó chạy chơi té xuống cống, hôi rình từ cổ xuống dưới, không tắm thì sanh ghẻ lở đủ thứ, Lan làm sao?

Bộ mặt của Sáu Cam với bộ râu quai nón rất oai, bỗng biến thành một dấu hỏi to tưởng với đôi mày dựng ngược, cái mồm mở há như con cá hớp không khí, kèm hai bàn tay xòe giơ cao xin đầu hàng:

- Không phải, chị coi lầm rồi, thằng Nhứt là chiến sĩ quân đội ta kia mà. Nhứt nó theo ba nó đánh giặc khắp ba nước Đông Dương, nó hẹn chắc rồi, đâu có sợ tắm nước lạnh?

Nhứt lồm ngồm chống tay ngồi dậy, rướn mình định đứng dậy, lại ngồi bệt duỗi hai chân chống hai tay. Nó không thể nằm lỳ vì chú Cam cú giụi mắt xem có phải lính Cụ Hồ nằm vạ không, nhưng không đứng được vì sợ mẹ coi như nó chịu thua.

Trên khuôn mặt hơi dài với nước da trắng và đôi mày thưa giống cha, rất dễ thấy những nét bẽn lẽn và hờn dỗi tranh chỗ nhau.

Sáu Cam khoắng tay vào chậu nước bằng tôn đặt chỗ góc buồng, bên chiếc ghế đặt khăn tắm và bộ quần áo sạch, trầm ngâm:

- Con nhà lính, tắm bấy nhiêu nước ăn thua gì. Phải tắm sông tắm biển kia. À mà nước cũng hơi lạnh thiệt đó, hơi hơi thôi, chắc ra khỏi vòi lâu rồi hả?

Nhứt chồm hẳn dậy, kêu như reo:

- Cháu nói rồi, má cứ nói không lạnh gì hếếết!

- Đồng chí Nhứt chú ý, nghiêêêm! (Thằng bé rập chân đứng nghiêm, trên còn áo, dưới cởi truồng). Giờ thể dục bắt đầu! Xuống sân, đi thường, bước!

Hoàng Lan cố nín cười trong khi hai chú cháu bước xuống hai bậc cấp bằng gỗ, tiếp những tiếng hô rất chính quy của Cam:

- Thành một hàng ngang, tập hợp! Phút khởi động bắt đầu, chạy tại chỗ, chạy! Tay cao... tay ngang... tay sau... chạy thường... tay trước... tay cao...

Hai tiếng chân chạy lộp cộp trên nền đất bên ngoài. Chừng mươi phút sau, có tiếng thằng con hổn hển:

- Mệt rồi chú... nực quá... chảy mồ hôi...

- Ngừng chạy, hồi tĩnh, thở đúng động tác!

Cam vọt lên nhà, vơ bộ áo quần sạch, khăn, cái gáo to có cán, cả tấm chăn bông chần màu ka-ki của Lan, chạy xuống chỗ thằng bé đang hít thở bàng cả hai tay lẫn bộ ngực khi cúi khi vươn. Cả hai túm tay nhau vừa chạy vừa cười ập vào một ngăn trong dãy nhà tắm công cộng của khu tập thể đang trống cửa. Lan hơi hoảng: anh ấy có giữ cho con khỏi bị viêm họng, cảm lạnh, bệnh phế quản, hay cứ coi nó như một người lính mà anh chỉ huy?

Mười lăm phút sau, Cam bế xốc chạy về buồng một bó chăn kín bưng, từ đó dội ra tiếng oai oái: “Nực quá chú ơi, cho cháu ra chút, má đâu chú? Má đâu?”

Không một người mẹ nào cưỡng nổi tiếng gọi của đứa con mồ côi cha lên tiếng gọi má. Từ trong đống chăn tùm hụp chợt nhô ra cái đầu đỏ hồng tươi nở của đứa con chuyên bắt nạt mẹ:

- Thích lắm má ơi, má tắm cho con y như chú Sáu nghe má. Ba Thống đi miết, má dặn chú Cam tới miết nghe má!

Sáu Cam và Hoàng Lan đều giả vờ không nghe tiếng gọi của đứa bé. Cam ra đi ngay để tránh những cuộc giảng đạo của bà Ất hay đến vào buổi tối.

*

Một tuần sau lần Sáu Cam quay lại với mẹ con Hoàng Lan ấy, hai người lại gặp nhau ở chỗ Lan ghi hẹn là vườn Bách thảo, dưới chân núi Nùng. Lan không muốn có đôi mắt gia trưởng đến mức chuyên chế của bà Béo luôn tự coi mình là người dang tay che chở cho người cháu xa lắc là Tám Thống. Bà chỉ chuyên phá rối người khác, chẳng giúp được gì ra hồn.

Hai đồng đội cũ đi dạo thong thả quanh các chuồng khỉ, chuồng hươu cao cổ, dừng ở bên chuồng lạc đà có rào sắt và điện khá sáng, như cùng muốn tỏ cho ai đấy gặp tình cờ rằng họ chẳng có gì phải tìm đến chỗ tối. Dưới chân họ còn rải rác những dải giấy và mảnh công-phét-ti nhiều màu chưa quét hết, dấu vết rớt lại của ngày Hội thanh niên mừng Đảng ta ba mươi tuổi. Hôm ấy Cam đi giữa đám bạn cùng lớp, gặp mẹ con Lan, chỉ đưa tay vẫy kín đáo và đi thẳng. Còn may thằng Nhứt không trông thấy, Cam không bị nó réo gọi ồn ào.

- Anh Cam còn giận hả anh? Lan đã nói bà ta hối lắm mà.

- Hối hay không là việc riêng của bả, tôi không biết, cũng không cần biết. Bao nhiêu năm ăn cơm góp thiên hạ, tôi quen ngàn vạn người, hơi đâu để ý đến một bà Béo gặp thoáng qua. Nhưng cố ý gây sự với tôi là dại. Anh Tùng không can, tôi đã xốc tới cơ quan của bả, đưa lá thư bả, ghép bả vô tội vu khống, bôi nhọ danh dự...

- Anh... anh Cam... coi vậy chớ bả tốt bụng thiệt đó anh.

- Tốt hay xấu tôi không muốn để ý. Tôi quý anh Thống tôi thích đến thăm, đưa thằng nhỏ đi chơi, chạy giúp đôi việc lặt vặt. Bây giờ không thích nữa, vậy thôi. Tôi thiếu gì bạn!

Lan tắc họng, mắt bốc nóng rất nhanh, nước mắt đã bắt đầu ứa. Nhưng thói quen ghìm mình của cô bộ đội cũng nổi dậy đúng lúc. Lan buông với cái giọng lạnh ngắt của Cam:

- Tùy ý anh. Về hè!

- Chào Lan.

Mỗi người đến lấy xe đạp của mình dựng tựa hàng rào sắt. Cam gật đầu chào lần cuối, đạp về ký túc theo đường Thanh Niên, biến nhanh. Lan thong thả về theo đường Phan Đình Phùng, lúc này còn đông người qua lại. Cơn tức nghẹn dịu xuống dần, trong khi cả một búi tơ vò những xúc động từ từ dâng lên mãi, nở to mãi. Lan rẽ sang vườn hoa Hàng Đậu, ngồi vào chiếc ghế đá thấp không lưng dựa của trẻ con, úp hai tay vuốt mặt, từ từ cúi đầu.

Hai cậu trai trẻ ngất ngưởng bá vai nhau đi qua, hình như nhậu nhẹt đã ngà ngà. Họ dừng cạnh chiếc xe đạp của Lan, rỉ tai nhau lè nhè nhưng vẫn lọt tai Lan:

- Bò lạc mày ạ. Xe còn mới.

- Mới sơn lại chứ tồng tộc rồi. Tã! Xem con bé thế nào?

Lan đã gặp vài chầu bị ghẹo. Hồi còn mặc mấy bộ quân phục còn lại khi chuyển ngành sang làm y tá, các tay du đãng mới thấy đã lảng xa. Đừng trêu vào các ả “lính cái” mà hốc xực. Con người thì vêu mõm, nó ới một tiếng thì bất cứ ai mặc đồ lính hay công an đều lao tới bênh, mà có đứa sao quả tạ chiếu mệnh tưởng được ôm văn công xinh giòn lại bị các mẹ đặc công khóa tay vất nằm la liệt trên hè phố, đã khốn lại nhục với các bóng hồng nhẵn mặt cứ che miệng cười khi bước qua vội. Lắm đứa ê ẩm quá phải lặn về Hải Phòng hay Nam Định khá lâu, được bạn nhắn tin mới dám trở về Hà thành chốn cũ.

Sau một tiếng è hèm rõ to trong miệng, Lan nhấc cái mũ cứng bộ đội úp lên đầu-dù chỗ gắn quân hiệu chỉ còn là hình tròn sẫm trên mài ka-ki đã bạc, nhưng Lan vẫn đội khi không thích ai nhận ra mình, khi phải trả lời câu hỏi đầu lưỡi: “Đi đâu đấy?”. Đi gặp anh Cam càng phải úp mũ sâu hơn, tận mắt. Hai tay Lan bắt đầu xắn đôi tay áo vét diện nhất bằng xi-mi-li. Hai cậu kia chừng đã nhận ra dấu hiệu chẳng lành, níu vai nhau ngả nghiêng đi tiếp.

Chỉ qua bấy nhiêu phút thôi, những búi tơ vò chợt vỡ tung trong ngực Lan.

Mình là gì hở Lan? Em là gì hở anh Thống? Và... Lan là gì, em là gì đối với anh Cam? Zê-rô. Số không. Một mảnh con gái mồ côi cha mẹ. Một tình yêu vội vã nơi chiến trường nước bạn, trăm trai chỉ có một gái. Một người được thương hại khi tập kết ra Bắc, chồng vắng xa, con nuông đến hư, cần bàn tay đàn ông giúp, phải chiều lụy rất nhiều người để gửi con một buổi bận họp, một tối học thêm, một vài chuyến mua gạo củi và các thứ khác theo tem phiếu, và cả vai trò ngoáo ộp để buộc con chịu tắm rửa hay cho mẹ trốn qua cửa sổ đi chợ.

Còn anh Sáu Cam... Em quen anh lâu rồi, mến anh lâu rồi, cũng bị xa anh quá lâu rồi. Nhưng khi lấy chồng, em lại lấy anh Thống. Nếu ai hỏi tại sao, em sẽ không trả lời được, hay chỉ đáp chung chung: tìm hiểu lâu, thấy hợp nhau, cùng xây dựng. Chung quanh sẽ gật đầu ưng ý cả. Không ai có thể chê trách tí gì về anh Tám Thống, về đám cưới vội vã trước khi tập kết hai người hành quân hai nẻo, mà chỉ có những lời than giùm thở hộ rất thật bụng, sau đó ít lâu là những lời chia vui khi hai ngả đường gian nan lại giáp mối tại miền Bắc, khi đứa con đầu lòng dẫm chân trên đùi mẹ nhảy những bước đầu đời vào chủ nghĩa xã hội. Bà nào, chị nào buồn nhớ đến chồng con ở lại “nằm vùng” trong Nam cũng chỉ cười gượng mà không dài lời kể khổ trước bộ ba rất xứng đáng được sum họp này.

Nhưng, khốn làm sao, Lan cùng với con vẫn luôn cảm thấy có chút gì đấy khang khác giữa Tám Thống và Sáu Cam. Đứa bé chẳng có lỗi gì: ba Thống mang quà về cho nó lắm khi quên lời hứa hay chọn những thứ nó không ưa, dù đã hết lòng thương con: cho một đôi đũa ngà voi rừng, nó lại thích đũa nhựa trắng rẻ tiền hơn; một tượng gỗ lâu năm của đồng bào Tày, nó chỉ chơi vài phút rồi đút gầm giường để mải mê theo chiếc ô-tô sắt tây có chìa vặn cót.

Chú Cam ít đến, nhưng mỗi khi đến thì thằng bé bám chú không rời một phút. Chú không bắt nó ngủ nhà khác xa mẹ, đành rồi. Chú cũng không mang quà gì nhiều, không vuốt ve nó hay khen bé ngoan, bé khỏe, chẳng hiểu vì sao nó cứ coi chú như người toàn quyền ra lệnh cho nó, chú cứ chỉ huy và nó cứ vui vẻ phục tùng, lo lắng khi chưa hiểu ý chui muốn nó làm gì. Và nó chỉ chống chọi từng tí một khi Lan gắng gượng uốn nắn nó.

Anh Thống, anh Cam, các anh có hiểu được lúc này em đang cần một người đàn ông trong nhà không? Khi đánh giặc, em chưa hề bị ai chê là sợ chết, sợ khổ. Đến quãng đời này, sao em mềm nhũn đến thế? Anh Thống qua đời rồi, ai sẽ giúp em đi tiếp chặng đường nuôi con khôn lớn? Anh Cam ư? Dứt khoát không là không. Một người bạn chân tình đã chấm dứt tình bạn, ra đi không ngoái cổ lại. Bà Ất ư? Bà ấy sẽ say sưa cầm quyền bên ngoài đám chồng con đang tìm đường chạy trốn khỏi cái ách độc tài của bà, để thống trị em, dù cháu bà đã hi sinh trên biên giới.

Về đến căn buồng mới được phân mười sáu mét vuông, với các thứ nhà tắm nhà xí mới sửa sang lại nằm cạnh khu chuồng lợn tập thể, Lan sang buồng bên bồng thằng Nhứt về sau khi giúi một gói kẹo mua dọc đường vào tay con chị hàng xóm. Thằng bé yêu quý nhất của Lan vẫn ngủ say, giẫy chân, từng lúc gọi ú ớ, Lan ghé tai nghe. Nó không hề gọi tiếng gì có thể hiểu là Ba Thống.

Lan tắt đèn, ôm ghì con trong tay, khổ thật, nó nói mơ vài lần lại một lần gọi chú Cam.

Làm sao cho nó hiểu, chú Cam đã xóa sổ mẹ con ta ra khỏi danh sách hàng ngàn vạn người bạn của chú? Chú đang xoay xở mọi cách để trở về miền Nam, đâu muốn vướng mẹ con mình? Ngủ yên đi con, đứa con vô cùng yêu và quanh năm làm khổ mẹ, cố gắng ngoan thêm cho mẹ được nhờ...

Trong những ngày làm lại bản khóa luận về văn học dân gian liên khu Năm-Cam cứ phải chấp nhận một cách gọi miễn cưỡng theo kiểu hành chính, vẫn luôn ghi chú thích cuối trang là bao gồm phần đất từ đèo Hải Vân đến Tây Nguyên, giáp với Đông Nam Bộ-cậu sinh viên chuyên mặc áo cũ vá vai hai túi dường như quên cả giờ, ngày, tháng, mặt mày phờ phạc ngẩn ngơ đến quên cả tên các bạn trong ký túc, sau bữa cơm không nhớ đã ăn hay chưa. Cam đang chuộc tội. Mồm cứ cao đàm khoát luận về trách nhiệm đối với vùng đất quê hương, khi viết về vùng đất ấy lại đẻ ra một mớ giấy loại mà người xứ xa cũng phải lắc đầu, quá ư là sượng mặt...

Mỗi mùa thi, ký túc linh động cho phép anh chị em xuống nhà ăn bật đèn học gạo sau kẻng ngủ, nếu là một nhóm năm bảy người trở lên và được trưởng lớp đề nghị. Cam chẳng muốn phiền ai, mỗi tối ôm xuống nhà ăn một chồng sách tham khảo với cây đèn dầu tự sắm, cố moi những tư liệu hiếm hoi về đất nước và con người ở quê mình, từng lúc chép miệng ghen với các bạn đang viết về hát dặm Nghệ Tĩnh hay ca dao vùng mỏ, dân ca Mường Thái Tày Nùng, có thể săn lùng tư liệu tại chỗ, không bị giới tuyến nào cắt ngang. Sau mỗi buổi lên lớp, Cam lại hớt hải chạy tìm các ông bà đồng hương cao tuổi, chỉ có thể gặp ngoài giờ hành chính, cùng nhau chìm đắm vào những chuyện xa xưa, cố ý không biết đến những vòng xoáy trôn ốc của các con cháu khua chén đĩa mỗi lúc một to, cùng các bà vợ gốc Bắc cưới sau năm tập kết rất cả ghen và đầy nghi ngờ cứ đem mũ và áo mưa của Cam đặt thành đống trước mũi khách, tiếp đó lại bảo người nhà bưng mâm cơm đặt đè lên tất cả mớ giấy tờ bày trên mặt cái bàn tự đóng bằng gỗ thùng, phủ lớp ni-lông cho dễ lau. Đó là tín hiệu cuối cùng buộc khách ra về, còn may đó là một cậu trai trẻ có thể làm rể gia đình, chứ không phải ả đang ngứa ngáy kiếm chồng theo khẩu hiệu mới là “tình yêu lớn không bằng đám cưới nhỏ”.

Rồi bản khóa luận mới cũng xong. Theo lệ thường, lớp trưởng Tùng xua tay hối hả: “Tớ biết gì mà đánh giá! Cậu đưa thẳng lên bộ môn, lên khoa, đừng hỏi tớ!”. Nhưng Sáu Cam biết rõ anh trốn xuống nhà ăn vào lúc vắng, kín đáo đọc bản khóa luận đến khuya, sáng hôm sau đưa trả với một nhận xét rất gọn: “Có thể điểm năm”. Các trường hồi ấy đều cho điểm phân loại từ 1 đến 5 theo kiểu Liên Xô. Một tuần sau, Cam được bộ môn văn học dân gian biểu dương trước lớp, trên khóa luận có hai thầy một cô đều cho điểm năm bằng mực đỏ, kèm theo những lời khen nhiều mức độ và chữ ký rất chính quy.

Ông bạn Lê Tùng được Cam kéo ra một quán cóc gần ký túc đãi một chầu cà-phê, cà phê phin hẳn hoi chứ không phải thứ cà-phê túi hay bít-tất đun từng nửa lít trên bếp than quả bàng bán rẻ tiền cho học trò và các lớp dân nghèo khác, kèm theo khoai sắn luộc. Một thứ nước đăng đắng lờ lợ có họ hàng xa với những giọt đen đang rỏ trong ly. Thuốc lá Hoàn Kiếm năm hào mốt một gói, bằng năm trăm đồng cũ, hút từng điếu lẻ cũng vừa túi tiền.

Anh Tùng dặng hắng vài lần trước khi nói khẽ:

- Mấy đứa mình quen có hỏi hộ cậu... (Cam nghĩ nhanh: ông ở Tổng cục chính trị nhiều năm, quen rộng khiếp!). Trung ương mới chọn một số rất ít đưa vào miền Nam cậu ạ. Mười hay mười lăm đơn mới lấy một. Trong ấy mới cho dùng vũ trang để tự vệ thôi, chưa được đánh to như hồi chống Pháp đâu. Nhiều đồng chí mình cắt máu viết đơn vẫn chưa được duyệt. Cậu đừng nản, đừng rầu Cam nhé. Học nữa đi, học nhiều vào, miền Nam đang thiếu trí thức cách mạng để sắp tới ăn nói với trí thức trong thành.

Ông bạn lớp trưởng nói dè dặt, ngả sang chuyện quấy tếu.

Sáu Cam đột ngột được gọi lên gặp Ban giám hiệu mười hôm sau, đầu giờ văn học Trung Quốc. Cạo hay khen, giao thêm việc hay bớt việc, giảng đạo đức hay đánh giá học lực? Trong mười lăm phút ngồi chỗ cô văn thư, chờ Ban giám hiệu xong việc hỏi đến, Cam chỉ ngồi lim dim mắt, không để ý đến cô văn thư niềm nở rót nước chè mời không giống lệ thường, cũng chẳng biết cô ngừng tay đánh máy để ngắm khá lâu cậu sinh viên áo lính.

Được gọi vào phòng hiệu trưởng, Cam gặp ba người đợi sẵn. Bác bí thư Đảng ủy, anh phó phòng tổ chức trẻ hơn, và một ông tóc hoa râm nói giọng Cực Nam Trung Bộ, quãng từ Nha Trang đến Phan Thiết, được giới thiệu là “đồng chí vụ phó trong Ban tổ chức Trung ương”. Cam nhận thấy ngay: không nói tên, không xưng vụ nào trong Ban, nhưng đang cầm tập hồ sơ do Cam tự viết tay đã nộp thẳng lên Ban tổ chức, qua bác chủ tịch Hội đồng hương tỉnh Quảng Nam chứ không nhờ nhà trường chuyển.

Sau Nghị quyết Trung ương Đảng giữa năm 1959 cho phép Đảng bộ và cơ sở miền Nam tự vệ bằng vũ trang, trong mấy chục vạn cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết cùng bà con họ hàng gốc Nam gốc Bắc của họ đang diễn ra nhũng đợt sóng ngầm dữ dội. Gọi là sóng vì mỗi gia đình đều cảm thấy nền nhà rung chuyển, khi người chủ gia đình hay mấy đứa con mới lớn lên đùng đùng bỏ việc, bỏ học, đòi lao về miền Nam đánh Mỹ-ngụy.

Gọi là ngầm vì tất cả những vụ mộ quân gọi lính ấy đều diễn ra trong vòng tối mật, bên ngoài bộ máy Đảng và Nhà nước cùng các tổ chức bên dưới. Các Đảng ủy và thủ trưởng chỉ được biết một đồng chí A hay B nào đấy được điều đi công tác đặc biệt, cắt biên chế, cắt hộ khẩu, xóa tên trong quỹ lương, hiểu sao đó thì hiểu, muốn đoán mò là đi miền Nam, sang Lào, sang Cao Miên, đi làm tình báo chiến lược ở bất cứ nước nào trên trái đất cũng chẳng cần biết.

Những người từ chối nhiệm vụ đặc biệt này cũng không ít. Vô vàn lý do được nêu lên để lẩn tránh: sức khỏe kém, đang say mê công tác, nặng gánh gia đình, nghề chuyên môn không hợp với miền Nam lúc này... ông Ba Mậu, ty phó một ty Giáo dục tỉnh đang cố ngoi lên làm ty trưởng, đã rặn ra ho khan một hồi khi được cán bộ đến thăm dò. Ông khôn hơn nhiều so với một trí thức khác khi nói toạc móng heo rằng “đưa vào miền Nam chỉ nên thí quân chứ không nên thí tướng”.

Ông vụ phó trước mặt Cam lúc này nom hiền như ông bụt. Ông lơ đãng lật từng tờ trong hồ sơ của Cam, cất giọng rì rì:

- Hồi đánh Tây, tôi được dịp tới Tây Quảng nhiều lần, gặp anh Cả Chanh, anh Năm Chò, bác Tư Chua, chị Hai Thùy... ai cũng nói thằng Sáu Cam, xin lỗi, là đồng chí Phan Cam đây, phải là người học giỏi nhứt trong huyện, ít nhứt là trong họ Phan... Nguyện vọng vậy, ta không bu theo đâu, nhưng chánh sách chung là ai đang học nửa chừng ở miền Bắc thì không rút vô Nam. Hoãn lại ít lâu thôi, chắc đồng chí Cam thông cảm... Tốt nghiệp rồi, xin hẹn đem xe tới rước!.

Cả xấp hồ sơ xin về Nam của Cam được gửi lại Đảng ủy nhà trường. Khi bác bí thư Đảng ủy hỏi lần cuối: “Thông rồi chứ?”, Cam chỉ cười gượng, đáp kiểu con nhà lính: “Chưa thông thì đả cho thông”, theo kiểu chỉnh quân hồi cuối kháng chiến, quen nói “đả thông tư tưởng”.

Thôi thì đành, học đi, gián tiếp làm gì cho miền Nam cứ làm đi Cam ơi, đừng vùng quẫy thêm rối chuyện.

Sáu Cam lại lao vào học như đứa dại gái, săn lùng tài liệu hiếm hoi về cụ Đồ Chiểu và các tác giả hữu danh cũng như khuyết danh ở liên khu Năm, ghi đầy nhiều cuốn vở trăm trang về tư liệu văn học, tiếp đó lại ngồi thừ ra hàng giờ để coi lại mình đã làm việc có ích hay vô dụng. Mãi đến khi một tạp chí lớn của trung ương đăng bài khóa luận về văn học liên khu Năm của Cam, có sửa đôi chút nhưng kèm theo Lời tòa soạn khen ngợi kha khá, Cam mới nghĩ rằng mình có thể đóng góp tí xíu nào đó cho quê mình.

Duy có một điều Cam cố giấu mà vẫn bị lộ: Cam bỏ tập điền kinh khi dứt môn đẩy tạ, phóng lao, chuyển sang xà đơn, xà kép, xà lệch. Anh huấn luyện viên thúc ép mãi không được, cáu sườn, lên Phòng tổ chức nhà trường lục xem hồ sơ chuyển ngành của Cam, lật tẩy được cậu lính cũ này bị tật ở khuỷu tay trái, chỉ còn xấp xỉ một nửa mức thường. A hà hà, người ta khai tăng thương tật để lĩnh thẻ thương binh loại cao, còn hắn cố giấu thương tật để xin về đánh Mỹ ở miền Nam, không chịu đi giám định thương tật. Anh huấn luyện viên chỉ quen đánh giá con người theo số điểm thi đấu, phải mất mấy ngày băn khoăn trước khi gạch tên Phan Cam trong số gà nòi của anh sắp dự thi sáu môn, tám môn, mười môn phối hợp giữa các trường đại học và cao đẳng toàn miền Bắc.

*

Từ trường bồi dưỡng những người vào Nam, anh Năm Chò tạt về thăm Cam. Con người anh không hề đổi khác: vuông vức, đen như củ súng, tóc cắt ca-rê, áo quần con nhà lính. Chỉ khác khi anh nói và viết: ở nông trường Sao Vàng anh đã học hết chương trình cấp Một, lấn sang cấp Hai, và mấy tháng chính trị học chính quy cũng giúp anh nhích cao hơn thời làm thợ đào than ở vùng mỏ.

Anh nói thật tình:

- Hồi trước tao nói với mày miền bắc bỏ rơi miền Nam là sai nặng, Cam à. Không phải vậy. Dạo đó Đảng mình lo sửa sai, tao quá ngán rúc xuống lòng đất đào than kiếm tiền, bạn bè ca kíp chẳng hiểu gì hơn tao, tốt bụng thiệt đó mà dốt chánh trị cả lũ... Chỗ nông trường Sao Vàng đón anh em miền Nam ra nhiều lắm, ngày đêm bàn tính chuyện giải phóng miền Nam cách nào ít tốn xương máu nhứt. Anh em ra đi nhiều rồi. Đứa nào cũng đổi tên, làm lý lịch giả, để bọn ngụy trong kia khỏi làm hại cha mẹ vợ con. Học chánh trị ở trường Sơn Tây lu bù, còn thêm những đêm thề giữ khí tiết cách mạng, thà chết không khai báo, úi cha cha! Là tại ủy ban quốc tế cứ ngả nghiêng hoài, bọn Mỹ-Diệm trong kia la ó rầm trời là ta đưa từng trung đoàn, sư đoàn miền Bắc vô đánh nó, mỗi đứa nói một phách, cả thế giới đang chưng hửng...

Thế nhưng động đến số phận của Cam thì anh vẫn cắn cưa, trước sau như một:

- Học đi em, học giỏi đi cho làng xóm với bàn dân thiên hạ được nhờ. Bao nhiêu lý lẽ, anh Cả mày với cả nhà nói hết rồi, thành nghị quyết rồi, cứ vậy mà làm, đừng ý kiến ý cò lôi thôi!

Không sao cưỡng được nữa, Cam chịu khuất phục. Chỉ còn biết cười chua chát:

- Tiếu tựa văn nhân lạc đệ thì...

- Là sao?

- Cười như cậu bé hỏng thi... Coi như em thi rớt một keo chớ sao!

Anh Năm trở về Sơn Tây, hẹn sẽ đến thăm Cam nhiều hơn. Dạo này chuyển sang học quân sự, số cán bộ dân chính lóng ngóng vất vả trong khi lớp chỉ huy chiến đấu cũ được rảnh rỗi hơn.

Guồng máy của đời học trò quay mỗi ngày một nhanh khi tiết trời ấm lên và đợt kiểm tra cuối năm nhích dần tới. Cam không còn trằn trọc trên “kiến trúc thượng tầng” của chiếc giường ký túc nữa. Chẳng biết có bàn tay sắp xếp của lớp trưởng Lê Tùng không, mà cả lớp đột ngột bầu Cam làm cán sự bộ môn lý luận văn học, một việc hóc búa bị sinh viên đùn đẩy cho nhau, ngay Cam cũng đã một lần từ chối trong khi chờ trên xét đơn xin về Nam. Lần này thì nhận. Làm việc chúi mũi cho nguôi thất bại, phần nữa cũng vì các thầy chủ nhiệm Khoa và bộ môn gọi Cam lên dỗ dành khá lâu.

Kết quả học tập của sinh viên đang xuống dần đến mức báo động.

Đầu năm ngoái, sau hai tháng về giúp nông dân gặt mùa làm chiêm và xây dựng các hợp tác xã thí điểm, nhà trường rầm rộ phát động phong trào “cần công kiệm học” theo kinh nghiệm các trường Trung Quốc, song song với phong trào “tiến nhảy vọt” trong các ngành kinh tế. Các đoàn tham quan Trung Quốc về đi báo cáo về những chuyện thần kỳ: ruộng lúa cao sản tới bốn chục hay sáu chục tấn một công mẫu, lợn cắt mẩu tai và ăn phân trâu to bằng con bò, gang thép nấu bằng rơm rạ đã vượt nước Anh...

Trường đại học Tổng hợp I say mê nhảy vọt. Sáng chế, sáng tạo, sáng tác, sáng kiến... Ai cũng thấy mình đang đổi mới tất cả các ngành khoa học tự nhiên và xã hội đang bị tư tưởng sùng bái phương Tây đè bẹp dí, kẻ nào dám nhắc đến các sách giáo khoa Âu Mỹ hay cả của Liên Xô, Đông Âu nữa, đều bị coi như phần tử phái hữu, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, gì gì nữa. Lồ hũ, là tiếng quen nghe mỗi khi ai đó rụt rè nêu câu hỏi về những bức ảnh chụp năm bảy chục người đứng trên ruộng lúa cao sản sắp gặt mà bông lúa không hề lún.

Còn rất may là Đảng ta, nước ta không bắt chước rập khuôn bất cứ ai. Kể chuyện nước bạn cứ việc kể, ta cứ làm theo hoàn cảnh của ta, tránh được nạn đói và nỗi thất vọng sau đột bốc đồng “phấn đấu ba năm, hạnh phúc muôn đời”.

Nhưng sinh viên năm thứ nhất và thứ hai học kém đi khá rõ. Cán bộ giảng dạy nhắc nhở ngày một nhiều, cho điểm kiểm tra ngày một thấp tuy bị sinh viên chê trách là mắc bệnh “chuyên môn thuần túy”, đôi khi bị ghép vào tật “sùng bái phương Tây”.

Một loạt cuộc họp chẩn bệnh và chữa bệnh diễn ra khắp các khoa. Kết quả nhiều chỗ trái ngược nhau. Bên phía khoa học tự nhiên, như Toán, Lý, Hóa, Vạn vật... số đông cán bộ và bộ đội đi học bị đuối, phải xếp số học sinh phổ thông lên giúp đỡ, giảng lại bài, không kể giờ các thầy cô phụ đạo. Còn phía khoa học xã hội thì ngược lại: quá nhiều học sinh trẻ ngẩn ngơ trước những tác phẩm Văn, Sử, Địa hoàn toàn xa lạ đối với những học sinh chưa một lần bước ra khỏi các thành phố bị Pháp chiếm, đọc các cuốn sách của tác giả kháng chiến cứ như chim chích lạc vào rừng. Phải mất nhiều thì giờ để cho họ hiểu đời sống của bộ đội, du kích, dân công, súng K.50 là thứ gì, mìn muỗi nó ra sao, tại sao chiến trường Đông Dương lại chia lắm khu vực đến thế, và miền Nam nước ta đối với họ là một vùng đầy bí ẩn như lưu vực sông A-ma-zôn hay các dải đất cực bắc Xi-bir của Liên Xô chưa được khai phá.

Khoa Sử ngừng nấu các thứ hóa chất gây quỹ. Khoa Ngữ Văn ngừng bán sách lăng nhăng trên tàu điện, ngừng nấu xôi sáng bán ở cửa ký túc. Ai cũng muốn “cần công kiệm học” theo đúng ngành nghề, nhưng sinh viên Sử mới vào trường thì ai chịu chi tiền cho đi nghiên cứu Sử, khoa Ngữ Văn muốn lập nhà in thì ai chịu bỏ vốn cho số tài tử ấy mở nhà in? Và ai chịu in những tập lạo thảo ấy của những kẻ mới tập tọng vào nghề?

Lại phải quay về với lời dạy của Lê-nin thôi? “Học, học nữa, học mãi”.

Và Sáu Cam, sau bấy nhiêu tháng băn khoăn chao đảo, lại tìm an ủi trong học tập và công tác.