Chương 6
Suốt đêm ấy, trong căn lều rách tướp giữ rẫy của bà con Cà-tu, có bốn người nằm chung với nhau mà không một lúc ngủ chung. Không ngủ được. Sáng mai sớm, giao liên đến đón khi gà gáy đầu. Anh Tô Xáng ra họp Trung ương với bộ râu mép của cai lục lộ, cùng anh Hai Thỉnh với tất cả bộ dáng tư sản vòng quanh Đông Dương sang trọng của anh. Còn lại ở chỗ căn cứ vùng Cà-tu này đồng chí Thanh Trà tức Phan Chanh, mới nhìn là một ông lão người dân tộc ở Tây Quảng Nam, xỏ tai búi tóc cởi trần đóng khố, cõng lek vác dáo, miệng còn nhai trầu bỏm bẻm và nói nhiều thứ tiếng Cà-tu, Ve, Cà-dong, Kor. Người cuối cùng là đồng chí Pheng, mặc phạ-xà-lùng và áo ngắn Lào từ bên kia mang sang, bắt liên lạc với bên ta, nói gì cũng phải qua anh Hai Thỉnh hay Cả Chanh dịch nghĩa. Từ những năm trước cùng đi với Chanh, anh đã có màu da sẫm, mái tóc búi ca-rê, thân gầy, đôi chân trổ chàm từ trên tới dưới đầu gối, nên có lẽ anh là người ít đổi hình dạng nhất trong bốn người Lào-Việt nằm trên sạp và võng đêm nay.
Các bạn Lào đã khởi nghĩa võ trang sau khi các lãnh tụ Pa-thét Lào thoát nhà giam và thoát án xử khó tránh khỏi cùa Mỹ-ngụy Lào. Phái Việt Nam đã có Nghị quyết Trung ương 15 cho phép dùng võ khí để tự vệ, không để địch giết cộng sản xả láng nữa. Anh Tô Xáng được cử ra Trung ương dự Đại hội III của Đảng, còn được nhận lời dặn quyết liệt của Cả Chanh: hễ anh biểu quyết giải phóng miền Nam và thống nhứt nước nhà bằng hòa bình, tôi sẽ là đứa đầu tiên bỏ phiếu khai trừ anh ra khỏi Đảng, vì lý do anh là phần tử cơ hội, đầu hàng. Tình nghĩa chúng ta sẽ được đo bằng lá phiếu của anh, nếu cần tôi xin trả tiền mấy bữa cháo cá của anh chị trên sông Cửa Đợi hay sông Linh! Anh chị ghét tôi mãn đời, tôi xin chịu tội trước anh chị, mà không chịu tội trước Dân, trước Đảng!
Có người dè dặt, có người bạo mồm như Chanh, nhưng không khí chung của cuộc họp tỉnh ủy là thế-cuộc họp của số đồng chí còn sót lại trong tỉnh ủy. Chưa cộng được con số đúng, đã ước tính được đến chín mươi phần trăm đảng viên ở lại trong tỉnh đã bị giết, bị tù gần đày xa, bị đánh tàn phế, đã ký giấy xuất thú đầu hàng để sống gắng gượng từng ngày quản thúc, cũng có kẻ trở mặt thành chó ngựa cho giặc trăm phần trăm. Đã có Nghị quyết Trung ương 15 thật đấy, nhưng Đại hội Ba sẽ duyệt hay bác bỏ?
Đối với đồng bào lối xóm, cả những đảng viên ít học ở thôn xã, bất cứ anh nào cõng bao chống gậy đi đêm đều là cán bộ, đều nói tiếng nói của Đảng cả, dù đó chỉ là một anh tiếp phẩm đi lùng mua muối cho cơ quan huyện. Các tỉnh ủy viên, khu ủy viên gánh trách nhiệm đổi với từng câu từng chữ trong nghị quyết của từng cấp, nói lịch sự là sai một ly đi một dặm, nói sừng ngổ như cậu Bảy Chẩn “đái một bãi đái, sái một chuyến buôn”.
Nhắc tới thằng Chẩn, cả tỉnh ủy hay rơi vào một phút ngậm ngùi. Ai cũng muốn gài cho nó một cái hiệu thật độc đáo: thằng liếng khỉ, thằng rắn mắt, thằng con ranh con lộn, thằng đá cá lăn dưa, ôi đủ thứ. Nhưng khi tỉnh ủy tự bầu bổ sung thay một vị kỳ cựu ra đầu thú giặc, nó trúng hầu hết số phiếu kín, chỉ thiếu lá phiếu của chính nó. Các đồng chí nghĩ kỹ lại đi, tôi mới hăm tám tuổi, tánh nết như Tôn Ngộ Không, chẳng gương mẫu chút xíu nào hết, đưa tôi vô cho nát tỉnh ủy à? Uy tín chẳng có, nói ai dám nghe? Vậy mà cứ trúng. Nó gương mẫu theo kiểu lính đánh Tây, việc vặt nó chẳng kể, vào việc lớn nó nghiêm đến phát khiếp. Nó ở chung cơ quan với anh Tô Xáng “cai lục lộ”, nhưng lăn lộn với bà con Thượng và Kinh mỗi tháng ít nhất hai mươi ngày đêm, khó biết nó ngủ lúc nào, lên biên giới Lào hay xuống đồng bằng lúc nào.
Lần đầu gặp Cả Chanh từ cánh Nam Quảng Nam về họp, nó đã phong luôn cho anh là “ông cụ người Thượng”, tiếp đó nó tự rút gọn thành “cụ Thượng”, hiểu là cụ Thượng thư hay cụ Thượng du đều được. Nó bị địch phục bắt mươi ngày trước khi họp tỉnh ủy. Cơ sở báo tin về, đau buốt ruột: nó bị một tên phản bội nhận ra, chỉ nhất định nói tên giả, tuổi giả, quê giả, là thanh niên trốn quân dịch phải lên rừng, đói quá tìm về xin ăn các làng. Bọn ác ôn giết lầm hơn bỏ sót, tra đánh đủ kiểu không được gì, nổi điên, rút dao rừng Mỹ chặt tay trái nó. Im lặng. Chặt tiếp tay phải nó, im lặng. Chặt chân trái nó, im lặng. Chặt nốt chân phải nó, im lặng. Khi tự biết trong thân cạn máu, nó mới lấy hết sức nói to: “Trong số đứng đây, tao tin có đứa sẽ còn lương tâm để về sau dám nhắc chuyện cũ. Tao chính tên là Hồ Văn Chẩn, Bảy Chẩn, tỉnh ủy viên Quảng Nam, đến hơi thở cuối cùng vẫn tự hào là người cộng sản, không hề khai báo một câu, không hề phản Dân phản Đảng. Tao chết để cho dân mình sống, Đảng mình sống. Thằng nào dám nói sai, tao về vặn họng cả nhà, ba đời không cho ngóc đầu lên nổi. Hễ nhắc tên tao, Hồ Văn Chẩn, tụi bay phải khấn kèm theo là “Đảng Lao Động Việt Nam muôn năm” với “Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Khấn vậy, tao mới phù hộ cho cả nhà làm ăn khá giả, con cháu mạnh khỏe... Tao chết trúng ngày thiêng, giờ thiêng, bay liệu hồn mà khấn cho đúng. Còn cái bọn ăn gan uống máu đâu, bay để đó cho cách mạng trị, tao cũng về trị cho trắng máu... Hẹn gặp nhau trước tòa Diêm Vương nghen!”.
Lòi trối trăng độc đáo của đồng chí tỉnh ủy viên rất trẻ chẳng ngờ lại gây tiếng vang hiếm có trong ngụy quân và ngụy quyền, đang đua nhau theo các tôn giáo theo chủ nghĩa duy linh của Ngô tổng thống: số kiếm chức kiếm quyền xin cải đạo Công giáo như ông phủ Ung Viết Đỉnh, số chờ thời Mỹ giúp theo đạo Tin lành, số đông muốn được giữ thờ ông bà và làm điều lành đều xin theo đạo Phật, được cúng dường vừa phải và không phải dẹp bài vị ông bà cha mẹ, hợp lý người dân cày, mà cũng tránh được tiếng theo cộng sản vô thần. Đến cái ông tỉnh ủy Hồ Văn Chẩn này thì thật khác lạ, buộc phải khấn thêm Đảng Lao Động Việt Nam với Cụ Hồ Chí Minh mới chịu phù hộ. Xin sẵn sàng khấn, Cụ Hồ với Đảng mình thì nằm sẵn trong ruột gan xương cốt mỗi người dân rồi, kính phục thương yêu đã lâu quá rồi, ông Bảy Chẩn cho phép khấn-hồi xưa chê là phong kiến-là hay, là phải. Chỉ xin được khấn thầm cho chánh quyền khỏi bắt, bấy nhiêu thôi.
“Cụ Thượng” Cả Chanh được cử làm quyền bí thư tỉnh ủy Quảng Nam thay “ông cai lục lộ” Tô Xáng. Lập tức trước mắt Chanh trồi lên cả một núi việc phải làm, đến dễ sợ. Bà con Thượng hối hả cắm chông, đặt bẫy thò, hàng trăm kiểu chông thò khó đoán biết được, anh chị em Kinh đi đâu cũng sợ rút gân, đoạn đường trước tự đi nay phải nhờ du kích-cả bà già, trẻ em-dẫn đi mới thoát. Quân địch hay gián điệp xưa lùng lội thả cửa, nay co vòi nhiều. Nhưng địch quật lại ngay: dồn dân xuống vùng chúng kiểm soát, chặn muối vải sắt lên vùng Thượng, cho máy bay trinh sát và chiến đấu lên tìm nơi xối bom đạn, cấp giấy cho từng người lên xuống.
Là một trong những đồng chí đòi nổ súng ồn ào nhất trước Nghị quyết 15, Cả Chanh phải chịu tự mình tháo gỡ trước hết.
Các bạn Lào sang gặp tỉnh ủy, dù thân thương nhau vô vàn, nhưng kiếm đâu ra võ khí giúp các bạn, khi chính anh cũng chỉ có cây súng lục ba nòng tự tạo để giữ thân? Anh đã sục nhiều lần trong các hang đá giấu vũ khí cỡ nhỏ của CK.II để lại. Kho lớn nhất bị sụp, cả mảng núi đè lên. Các kho nhỏ chứa lựu đạn và mìn còn lấy được, nhưng bị ẩm lâu năm, lựu đạn đem thử mười quả hỏng đủ mười. Chông thò cản giặc được phần nào đấy, nhưng các cánh các mũi võ trang tuyên truyền từ căn cứ miền núi phóng xuống vùng ven núi, húc ngay vào các hàng rào chống Cộng lởm chởm đủ thứ rào hào gai chông, với hàng trung đội biệt kích, dân vệ, thôn vệ, thanh niên diệt cộng núp đằng sau, với cả ngàn dân bị ép buộc mang gậy dây và dao phay rựa bò túa ra hò hét: “Ươ làng, Việt Cộng về!”. Vài phút sau đó, các bà mẹ chiến sĩ năm xưa nhét gói gạo muối gói sẵn vào túi con cháu, buộc gói cá thu cá ngừ kho khô vào bao lưng anh nào đó đã xô tay đẩy đi, lại đánh mõ giơ đuốc đầu lửa và gào: “Uơ làng xóm, Việt Cộng về!”.
Không ít anh em từ thành phố lên hay từ miền Bắc vào, sau một cuộc thử lòng đau đớn như thế, trở về căn cứ trên núi bỏ cơm nằm dài: “Đồng bào miền Nam theo địch hết rồi, mình giải phóng ai?”. Một huyện ủy viên xa dân lâu ngày, khi bị xua đuổi tàn tệ đến thế, đã hét trả lại thật to: “Tới ngày giải phóng miền Nam, làng này sẽ bị khai trừ khỏi dân tộc, đi đâu thì đi!”.
Rồi dần dần mối tơ vò cũng được gỡ từng nút. Nước với dầu chẳng bao giờ pha lẫn được. Các mẹ lại ki cóp từng lon gạo nhúm muối cho “mấy đứa”, các cô em đánh mõ la làng lại giấu các thứ nuôi người trong gánh tro bón ruộng hay đôi giỏ cắt lá phân xanh, thanh niên diệt cộng gửi đạn và lựu đạn cho cách mạng kèm lời xin lỗi: “Mỗi lần tôi gửi chút ít thôi, gửi nhiều tụi nó nghi, thu súng lại hết”. Rồi các gia đình có con đi lính cộng hòa chánh quy, lính bảo an ở tỉnh, lãnh súng dân vệ ở xã, đều cố tìm gặp cán bộ mình trong những đêm thì thào nơi vắng nhất: làm sao đưa thằng trai nhà tôi đi mà địch nó không kiếm cớ bắt quy khu, không đưa vô khu trù mật cũng bắt đi thiệt xa như dinh điền trên Cao Nguyên cả nhà tôi, các anh xếp đặt giùm…
Lớp trai trẻ bị săn lùng ráo riết nhất. Lên núi theo Bộ đội giải phóng-thường gọi tắt là Lực lượng-thì cực quá chịu không nổi, ăn sắn chấm muối cũng chỉ dám chấm đũa đứng chứ không dám chấm đũa nghiêng, mà có khi cả tháng không có gì mà chấm. Nhà giàu còn có tiền mua giấy miễn hoãn từng đợt cho các con, càng lắm con trai càng tốn kém. Nhà nghèo cho con “chạy trong”, tìm nơi lánh né, gặp hồi không kịp trốn bố ráp mới phải xì tiền ra mua thêm những ngày sống bấp bênh. Con nhà thương binh liệt sĩ được chọn cho đi đường núi ra Bắc học, tiếp đó có thể được xuất dương du học nhiều năm, là một vinh dự rất hiếm hoi, mỗi xã năm bảy ngàn người mới được một vài em.
Trốn đâu, chạy đâu, kiếm đâu ra tiền hối lộ, chữ nghĩa đâu khi ra Bắc với học lực mới thoát mù chữ và lứa tuổi quá lớn? Ở miền Nam bỗng hiện ra những em bé mười bốn tuổi cao một mét sáu và nặng sáu chục ký, những ông già cầm thẻ cử tri năm mươi tuổi mà mới kịp nuôi một chòm ria mép lưa thưa, như cùng thi nhau đóng kịch mà diễn viên tự kiếm tiền trả cho bọn cảnh sát chuyên lùng đám “trốn quân dịch”.
Tiếng gà rừng gáy te te giọng thanh thé. Cà Chanh biết chừng một giờ sau sẽ được nghe tiếng hú của vượn gọi sáng trên các đỉnh cây cao. Ông “cụ Thượng” sống với chúng nó nhiều năm rồi, từ tiếng chim “Có bóp thì bóp” cho đến khi lũ chim bồ chao kéo bày cãi nhau trong bụi rậm với tia nắng đầu tiên.
Bữa tiệc tiễn đưa tối qua chợt nhớ lại khiến Chanh bật cười khẽ. Anh Tô Xáng treo võng ngay cạnh lên tiếng ngay, tỉnh rụi:
- Cũng không cưa gỗ được chút nào hả?
- Anh kéo bộ một ngày dốc mới phải cưa. Tôi ở lại mặc súc li bì... Nhớ bữa cơm chiều mà tức cười.
- Khá quá chớ sao lại cười?
- Thôi, ông cai lục lộ rán chợp mắt một lát. Dốc Quảng Nam, gan cộng sản, coi thử ai hơn ai. Ông đổ xuống lại làm khổ anh em.
- Còn khuya!
Ông Bát Đập cãi gượng tí chút, rồi bắt đầu thở đều, chắc giả vờ ngủ cho Chanh vui bụng. Từ trưa hôm qua, biên bản bàn giao đã được ký, và đồng chí quyền bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị cho anh phải ngủ thêm trước khi lên đường... Tội nghiệp thằng Chanh! Lỡ nó gục xuống, ai sẽ thay nó, cái thằng đặc giống Quảng Nam hay cãi, bao giờ cạn lý mới chịu thua, nhưng đã chịu thua thì chẳng ai làm được hơn nó? Đáng lẽ nó đi họp Đại hội Ba của Đảng mới phải, nhưng tỉnh ủy đã bỏ phiếu kín, anh hơn nó chỉ hai phiếu, dù anh đã gặp riêng từng đồng chí để xin phiếu cho nó. Thôi giẹp, giẹp hết, đi là đi, nó hi sinh sẽ có người thay. Nhưng ai thay, ai thay được một đứa như nó?
Cả Chanh không ngủ được, mà nghĩ đến chuyện khác xa anh Xáng. Sau hai giờ làm việc với anh Hai Thỉnh và đồng chí Pheng-anh Thỉnh sang để cùng đi với anh “cai lục lộ”, anh Pheng qua biên giới bắt liên lạc với ta-Chanh xuống bếp bên suối xem bữa cơm tiễn đưa ra sao.
Bác cấp dưỡng ngoài ngũ thập, rời nhà lên núi, khoe với Chanh là tự bỏ ra một bộ bà ba đen vợ từ đồng bằng mới gửi lên, đổi được một chú cầy ngót mười ki-lô, nấu bảy món đãi khách. “Tuyệt vời, tuyệt diệu, ăn vô bảy ngày còn thơm trong miệng”. Chanh điếng người, chẳng lẽ làm bác ấy cụt hứng, nhưng người khách Lào không quen ăn chó. Hỏi một lát, hóa ra anh em đi tát vũng hôm kia đã ăn tất cả các thứ cá vảy trắng, cá tràu, cá rô, còn năm bảy con cá trê thả ngâm cho nhả chất bẩn, chưa ăn. “thứ cá ở hố mả, dơ lắm, ngâm vài ngày chưa sạch đâu”. Chanh tự tay lóc thịt thứ pa-đúk, băm sống, bảo anh chị em cơ quan rang cháy và giã mịn bột nếp, kiếm rau thơm, đồ xôi-anh chị em cơ quan chán ngấy sắn luộc và củ mài luộc, đã nghĩ ra hàng chục kiểu ăn, trong đó có món xôi đồ với gạo nếp rẫy. Bữa cơm thết khách vắng món thịt chó nhưng có những đĩa lạp cá trê sống, bát canh măng nêm lá da nang, xôi nếp kèm củ mài thơm ngọt, anh Pheng vừa ăn vừa khen mãi. Anh Tô Xáng không quen các món Lào, được cho ăn lạp khụa, là cá trê băm sống đã kho lại cho chín. Và cái khoản rượu tà-vạc đặc sản vùng Cà-tu này bốc men nhẹ, vị ngọt và đắng như bia đậm, anh em đã cõng về căn lều cả một ché, nhậu suốt ba tiếng không hết hai phần ba.
Sắp chia tay rồi. Cuộc chia tay dưới bom đạn, giữa vòng vây của Mỹ và các đạo quân ngụy giăng khắp Đông Dương, luôn luôn có thể là lần vĩnh biệt. Cả bốn đồng chí trằn trọc trong lều giữ rẫy, trên võng và trên sạp tre đều biết cần ngủ để mai leo dốc sớm, nhưng không ai ngủ được, không ai nỡ ngủ, mà ai cũng phải giả vờ ngủ.
Rồi cuối cùng các đôi vượn vẫn hú tìm nhau trên ngọn cây cao. Từng người được giải thoát, nhỏm dậy vươn vai ngáp, tuy suốt đêm chưa từng chợp mắt. Bác cấp dưỡng khệ nệ xách lên lều một gùi cơm nắm trong lá chuối hơ héo, một chùm ống tre lồ-ô đầy nước chè rừng có quai đeo vai bằng mây đan. Chắc bác cũng không hề ngủ.
Anh Pheng sẽ ra đi với một tổ trinh sát của ta, xoi đường liên lạc từ vùng núi Quảng Nam với tỉnh Miền Đông của các bạn Pa-thẹt Lao, cái tên lẩm cẩm bị đưa vào hiệp định Giơ-ne-vơ. Tên gì cũng được, chỉ cần dân Lào hiểu đó là Lao Cụ-xạt (Cứu quốc), là Lao It-xa-la (Giải phóng Lào). Đặt ra bao nhiêu tên mới, như đám chính khách Lào làm không ngớt, người Lào chỉ cần nghe cái tên gốc của những người cách mạng gốc, là đủ hiểu ai là cách mạng giả, ai thật.
Anh Bát Đập sẽ ra đi theo giao liên cùng anh Hai Thỉnh ra Bắc dự Đại hội Ba của Đảng, mang theo lời hăm dọa và lòng tin yêu của tỉnh ủy Quảng Nam, trước hết là của Cả Chanh. Cả gia đình anh đang bị địch quy khu ở Tam Kỳ, có thể bị địch giết sạch trong mấy phút. Chị Xáng không tập kết được vì vướng bầy con, sau đình chiến còn thêm hai cháu ngoại nữa. Cũng như vợ con Cả Chanh, chị bị giữ chắc, hăm dọa liên miên, nhưng chưa bị bỏ bao thả sông chỉ vì địch cần chị làm con tin.
Giao liên đến, một đồng chí đoàn viên Thanh niên Lao động người Ve mới “hai chục mùa rẫy”. Anh Tô Xáng ngẩn mặt ra như sợ quên cái gì, vẫy Chanh ra góc suối vắng, nói lại đến lần thứ bao nhiêu không nhớ:
- Hễ Trung ương kêu thì mày phải ra Bắc. Ra thì đem vợ con theo, chớ có bỏ lại. Không nghe lời, tao tẩy chay mày.
- Còn vợ con anh, vợ con Năm Chò, thí hết cho địch à?
- Thằng lỳ, lỳ vừa vừa chớ...
Anh đặt hai tay trên vai Chanh, nấc dồn trong cổ, bỗng ôm ghì Chanh, cọ bộ râu mép cứng rậm vào má Chanh. Qua bấy nhiêu năm cùng làm Cách mạng tháng Tám, cùng đánh Pháp ở nhiều mặt trận, cùng cãi nhau những trận nảy lửa sau đình chiến, cái thằng tự gọi là “phu xe lửa” này đang gánh trên vai những gì anh trút lại sau khi Trung ương nhận là nó đúng. Miền Nam phải tự vệ bằng võ trang, nếu không Đảng bộ miền Nam sẽ bị tiêu diệt trong cuộc chiến tranh một phía.
Và ngay lúc này, anh Xáng lại phải ra đi, nhấc gánh đặt sang người không ngớt cãi lại mình trong nhiều năm. Gặp anh Bảy Quý, “ông già Cửa Đại” đã luống tuổi, anh sẽ trả lời sao nếu bị hỏi: “Thằng Chanh chết, nhắm ai thay được nó?”. Nói là để tập thể bầu, được thôi, nhưng chính anh Xáng sẽ bỏ phiếu bầu ai? Tắc tị. Bí rị. Chỉ mong sao nó đừng nghẻo củ từ, xuôi cẳng sáo trước khi có đứa trẻ hơn đủ sức thay nó...
Cả Chanh rất ngại những cảnh chia tay trên sân ga hồi làm hỏa xa, khi lời tiễn đưa đã nói hết, nước mắt đã ráo, mà kẻ ở người đi cứ phải ngây mặt ngó nhau trong khi xe lửa cứ ỳ ra đấy. Tiễn nhau trên núi rừng này gọn hơn nhiều. Bây giờ các đồng chí đã đi theo giao liên, khuất cả rồi.
Anh ngồi xuống một thân cây đổ ngay trước lều, chợt cảm thấy mỏi nhừ khắp thân thể, đến từng sợi gân, khớp xương, chân tóc. Dù lăn ra sạp cũng không ngủ bù được, anh biết. Đã quá lâu anh không còn biết giải trí, họa chăng chỉ đỡ căng đầu khi làm rẫy, kiếm măng rau, soát bẫy thú, đan gùi hay lek trong ánh lửa bếp hay que thông nhựa.
Bàn tay trái anh buông thõng bỗng âm ấm, ướt dần. Chanh cúi xem. Con chó của anh biếu anh Xáng ở lại với anh, vẫn nhớ chủ cũ, liếm tay chủ, nhận theo anh.
Con Dồ, chó săn nòi của ông Tư Chua, bị thằng Ba Mít tức Hùng Minh đòi giết trong mấy năm đầu kháng chiến. “Cả nước được lệnh giết chó để du kích dễ đánh giặc. Bác là chủ tịch xã phải gương mẫu trước chớ!”. Ông Tư Chua không nỡ xử tử con chó tuyệt khôn của mình, mang nó lên gửi làng Thượng cho anh Tơ-rin nuôi hộ. Nó lấy vợ trên ấy, một cô chó vàng giữ nhà rất xinh đẹp, đẻ hai đợt được hơn chục con. Chồng là chó săn lông xanh lá, chuyên săn thú dữ, vợ là chó giữ làng suốt đêm thức đuổi chồn cáo, hai giống gặp nhau sinh được lũ con được cả làng ưa thích. Ông Tư chọn được ba con khôn nhất, một ông nuôi, một cho Tư Quýt, một cho Cả Chanh. Con chó Cả Chanh được cả cơ quan xúm vào tập luyện, nó như con chó xiếc, gần như hiểu tiếng người: nó đi hai chân, vẫy tay bao lần thì nó sủa bấy nhiêu tiếng, anh em đi đâu nó chạy trước chừng trăm thước, gặp “mùi ta” thì không sủa, quay lại rít khẽ báo hiệu, ngửi mùi địch là ka-ki dày ngấm mồ hôi và xà-phòng lạ thì vừa lùi vừa sủa vang ầm, địch có bắn thì nó bò thấp trở về. Gia tài anh Tô Xáng để lại quý nhất là Dồ Con, và nó quen sống với hai ông chủ, chỉ cần Cả Chanh xua tay và anh Xáng gọi là nó biết phải đi trinh sát cho ông chủ nào. Từ khi nó lập công cứu cơ quan tỉnh thoát một trận tập kích-gián điệp dẫn một đại đội biệt kích định đánh úp lúc tờ mờ sáng - Dồ Con được xếp hẳn vào làm nhân viên cơ quan, lãnh xuất ăn như người, dự chung mâm với người. Nó chỉ ngạc nhiên vài lần đầu, sau đó khi nghe mõ báo cơm nó cũng chĩnh chện đến ngồi vào mâm, hơi lùi về mé sau ra vẻ khiêm tốn, chờ suất ăn của nó được dọn và nhận câu mời đùa của bác cấp dưỡng gấp mười tuổi nó: “Mời cậu Dồ Con cầm đũa trước”. Nó thò mõm kéo cái mẹt và cái máng tre đựng suất của nó lùi ra sau nửa sải tay, ăn không chừa một hột cơm vãi.
Mỗi người khách đến cơ quan thường phải nghe vài ba lần kể thành tích của Dồ Con. Trong trận tập kích nói trên, nó nghe tiếng giầy rừng sột soạt từ xa, chỉ lẳng lặng bò sát đất ra đánh hơi. Đúng mùi địch chẳng sai, chúng tiến vào rất chậm vì phải đợi tảng sáng mới nổ súng, cho khỏi bắn lầm nhau. Nó lặng lẽ vào lán cơ quan, cắn tay áo hay góc võng từng người một đánh thức dậy không hề gây tiếng động, chỉ rít khẽ trong mũi. Nửa giờ sau, địch bắn pháo hiệu loe lóe, nổ súng như bão vào cơ quan, lao vào kiếm tai hoặc đầu cộng sản lãnh thưởng, thì bốn căn lều lợp lá mây, lá tà-vạc, tranh, lau, đều trống hoang toàng. Địch chỉ còn biết chọc thủng mấy cái soong nhôm gần nát, quật vỡ một mớ ống tre chứa nước hay thức ăn, châm lửa đốt các lều để về treo ảnh làm “Lễ chiến thắng” và kiếm tiền tiêu thêm. Dồ Con được từng anh chị em ôm ghì hôn hít, nó hiểu công lao hay không chẳng biết, chỉ biết là ai cũng thương yêu nó. Con số yêu thương được nâng lên ba người: ông Thượng có râu, ông Râu mép, ông Râu mép in ít thôi không thấy trở về, thường nghe gọi là anh Chẩn, mỗi lúc rảnh lại gọi nó ra bờ suối tập vô số trò lạ, sau đó lại tắm xà-phòng cho nó và cho một món ngon gì đấy để dành trong bao lưng. Ông Chẩn này không thấy trở lại. Ông đi đâu, ai biết được?
- Dồ ơi, lên đây con!
Giọng ông chủ Chanh sáng nay sao mà dịu, mà buồn. Nó đợi tí nữa, thì ông Thượng nhiều râu và nồng mùi khói củi vỗ tay trên sạp, mới nhảy lên sạp tre thật nhẹ, nép mình bên Chanh, khẽ hít và rên trong mũi để nhận chủ. Và khi ông chủ có mùi bếp Thượng rất đậm vòng cánh tay phải ôm nó, Dồ Con hiểu ngay rằng nó sẽ sống rất lâu với người đã ẵm nó từ khi nhỏ xíu, nhường nó cho nhiều ông chủ khác mà vẫn yêu thương nó. Mãi khi ông chủ Thượng đã ngáy phì phò, nó vẫn lặng lẽ liếm tay Chanh.
Cả Chanh lại leo núi trở về cánh Nam Quảng Nam, với Dồ Con chạy trước chừng trăm thước dò đường, với ba đồng chí tỉnh ủy về các huyện kể thuộc lòng nghị quyết mới. Nhớ đến đâu nói đến đấy, không được mang tài liệu theo người. Anh dùng dằng đôi chút khi đến trạm giao liên Bà-lam, nơi thường phóng cơ sở Thượng xuống nhà anh với mảnh cuội dẹt đập vỡ đôi làm tín hiệu. Nhưng cả đoàn cùng đi đã buộc anh ở lại thăm nhà. Ai cũng biết Hai Thùy và Chanh thương yêu nhau kinh khủng, đã hai con với nhau mà như vợ chồng mới cưới, chẳng giống các đồng chí cao tuổi được cha mẹ đi hỏi vợ khi còn nhỏ, hay những cậu trẻ yêu vợ đấy nhưng coi đó là tầm thường, yếu đuối, ai nhắc tới lại gạt phắt. Còn Cả Chanh với chị Thùy không một lần che giấu tình vợ chồng, trước mặt bọn địch buộc phải “ly hôn cộng sản” cũng như trước những ông bà cán bộ chê trách “tình cảm cá nhân” khi đất nước ly loạn. “Tôi yêu vợ tôi chớ không mê vợ người khác. Hai chúng tôi sống nay chết mai, hễ sai chỗ nào xin các đồng chí cứ nói”, và chẳng ai nói được gì cho ra lẽ. Và vợ chồng Cả Chanh cứ yêu.
Lần này Thùy không lên núi, mà gửi con em Út Thanh Yên bồng con lên cho ba nó thỏa lòng hôn hít. Chị không chịu ký giấy ly hôn đã in mẫu sẵn, với thằng trưởng ban tố cộng và Ba Mít ngồi hờm sẵn trước mặt. “Giết tôi thì giết đi, chẳng sá gì một mạng cho thợ may nghèo đói”. Bọn địch không dám giết, không dám đẩy chị đi tù xa, không dám đẩy chị vào những lớp tố cộng gay gắt nhất, bởi chúng nó sợ. Các mũi súng của Giải phóng đã đẩy đạn lên nòng, chĩa vào những kẻ trước hết được xếp loại ác ôn. Ba Mít sợ. Cả Hội đồng xã sợ. Bọn lính Bảo an bị đưa lên xứ núi Linh Lâm, đóng đồn mới ở ngã tư sông Linh gặp đường 56, đều sợ. Kiếm được gì, bọn xã quận hưởng hết. Bọn Bảo an do tỉnh đưa lên lập đồn chỉ ăn đạn chứ ăn gì. Dân vệ, thôn vệ chỉ vặn cổ trộm gà, chụp bao cát đựng tro trộm heo, và hứng chịu vô số tràng chửi rủa, đúng có và oan cũng chẳng ít.
Cả Chanh thất vọng khi thấy Út Thanh yên cõng con Thanh Bình đến trạm Bà-Lam, chỉ trong vài phút thôi. Rồi anh vồ lấy đứa con gái thứ hai đã ra đời thay thằng con đầu chết cháy đã làm vợ anh loạn óc. Con bé Thanh Bình của anh tính đủ năm đã lên chín, đi mỏi lại bắt o út cõng, gây giờ thụt lùi mãi như trâu mới vực thấy ách trước cái ông râu tóc rậm rì và bốc mùi khét, dù Chanh đã thay mặc bà ba, bỏ khố và tấm dồ nhuộm chàm. Mỗi lần dầm mưa hay ngã xuống suối, lại một lần hong lửa bếp, tẩm vào than và áo quần thêm một lớp khói củi đọng thành mồ hóng.
Chanh ôm con. Nó giãy ra, kêu o út, réo đòi mẹ. Anh ứa nước mắt vài lần, tự lau kín đáo, nhưng không giấu được con Út Thanh Yên. Nó mười bảy tuổi, đi liên lạc và tiếp tế cho ta suốt ba năm qua. Nó nói đĩnh đạc đến nỗi Chanh sửng sốt:
- Em quen mấy anh tập kết về, trên núi xuống, con nít sanh sau đâu biết cha nó là ai. Anh đừng phiền tụi nhỏ, về sau tự nó thương nhó đi tìm cha mẹ đó anh... Chị Thùy bị Ban tố cộng kêu xuống chợ Huề Bình từ sáng tới giờ chưa về...
Tim Chanh nẩy mạnh trong ngực. Anh ngừng thở, định hỏi, nhưng nghẹn họng không nói được. Còn may trời đã nhá nhem trước cửa hang đá, Thanh Yên không thấy mặt tái dần, thong thả tiếp:
- Cha với chị Năm coi giấy hôm qua, hoảng lắm. Cũng tính theo chị Hai xuống xã coi tụi nó giở trò gì, mà bị xếp loại A tình nghi can cứu, nó bắt trụm cả gói, mà cũng không được phép ra khỏi thôn. Em phải lo cho con Bình, con Lúa... chắc anh nhớ, nó là con chị Năm với anh Chò... Vậy mới nhớ đến anh Bảy Bòng. Anh đưa trung đội dân vệ lên ráp cộng sản ở mấy dương gò dọc sông Linh, về nhậu ở chợ Linh Lâm. Em chạy tới kêu ảnh, trúng bữa nhậu. Ảnh kéo em vô quán, biểu rót rượu cho đầy ly hết thảy, rồi nói trước mặt dân vệ, hội đồng xã, đứng dậy giơ ly lên nói tỉnh rụi, chắc không say đâu: “Con em tôi báo tin Ban tố cộng quận Tây Quảng đạt lệnh bắt chị Hai Thùy sáng mai xuống nghe cái gì đó. Tôi sẽ chở chị Hai xuống xã bằng xe đạp, ngồi đó cả ngày với cây Bar, năm trăm đạn... cả nhà tôi, tính hết quốc gia với cộng sản, tôi phục nhứt là anh Cả Chanh, thương nhứt là chị Hai Thùy, ghét thằng đần nhứt mà tham nhứt là thằng Tư Quýt, vừa bực vừa thương là cha tôi với chị Năm Nhím. Mẹ tôi xin để ngoài vòng... Mai, đứa nào muốn tâu nịnh với cấp trên cứ việc tâu, tôi đi tù năm ba năm cũng chẳng sao, khi về sẽ nói với nhau bằng thuốc nổ. Tôi leo núi lùng Cộng sản trước mắt các chiến hữu, đổ mồ hôi sôi nước mắt chớ không phải ngồi bàn giấy ôm con dấu như ông Hùng Minh kia, ăn hối lộ như mỏ khoét, theo Việt Minh rồi phản Việt Minh, theo quốc gia rồi chưa biết ngày nào phản quốc gia...”. Lạ thiệt đó anh, ai cũng vỗ tay hết, thằng Ba Mít trở cờ cũng bộp bộp mấy tiếng. Em tưởng ảnh nói rồi quên, mà mới sáng sớm ảnh đã đi cái xe bình bịch của quận cấp cho xã, tới đón chị Hai, đằng sau cột một cây trung liên với cái ba- lô đạn to tướng. Ảnh nói với cha: “Con chĩa súng vô mặt nhau, chẳng ai nể ai, con út nhỏ nhắc lại mấy lời anh nói hôm qua cho cả nhà hiểu bụng anh. Hễ tự ý sửa, anh về vặn họng đó nghen!” Chắc tụi nó thấy anh Bảy dữ dằn vậy, không dám sanh sự đâu anh!
Cả Chanh không nghe rõ những lời cuối. Anh đang bị rối. Trong đầu anh đang thêm một con đỉa to tưởng, cỡ đỉa voi vùng bưng bên Lào đang bò quanh co mãi. Tại sao gia đình mình lại rối đến thế?
Qua hai lần về thăm nhà trong đêm khuya, mẹ đã bớt lo ngại con dâu cả Hai Thùy bỏ chồng tập kết và chịu ký giấy ly hôn theo lệnh chính quyền mới, bớt nói “chặn họng” trước vì hiểu lầm, vì con dâu thờ đạo Chúa Trời sẽ vất hết bài vị ông bà cha mẹ ra vườn hay xuống ao. Hai Thùy cười rất lành: “Bà con thờ Chúa là tại ông bà biểu thờ. Anh Chanh với con có thờ ai đâu? Tụi con thờ ông bà cha mẹ, là những người có sống thiệt, có công sanh thành dưỡng dục đối với tụi con, mẹ thấy sai chỗ nào?”. Tất nhiên là không sai. Bà mẹ chồng chỉ thêm là nên thờ Phật để tu tâm dưỡng tánh. Chỉ mươi ngày sau, lá cờ năm màu và tờ phái đã được bày trong nhà Hai Thùy. Thùy ngừng đạp máy may, vẫn cười nhẹ: “Con rước Phật về nhà, chớ không rước Pháp với Tăng đâu. Rước đủ Tam pháp bảo, phải đợi anh Cả quyết định. Hồi nào ảnh về, mẹ hỏi giùm con”.
Nụ cười hiền của Hai Thùy đã tước võ khí tất cả những ai không ưa vợ chồng Chanh, kể cả những ai đầy thù hận đối với cộng sản, với kháng chiến, với cả “bọn theo đạo Chúa bỏ ông bà”. Còn đối với bà mẹ chồng đầy nghi ngờ và bắt đầu khắc nghiệt, chiều ý Cả Chanh là hợp đạo tam tòng. Trong đêm về thăm nhà, Cả Chanh vẫn mang bộ lốt lởm chởm râu tóc của ông già Thượng, nhưng mỗi lời của anh được coi như lời của cách mạng, chỉ có Bảy Bòng vắng mặt và Tư Quýt tranh gia tài không muốn gặp. Bà Chanh thấy mình đã xử oan đối với con dâu, cũng rầu với thói tham vặt của Tư Quýt và cái giọng hợm giàu của Ba Song, ngày càng đến với Hai Thùy nhiều hơn, tuy vẫn ở nhà vườn cũ để “giữ phần cho thằng Cả”, và hay đánh tiếng với chòm xóm là ông Tư Rèn dạo này cần được bà coi ngó nhiều hơn, xuống sức lắm.
Thế nhưng Cả Chanh xót xa nhất vì một mũi gai không ai biết: dường như cả nhà anh và vợ con anh đều chịu ơn che chở của Bảy Bòng, đứa em đã bỏ kháng chiến theo quân ngụy, nay là thượng sĩ quân Bảo an, cảnh sát trưởng xã, đảng viên Cần lao nhân vị của Diệm-Nhu, được cơ sở ta xếp loại ác ôn phải xử tử. Bảy Bồng che chở cho gia đình vì chưa cạn hết tính người, nhưng nó săn lùng cộng sản ráo riết, sẵn sàng chặt đầu cắt tai kiếm thưởng, còn thêm tin đồn là nó nhiều lần ăn gan và uống rượu máu cộng sản. Thật không? Thật không hở trời? Tại sao cách mạng đã lép vế đến cái độ cả một nhà theo cách mạng bấy nhiêu năm bỗng phải núp bóng một “ác ôn phò trợ”? Về sau anh em gặp lại nhau, bốn đốm lửa mắt xói vào nhau, hai họng súng chĩa vào nhau, ai sẽ bóp cò trước một giây?
Khi phút ấy đến, Chanh có run tay vì nhớ Bảy Bòng phục anh nhất, quý chị Hai Thùy nhất, và đã xử sự y hệt như lời? Phần anh, phần anh là thế, nhưng thằng em bóp cò trước thì sao? Lúc này anh là quyền bí thư tỉnh ủy, anh chết là sự rất thường, nhưng ai sẽ lo cho bấy nhiêu đồng chí, cơ sở, hơn một triệu đồng bào đang cần đến anh? Chết và sống đối với anh từ lâu đã lùi rất xa mọi thứ lo toan, nhường chỗ cho hàng chục hàng trăm mối lo lớn hơn, xa hơn, như các đồng chí đi trước hay nhắc: “Sống hay chết là phụ, làm trọn nhiệm vụ trước Dân trước Đảng mới là chuyện chính. Xin bàn vô chuyện chính”.
Con bé Thanh Bình nhất quyết không chịu ăn các thứ mà ông già Thượng hôi khét lòm kia bày trước mặt nó. Cơm gì mà nấu trong ống tre, nặc mùi ruột tre? Cái bánh nếp lột ra dỗ nó ăn, nhân chuối ngon ngọt chứ không phải bánh tét mẹ nó làm? Bát canh của ông già Thượng cũng hôi rình thứ lá cây gì trên núi? Nó kéo áo o út đòi về mãi không được, o út nói chuyện mê mải, nó lăn ra sạp ngủ thiếp lúc nào chẳng biết, người lớn hay bàn nhau những chuyện chẳng ai muốn nghe.
Rất khuya, bị cơn đói đánh thức dậy, nó lờ mờ nhớ o út đã đưa nó lên núi và buộc nó gọi một ông già Thượng lạ mặt là “Ba con đó”. Và khi mẹ ôm ghì nó, nức nở: “Con gặp ba con, không biết à?”, nó bỗng ôm lại mẹ, con biết chớ, mà ba khác quá. Mẹ cho con lên núi gặp lại ba, con khờ quá mẹ ơi, chắc ba ghét con lắm, con gặp lại cho ba đừng ghét nữa. Mẹ lau mắt, chỉ nói thêm: anh Tuấn con chết bom rồi, ba với mẹ còn một đứa là con, ba ghét sao được? Ba buồn thì chắc là buồn, thôi rán chịu, về sau con làm cho ba vui là được. Con nghe lời ba với mẹ là cả nhà mình vui nhứt.
Sáng hôm sau, Chanh lại dậy theo tiếng vượn hú trên vách đá, ăn uống cơm lam bị con hất ra khỏi tay, mang theo khúc bánh tét nhân chuối đã bóc ra phải gói lại, thay mặc cái khố và tấm dồ choàng, chống ngược cây giáo để xốc gùi đứng dậy. Con chó Dồ dò đường chừng trăm thước đàng trước, tới cậu giao liên cầm cái ná to và đeo hai ống tên, tới Chanh cõng gùi bằng đôi vai gò xuống như cái gùi bỗng trở nên quá nặng.
*
Lò rèn ông Tư Chua đặt dưới những tán cây dầu lai già, mé sau nhà ở của Cả Chanh vài chục thước, vừa đủ chống cháy lan, đã được lợp thêm một lớp đất sét nhồi rơm với phân trâu, một lớp mái bằng sạp tre ngâm. Ông Tư bị vài lần hoảng khi các cháu nội ngoại của ông chơi gần lò gặp cơn gió mạnh, những quả dầu lai to gần bằng nắm tay rụng từ trên cao xuống đầu vào lưng lũ trẻ, chúng khóc ré và chạy tán loạn, may không đứa nào bị nặng, chỉ u đầu và đau vai, đau lưng.
Hồi Cả Chanh được nghỉ chữa bệnh cho Thùy và cho mình, anh thường leo lên các cây dầu lai, cưa hay chặt bớt những cành nhô ra chỗ nhà ở, chỗ đi lại, khỏi lo trái rụng trên đầu. Qua chục năm, chẳng ai lo chuyện vặt ấy nữa, khi lò rèn chưa có và lũ trẻ còn nằm trong nôi. Bây giờ khác rồi.
Ông Tư đi hỏi mua tre, chẳng nhà nào nhận bán nhà treo bảng đen loại A tình nghi can cứu. Ông mướn người giúp leo cây, sửa mái, chẳng ai nhận thuê. Nhưng chỉ một vài hôm sau, dân Linh Lâm đến nhà ông, vác theo vài cây tre mà ông biết đã ngâm tới mọc rong rêu, ném uỳnh xuống, nói to là trả công rèn cuốc rựa gì đó mà ông chưa hề làm cho họ. Đống tre chất cao đến nỗi thằng Ba Mít đại diện xã phải đến căn vặn hồi lâu. Còn những đám trẻ không nhận ông thuê, lại đến vì không đủ tiền trả công rèn, nói phải làm một buổi thay cho một ang lúa nhưng nấn ná tới ba ngày, năm ngày. Rốt cuộc, ông chỉ tốn mấy bó chè tươi và mấy xấp thuốc Thượng, mà cả lò rèn lẫn nhà ở đều đổi mới.
Dường như cả cái làng Linh Lâm này phải tập trí trá. Giặc ở xã, ở quận, giặc chống cộng nằm ngay trong nhà ông Tư Chua và anh Cả Chanh. Không biết bao lần có một người Kinh hay Thượng bỗng mang tiền, mang đùi heo rừng, mang quế đến tiệm may chị Hai, ném vào đấy, nói là trả công may, dù Thùy xem sổ ghi hằng ngày không hề có tên họ. Ngay cả những thôn xóm công giáo di cư cũng dần dà quen cái nếp “trả nợ khống” như thế, tuy có nhiều vị chánh trương, trùm trưởng đã trình Cha và báo cáo con chiên biết Hai Thùy là đứa bỏ đạo, không đạo, lấy thằng chồng cộng sản “vô Tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo thần linh”. Nhưng họ vẫn ngoảnh lưng đối với các tiệm may di cư, đến may ở tiệm chị Hai. Chị may kỹ, giá phải chăng, cho thiếu nợ, và chẳng thấy khô khan với ai cả, dù đã rước cờ Phật và tờ phái của đạo Phật về nhà theo ý muốn của nhà chồng. Mình may đồ cho mình, cho chồng con, chớ có may cờ cho đạo nào đâu. Và cứ thế họ kéo đến tiệm may chị Hai, lò rèn ông Tư, bỏ sau lưng những đồng đạo vừa tham vừa vụng. Dần dà nữa, họ ngồi kể lể dây mơ rễ má với cả nhà “thân cộng”, có biển treo đàng trước, trong khi chờ may đồ hay sửa thứ gì bằng sắt thép.
Cộng sản xấu ở đâu chẳng biết, nhưng cộng nhà này thì dễ thân, dễ gần, thật thà tốt bụng. Dân Linh Lâm biết thế từ lâu, nay dân công giáo “theo Chúa vào Nam” cũng nhận ra thế.
Sáng nay tiếng búa lò rèn ông Tư nổi lên sớm. Không phải ba thứ tiếng búa quen nghe của ông Tư rèn lớn, tiếng búa nhẹ hơn của con cháu hay đám trai trẻ làm nguội những thứ rèn xong, tiếng gõ đập vô tội vạ của bà con đến lò tự sửa đồ sắt hỏng. Tiếng búa sớm nay dịu nhẹ như thợ kim hoàn đập vàng bạc khi mạnh nhất cũng chỉ bằng thợ dát nồi đồng hay thợ gò đồ nhôm đi rong kiếm việc.
Tiếng búa lạ ấy là của Năm Bưởi.
Ông Tư cùng một thợ phụ đi đốt than, bỏ lò vắng. Bưởi đã tập cho con Thanh Bình biết thổi bễ hai ống đều tay, nó làm được khá. Sau nhiều năm ở tù, nhiều đợt tra tấn quá dữ, Bưởi về nhà với thân hình còm cõi, hay khạc ra máu, mang thêm nỗi đau phải trả thằng Chung cho Hai Khánh, cha nó. Cô xã đội ngổ ngáo năm xưa, với gò má nhọn và nhiều mụn cá, dám ngồi rèn hay đánh búa chẳng thua ai, đi đâu cũng khoác cây súng kỵ binh Nhật, lý sự đến mức bị gọi lóng là Năm Nhím. Nay chỉ là người đàn bà khặc khừ, xếp loại A bảng đen, cấm ra khỏi thôn, mà không cấm cũng không tự đi nổi.
Hai người đã vực Năm Bưởi sống lại: ông Tư và chị Thùy.
Cha với chị thắt lưng mình và bóp miệng con cháu để chạy thuốc thang cho Bưởi ra sao, chị biết hết. Hễ nói thì bị gạt ngay: nói bậy, nhà ăn mặc đủ hết, còn người còn của...
Và Năm Bưởi khỏe lại sau nhiều tháng được săn sóc. Năm lân la ghé chỗ bàn may chị Thùy, thùa khuy, khâu cúc, đuổi đi chẳng được. Năm lo ăn uống giặt giũ cho con mình, con chị hai. Rồi lo hết việc nhà cho cha với chị rảnh tay làm ăn. Hôm nay, khi cha vắng lò, Năm muốn thử lại mình mà không bị đuổi.
Con dao cau lưỡi mỏng cán dài, phải rất sắc, cha nhận làm một chục, thép có đấy nhưng việc quá nhiều. Bưởi thử sức bằng thứ dao ít nặng công nhưng cần tay khéo. Cha mua rẻ được mớ thép phế thải của xe quân sự, xe Gip hay Uy-lít Mỹ, đã chặt khúc để sẵn. Bưởi ngồi lò một mình, chỉ cần nhắc con Binh tăng giảm mức thổi bễ, tự đập bằng búa tay là vừa, mệt đâu nghỉ đấy. Bộ phổi tốt hơn trước, máu không ra theo đờm nữa, chỉ từng lúc khó thở cần ngưng tay.
Con Bình nhắc Bưởi nhiều lần trong khi thụt bễ:
- Nghỉ đi o. Mặt o tái rồi kia. Ông với mẹ cấm o rồi mà!
- Sức mấy mà cấm con Năm Nhím!
- Sao lại Nhím? Nhím là ai, o?
Bưởi cười, nghỉ uống nước mấy phút, lại rèn tiếp.
Tối ấy, ông Tư gánh đôi giỏ than trĩu đòn về lò, thấy một chục lưỡi dao cau đã rèn và làm nguội xong, đúng “mác lò ông Tư”, chỉ còn phải đóng cán gỗ, cái đó thì Bưởi còn vụng lắm.
Ông Tư không bao giờ để con cháu thấy mình yếu lòng. Ông xuống suối tắm xong, lên vặn cổ một con gà mái tơ, tự mình hầm một nồi cháo gà với nếp, buộc Năm Bưởi phải ăn ít nhứt hai tô, nếu chưa hết thì ông không cầm đũa.
Bà Tư bỗng sang thăm con cháu. Ông lại ép ăn. “Mấy tháng nay mới nấu một gà, đừng tiếc nghe bà!”.
Từ hôm ấy, việc cơm nước trong nhà được giao cho con Thanh Bình, chỉ bày vẽ vài lần là nó thạo từng bước: nấu cơm, luộc rau, hâm cá, đun canh. Các thứ gì rắc rối đã có người lớn nhắc, nó nghe và nhẩm đến thuộc lòng. Nó làm việc nhà với ý nghĩ ám ảnh: cha lội rừng rúc núi, mẹ thức khuya may đồ, ông nội với các o xúm lo cho nó ăn no ngủ ấm, nó lại nỡ hắt hủi ông già nhiều râu tóc mà o Út gọi là cha nó. Phải chuộc tội, chuộc tội.
Năm Bưởi trong bữa cơm chung được nghe nhiều lời can ngăn, rốt lại ông Tư phong cho chị một chức mà Xưởng quân giỏi CK.II rất nể: kiểm tra kỹ thuật.
Hồi ấy, có những anh chỉ huy nóng tính đã cùng đi với lính gánh trả mìn điếc, lựu đạn câm, đạn tịt hay nổ phá nòng, đến ngay chỗ làm việc của Ban lãnh đạo xưởng, quát tháo và rút súng lục dọa, xong rồi tự tay đập từng trái lựu đạn hay giật từng quả mìn chục ki-lô, vất dưới các thứ bàn ghế bằng tre nứa khiến cho cả cơ quan chạy tán loạn. Ông Tư hay đến Xưởng, có lần phải nhào tới ôm ghì một anh như thế, hét vào tai: “Anh chẳng nể ai, cũng phải nể thằng chủ tịch già này chút chớ!”. Anh kia giật mình ngừng tay. Anh cáu với đồng đội chứ không bực với nhân dân, ý dân là ý trời, dân ghét thì bộ đội coi như lúa đời, tàn rụi. Và ông chủ tịch này lại có tóc hoa râm, râu chòm, nghe nói được dân tin yêu lắm. Ông Tư dắt tay anh tiểu đoàn trưởng hùng hổ kia về nhà, mời anh một bữa tối có thịt khỉ và cá chình sông Linh-ngon bằng mười cá chình biển. Sáng sau, anh ra về sau khi chắp hai tay vái ông Tư: “Ba cho con cơm tối cơm sáng, con vái một vái. Ba cho con một bài học về tình nghĩa đồng chí, xin cho con thêm ba vái nữa.. Con thề xin chừa cái thói hung dữ”. Vài tháng sau, một đồng đội của anh mang đến một gói to kèm mấy chữ run rẩy: “Con còn sống vài giờ nữa thôi, con xin được ba nhận làm ba nuôi. Con gởi ba chút kỷ niệm đời lính nghèo không có gì hơn, ba nhận cho con đỡ tủi thân. Ba nói giùm con thương quý cả nhà. Con sắp chết, chữ khó đọc, ba… biểu... đọc ba nghe... Con đi đây...”. Ông Tư chồm lên, đòi đi đám tang. Không có tang. Anh tiểu đoàn trưởng đánh Tây trên đèo Hải Vân, cho quân về trước để nắm trung đội chặn hậu, trúng bom tan xác. Tây nó ném các mảnh xác còn lại xuống biển hết cho đỡ thối, đơn vị chỉ làm lễ truy điệu khi được tin đích xác là anh đã chết. Ông Tư hỏi từng tí, bởi tên thật anh tự nhận làm con nuôi ông cũng chưa biết. Té ra anh là người Thổ ở tận Lạng Sơn, mang cái tên thật khó đọc, vào Nam phải đổi tên Kinh cho dễ nói. Cái gói anh gửi chứa một chiếc dù sĩ quan Pháp, tốt hơn dù lính dù hàng, bốn phía đều in MADE IN USA, đồ Mỹ. Ông Tư giấu kỹ món quà, và mỗi lần thắp hương cho đứa con nuôi rơi vào tay ông như quả thị rớt bị bà già, ông lại bày các thứ dễ kiếm ở Linh Lâm như thịt khỉ, cá chình kho, nhà không sẵn thì hỏi vài ba nhà cũng kiếm được đủ cho con nuôi vui bụng.
Năm Bưởi biết mình đang kế vị những người đã bị anh con nuôi đuổi chạy, đã lập ngay tổ kỹ thuật ở xưởng để khỏi bị dọa ghê gớm như “hồi chín năm”. Làm kỹ thuật chỉ cần biết nhiều, tinh mắt, giữ được khách cho “mác ông Tư Chua”, thay cho các lò lôm côm làng nhàng khác. Đôi lúc chị phải tự tay đập, gọt, giũa tí chút, nhưng không phải làm nặng.
Và cứ như vậy, lò ông Tư Chua cùng tiệm chị Hai Thùy hút khách hàng về mình. Chỉ riêng Út Thanh Yên vắng nhà nhiều hơn. Trẻ con hỏi mãi, chỉ được nghe chung chung: “O út kiếm nghề làm ăn”, khi ỡm ờ thì nói: “O út bắt bồ rồi, phải kiếm chồng chớ”. Người lớn sao mà lắm chuyện khó hiểu!
Sự thật là Út Thanh Yên đã được vào Đoàn Thanh niên Lao động, xếp cảm tình Đảng, đang dự nhiều lớp về Đảng và Đoàn ở vùng núi của Tây Quảng, có thể được phép thoát ly lên xanh. Thanh Yên đã mười bảy tuổi, ai bàn sự khôn dại tùy ý, chỉ xin được vài ba năm cùng chịu đựng với các anh chị là đủ cho cả một đời khỏi nghĩ mình xa lánh đất nước, cách mạng, xa những người đáng kính yêu nhất. Cô út chỉ đủ sức nghĩ tới đó.