Chương 8
Cậu đội trưởng đội Võ trang tuyên truyền ở tù lâu quá, chẳng nhớ lính Cụ Hồ gọi nhau ra sao, cứ ra khẩu lệnh ang áng: “Nghiêm... phắt! Chào thượng cấp... chào!”. Rồi ai muốn chào bằng súng, nếu có súng, ai có mũ thì đưa tay lên vành mũ, ai không mũ thì nghiêng thân kiểu Nhật chừng vài chục độ tùy ý. Chẳng phải lúc bắt bẻ nhau, khi miền Nam đang nổi dậy đánh võ với Mỹ-ngụy, trong khi không có súng đạn trong tay.
Mười một người, với hai cây súng 1886-93 dài như sào vịt, ba cây súng săn một nòng nghe nói của dân vệ Mã-lai thải ra đem viện trợ cho dân vệ nhà Ngô, còn lại là ná tên, giáo mác. Đội Võ trang này moi được một hầm súng trường Matx của bộ đội tỉnh, vài chục khẩu, nhưng đều thép gỉ gỗ nát cả, không dám dùng. Lựu đạn thành đá cục, lính địch bị ném chỉ bầm ngực hay u đầu. Áo quần có gì mặc nấy, từ bà ba đen lụa Mỹ-Á đến đồng phục rằn ri của biệt động quân hay thủy quân lục chiến. Anh em được giao phát động khởi nghĩa ở ba xã vùng ven dãy Trường Sơn với mười bảy ngàn dân, với các sắc lính từ thôn vệ trở lên đến bảo an tỉnh cộng tới sáu ngàn, không kể các trung đoàn, sư đoàn quân chính quy đóng ở các quận, các khu chiến thuật, vùng chiến thuật Một, với hàng lô máy bay chiến đấu, trực thăng, xe tăng, đại bác từ các đồn giăng lưới lửa, chưa kể các thứ mới sẽ được Mỹ đem sang làm thí nghiệm đã được báo chí tung ra quảng cáo.
Đồng chí quyền bí thư tỉnh ủy Phan Thanh Trà không cạo bộ râu đen đã nuôi nhiều năm, nhưng thay mặc bộ quân phục ka-ki do Hai Thùy gửi Út Thanh Yên mang lên, chưa bị phai màu và ám khói củi. Suốt buổi trưa, Cả Chanh cứ phải nghĩ mình phải nói gì. Dường như tất cả đang bắt đầu lại từ đầu, tù khi đội du kích Linh Lâm lóng ngóng tuyên thệ trước lá cờ sai mẫu, khi sắp sẵn đi giành chính quyền năm 1945. Cũng vẫn những chàng trai cô gái thế này đây, cũng hăng say và vụng dại như thế, cũng nỗi thèm súng và đói rách như thế.
Tất cả cái vốn được xây dựng trong cả một cuộc chống Pháp trường kỳ, lẽ nào biến đi cả, để Đảng bộ miền Nam quay trở lại làm mức đầu tiên sau những năm bị tiêu diệt bởi chiến tranh một phía, chỉ có Mỹ-Diệm có quyền nổ súng?
- Tôi xin nói đôi lời trước giờ xuất phát...
Húúúú... oàng... phùng...
Quả pháo từ đồn Linh Lâm bắn lên nổ cách chỗ đội làm lễ lên đường vài trăm thước. Pháo 105. Ba bốn cậu nhào nằm sấp, hai cậu chạy xuống rãnh suối, đám đã hít mùi thuốc súng đứng yên. Chanh cũng đứng yên. Quả thứ hai nổ xa hơn đôi chút. Quả thứ ba xa hơn nữa. Các cậu chạy tìm hố núp đã quay lại, phủi áo quần, ấp úng phân trần.
- Thay mặt tỉnh ủy, tôi giao nhiệm vụ cho các đồng chí: móc nối với cơ sở ta trong các khu trù mật, diệt ác trừ gian theo danh sách đã được xét duyệt, cấm hẳn không được trả thù riêng, vận động cho nhân dân nổi dậy trở về làng...
Anh biết rõ chỉ thị sẽ được biến thành việc làm rất ít. Đội sẽ nổi vài phát súng thị oai, gọi loa “Hỡi đồng bào! Hỡi anh em dân vệ!”. Gọi là móc nối, cũng chỉ đủ sức nói rỉ tai. “Sắp rồi, anh em mình sắp về”. Sau đó là mở miệng bao bột mì viện trợ Mỹ, nhận gạo, khoai sắn khô, muối, có thể thêm chai nước mắm hay túi đậu phụng, và nếu là cha mẹ họ hàng thì thêm giấy bạc nhét túi. Đến hai giờ sáng lại bấm nhau lục tục lên dương lên gò ven núi, nghỉ một lát, chia nhau xấp bánh tráng với vài bát đường đen cho đỡ mệt, rồi lên hẳn trên núi, căng võng ngủ bù đến trưa.
Anh em thoát ly lên xanh, phải lao ngay vào làm rẫy, đêm xuống cõng gạo muối do cơ sở giúp, chỉ học lõm bõm được vài ba buổi chính trị, ít buổi quân sự, không đến nỗi gọi lầm mình là lính Giải phóng quốc gia, còn Việt Cộng là tàn quân Việt Minh biến thành thổ phỉ. Mười một người, có bốn mù chữ, ba mới tạm biết đọc biết viết. Theo Giải phóng, hai phần ba bảo rằng không muốn đánh nhau với cha anh đi tập kết, một phần ba để tránh nạn quân dịch.
Phương thức hoạt động là sao, cả đội trưởng cũng hiểu rất lơ mơ, chỉ “ăn đong lệnh trên”. Dẫn quân “đi huậy, đi quậy”, cho đám thôn vệ, dân vệ xã bớt lùng lội, cho đồng bào biết cách mạng còn đó, thằng nào ác ôn lì lợm nhất bị bà con ghét nhất thì cố mà diệt để dân mừng.
Tất cả lại phải bắt đầu lại từ đầu chăng?
Trung ương hứa chi viện, nhưng lại dặn phải tự lực cánh sinh. Các trạm giao liên ba bốn thanh niên Thượng chuyền vai nhau cõng vũ khí thuốc men vào, tháng vừa rồi tỉnh Quảng Nam được nhận bốn chục ký hàng: mười ký thuốc, ba chục ký đạn, lựu đạn, mìn. Thêm một trăm ngàn tiền ngụy Sài Gòn đổi ở nước ngoài nữa. Như muối bỏ biển cả thôi.
Chỉ còn bám dân mà sống, mà đánh giặc. Muốn được thế, phải chấm dứt cái tệ đánh mõ la làng, vác dao gậy và đèn gió đi săn Việt Cộng. Dân yêu cách mạng, quá rõ rồi, nhưng sợ địch cũng quá rõ. Tháo gỡ sao đây?
Chanh định cùng đi với đội này, nhưng đội trưởng và anh em đều can, bảo có một tổng đoàn dân vệ-khoảng một trung đội-đóng trong khu trù mật, hay đi phục kiếm thưởng, cả đội chưa quen đường, quen cơ sở. Cũng có thể họ không muốn anh thấy quá nhiều vụng dại của lính mới.
Chanh buộc võng nằm lại trong cái chòi rẫy, thắp cái đèn dã chiến bằng ve rượu bạc hà lên đọc xấp tài liệu mới. Con chó Dồ đã lon ton chạy trước, ngoảnh cổ lại thấy chủ không đi mà buộc võng, ngần ngừ quay lại, nằm gác trước cửa chòi cách vài chục thước. Nhưng Chanh đã giục cậu thư ký văn phòng đi với đội để hiểu thêm thực tế.
Chừng vài giờ sau, mé đồng bằng giội về hai loạt súng máy. Có lẽ tiếng đánh mõ la làng không vọng tới đây. Súng nhỏ chỉ nổ năm bảy phát, khác kiểu nổ giao chiến. Con Dồ gừ gừ, dòm đoán ý chủ, rồi đi gác xa hơn một quãng. Nó khôn đến tội nghiệp, đi đâu cũng được vỗ về, không ai nỡ gắt một câu. Ai cho ăn, nó còn đợi chủ gật đầu mới ăn, dù chủ nó họp tỉnh ủy, say cãi gì chẳng biết.
Chanh ngủ lịm đi, khi con Dồ sủa khẽ bên ngoài mới dậy. Tay trái vơ túi tài liệu khoác qua vai, tay phải túm nịt súng ngắn, chân bước êm vào góc nhà nghe ngóng: những cử động đã biến thành phản xạ.
Trăng hạ tuần soi đủ rõ để nhận ra anh em trở về, thổi lửa đun nước, thắp đèn. Mỗi người lễ mễ đặt xuống một bao nặng, nhìn bên ngoài cũng biết dưới gạo trên khoai. Cậu gần cuối buộc băng trắng trên bắp tay, treo tay bằng tấm bẹ chuối, cười khì:
- Đạn mới xẹt qua thôi chú. Bà Thím Thung rình coi biết chỗ tụi nó phục, thức ngó chừng, thấy bọn con đi qua ruộng, trăng mới ló, bóng in trên ruộng dễ thấy, bả chụp mõ đánh muốn toác, nổi la làng. Chòm xóm cũng nổi như ếch kêu sau mưa, lệnh tụi nó phải báo động liên hoàn mà. Thằng chỉ huy tổng đoàn tức quá, thụi bả nhào vô bụi chuối. Lão thôn trưởng dẫn tụi nó ra soi bờ ruộng, thấy rõ ràng cả mớ dấu dép, nó mới chịu lý, rút quân.
Các cậu thi nhau tiếp thêm:
- Tụi nó ngủ gật, bắn ăn nhằm gì chú.
- Trước khi về, con bò vô nhà bả, cười với nhau miết. Bả còn cứ nhao nhao: không báo động là thân Cộng, đánh mõ cũng là thân Cộng, bây giờ chỉ thân trong vợ chồng con cái thôi.
- Số cảm tình trong khu trù mật trách bác Cả đó. Các ông bà nói hờn: có Cả Chanh về tao mới tin là cách mạng thứ thiệt, tụi bay tao chưa tin, biết đâu tụi bay là quân Quốc dân đảng chưa ra hàng? Mà thôi, tao theo Phật, tụi bay đói tao cho ăn. Sau đừng chỉ mặt tao khai tội tiếp tế Cộng sản nghen.
- Nói lẫy thì vậy, lát sau lại đổi: Thằng Cả Chanh cao bao lớn, to bao lớn? Bằng cỡ đứa nào trong tụi bay? Ờ, được, tao gởi cho nó bộ bà ba thằng con mới may đây, mà cấm nó không được cho ai hết. Thêm một chục cá chuồn gành đây nữa, ít chục bánh tráng ăn nhúng, nhớ hâm lại...à, đưa tiêu với vị tinh đây cho mẹ, gói riêng ra, hâm rồi nêm sau... Mà bay phải bắt nó về đây, dạo một vòng cho bà con thấy mặt chút xíu thôi, chớ tụi hội đồng xã cứ rao là bắt nó rồi, giết nó rồi, chòm xóm không tin mà cứ nóng ruột hoài. Thấy nó một lần, đủ biết tụi kia láo khoét, từ đó nói gì cũng không tin nữa. Cái hay là ở đó, mấy con à.
Cá chuồn kho ngọt, bánh tráng nhúng, thêm mớ rau muống bứt dọc đường về, thêm khúc thịt heo luộc chừng nửa ký, thêm nước mắm ngon ngâm sẵn ớt tỏi, cả đội cùng liên hoan một chầu xả láng với bí thư tỉnh ủy, và con Dồ cũng được hưởng phần xứng công nó.
Chanh chưa muốn anh em mất vui, sáng hôm sau mới hỏi đội trưởng đội phó xem đã làm được gì trong công tác.
- Thưa thiệt với chú, chưa tới hàng rào đã bị bắn, chưa kéo vô khu trù mật được. Tụi nó bị dân làm dữ mới chịu rút. Anh em bò vô xin tiếp tế, được khá lắm, chú coi đó.
Thôi đành, bài học đầu tiên của đội Vê-tê-ba là biết dân mình vẫn là của mình, dần dà sẽ học thêm, hiểu thêm. Chỗ đáng lo là đồng bào ta vẫn cứ nghĩ: có gặp ông Chanh mới đúng là gặp cách mạng thứ thiệt, gặp từng đại đội lính mặc xi-ta mới đúng là quân mình. Ừ căn cứ cách mạng lâu năm, họ chưa tin hẳn ở nhóm trẻ mặc đồ táp nham và mang mấy cây súng tèng xí của thôn vệ, tự xưng là lính nhưng chỉ gọi loa mà không dám đánh cho ra đánh, khi tuyên truyền thì ấp úng cà lăm. Quân mình hồi chín năm đánh Tây có như thế đâu!
Khổ nỗi, lũ trẻ ấy là những kẻ cuối cùng sót lại dám chống quân Diệm, dám chọi với ác ôn Diệm. Đành liều lĩnh mà giúp chúng nó vậy! Ít nhất, chúng nó cũng dám tự nhận là theo Cụ Hồ, là do ông Cả Chanh phái về!
*
Huyện Tam Kỳ giữ được mấy xã ta làm chủ ven núi, nhưng thọc xuống vùng sâu chưa đủ mạnh. Huyện Tiên Phước dựa lực lượng võ trang hơn sức mình, chọc thủng vòng vây quá yếu. Huyện Quế Sơn hầu hết còn trong tay địch.
Huyện Thăng Bình vùng trên bị kìm kẹp gắt, nhưng vùng dưới quốc lộ Một địch còn bỏ lỏng, rút hết quân lên chống Việt Cộng nơi ven Trường Sơn, đánh nhiều trận dữ dội chung quanh thị trấn Việt An.
Cả Chanh trở về vùng Nam Quảng Nam, đước đặt ngay trước hàng loạt câu hỏi như thế, phải có quyết định dứt khoát. Bộ máy chính quyền Nhà nước không còn, bộ máy Mặt trận mới lập còn yếu, tất cả trút lên vai bộ máy của Đảng, phải tự quyết định và gánh chịu trách nhiệm dù muốn hay không. Anh Tô Xáng hay Cả Chanh lắm lúc thèm thuồng nhắc lại cái thời ủy ban với hàng loạt cán bộ chuyên môn, kể cả người nước ngoài, tự giải quyết những gì tỉnh ủy mù tịt. Trung ương hứa gửi cánh chuyên môn về giúp, nhưng họ chịu về hay không, và chia về cho Quảng Nam được bao nhiêu thì đố ai biết. Anh Xáng hay dỗ dành Chanh:
- Thôi đành, ba anh thợ giày thành Gia Cát Lượng..
- Ba trăm anh thợ giày chỉ khiêng được xe tăng Mỹ thôi, làm sao cho nó nổ máy?
- Dựa vào trí khôn tập thể chớ biết gì hơn?
- Tập thể một trăm sợi bún không thay được một khúc dây thép!
- Xin thua, xin thua thua. Tao biết nghề xe lửa, một thợ giỏi làm một tiếng hơn cả trăm thợ phụ lớ ngớ chạy quanh. Nghề chài của tao cũng vậy, bao giờ cũng kiếm một ông lão ngư biết coi trời mây, mưa nắng, gió xuôi gió trái. Mà kiếm đâu ra cái số thạo việc như mày nói đó?
- Cố kiếm từ đồng bằng lên, xin miền Bắc cho vô. Anh nhớ phần trách nhiệm đó nghen, phải nói hết mức trước Đại hội Ba.
- Mấy chục dây tròng trách nhiệm làm tao nghẹt thở rồi... ừ mà tao nhớ, nhớ nghim gút đây, lo vừa thôi khỉ ạ. Ngáy đi mày!
- Thì cũng phải cùng kỳ lý vậy…
- Mời “cụ Thượng” ngơi để đàn em chiêm bao một lát. Râu dài tới rốn mà cứ bốc máu đấu đá hoài!
Chanh về Tam Kỳ mở lớp học thêm về Nghị quyết Trung ương 15, các nghị quyết của tỉnh ủy, kinh nghiệm đồng khởi của Bến Tre, các tỉnh Nam Bộ, của khởi nghĩa Trà Bồng và Phú Yên, cho cán bộ từ xã trở lên, riêng thành thị được cử cơ sở vững đi học. Liên khu ủy cũng cử một khu ủy viên và nhiều cán bộ đến, vì Tam Kỳ là huyện lớn, đông dân, có đủ ba vùng: núi, đồng bằng, ven biển, nay có thể gọi là bốn vùng vì thị xã Tam Kỳ và các thị trấn đều phình lên rất nhanh, dễ nắm tình hình các mặt.
Mới nghe nói anh khu ủy viên sắp về là anh Sáu Phụ, bí danh là Vạn Lý, cán bộ đảng viên đã rúng xương hết. “Ngoáy sẵn tai mà nghe chửi!”. Hồi chống Pháp, anh là ủy viên thường vụ tỉnh ủy Quảng Nam nắm Tuyên huấn, hay đi giảng ở các lớp chính trị, giảng bài một mà chửi tới mười, rốt lại ai cũng phải nhận mình là quá xấu, quá tệ, gần như là đứa phản động chui vào Đảng, vào kháng chiến để phá từ bên trong. Qua bấy nhiêu năm, anh không đổi tính nết. Dường như “làm cho người sợ” là cách lãnh đạo số một. Cả Chanh cùng số tỉnh ủy viên bị anh Sáu chửi phủ đầu.
- Các đồng chí đòi đánh miết, trách móc khu ủy đủ điều. Bây giờ trên cho đánh, các đồng chí lại không dám đánh, chỉ đi vác loa kêu “hỡi hỡi”, xong là xin gạo muối đầy bao cõng về. Các đồng chí là con rùa, lấy núi làm mu rùa, gỗ trên lưng là con rùa rút sạch vô vỏ cứng, cả đầu đuôi tay chân.
Tất cả những người dự họp đều quay nhìn Cả Chanh, người bạo mồm nhất, cũng là người thay anh Tô Xáng đi họp tận Trung ương.
Chanh đã nổi máu “Quảng Nam hay cãi” từ trước, đang cố nén, theo cái lệ “không bao căng” khi đánh bóng chuyền hay chơi bóng đá. Anh lờ đi trước những đôi mắt đòi hỏi, cầu cứu. Các đồng chí trong nhóm tỉnh ủy Nam Quảng Nam rụt rè lên tiếng, tiếng sau mạnh hơn tiếng trước.
- Đề nghị anh Sáu giúp chúng tôi gỡ bí...
- Nam Quảng Nam là vùng tự do hồi xưa, địch nắm hết lý lịch mỗi đảng viên, cán bộ, hội viên, đoàn viên.
- Hồi cấm võ trang, ai còn mang một trái lựu đạn đập cũng bắt phải ném cả xuống vực, dân canh chĩa giáo ra phải chịu giơ tay cho trói, để khỏi “vi phạm”. Bây giờ biểu tụi tôi tấn công, tấn công dũng mãnh, liên tục. Lấy gì mà tấn công?
- Xin mời đồng chí Vạn Lý đi phá khu trù mật với anh em, vài đêm thôi. Đồng chí đem theo cả tiểu đội bảo vệ, đứng xa mà coi, chắc không bị đạn bị mìn gì đâu, đừng ngại.
Sáng hôm sau, khi lên lớp trước những người từ khắp nơi về, anh Vạn Lý chửi ít hơn, chỉ nhấn mạnh “hoa nở trong lòng”, “không lệ thuộc lực lượng ngoại lai” và “ tự lực giải phóng”. Ấy cũng là mong muốn cháy ruột của tất cả các cán bộ đảng viên trong huyện đông dân này. Chỉ vài tháng sau, anh được chỉ thị ra Bắc xếp việc khác, có thể cho về hưu. Tình cờ, điện Trung ương đến trong khi Chanh đang dự họp liên khu ủy mở rộng. Anh Vạn Lý nghỉ vài ngày để sửa soạn, trong các giờ nghỉ hay la cà qua các lán, chào hỏi những người quen. Khi từ biệt Chanh, anh nói một câu xã giao trong giới cán bộ:
- Trong công tác, tôi có gì sai sót, mong đồng chí thông cảm cho qua, cũng là vì dân vì Đảng cả.
- Úi, không dám, anh vì dân và Đảng, tụi tôi tội lỗi đầy mình, thoát được cái nhãn “phản dân phản Đảng” là mừng hết lớn rồi. Anh lên đường mạnh giỏi nghen.
Về sau, Chanh hối vì những lòi mỉa mai ấy, thấy mình quá độc miệng. Anh Vạn Lý với mình hiểu dân và Đảng khác xa nhau nhưng cùng chịu khổ cực như nhau, chưa đến nỗi hành hạ nhau vì bám thế hay hốt bạc. Anh ra Bắc với cái bao lưng nhẹ bỗng, giấy giới thiệu để giao liên đường 559 mang hộ ba-lô chỉ được chìa ra khi anh nổi sốt rét dọc đường chống gậy nhấc từng bước trên dọc Trường Sơn.
Báo cáo về kinh nghiệm phát động quần chúng là một chính trị viên tiểu đoàn, hồi chống Pháp chuyên ở vùng sau lưng địch nên giỏi làm dân vận. Anh cùng vài cán bộ nữa được cử vào tận Bến Tre và nhiều tỉnh khác để tầm sư học đạo, từ khi ra đi đến khi trở về mất hẳn một năm. Liên khu ủy đúc tất cả mặt hay mặt dở thành tài liệu, được gọi tắt là “Bảy khâu công tác”. Hội nghị đùa ngay:
- Sợi xích có bảy khâu, đứt một khâu giữa nó rớt làm hai!
Càng nghe càng mê. Định làm hai buổi, sau thêm một tối, thêm sáng hôm sau nữa, vẫn chưa hết câu hỏi. Khí sắc chung lên rõ, tuy cũng có số ít lắc đầu không tin:
- Học thì sáng như đèn, về xã thì đen như mực!
Tam Kỳ trước đây thuộc vùng tự do, không quen làm hầm bí mật, móc nối cơ sở bí mật. Các đội được đổi tên là Võ trang công tác, kẻo anh chị em cứ tưởng mình chỉ đi tuyên truyền là đủ. Mở ngay một đợt thi đua đào hầm, bám dân không kể tối trời hay trăng sáng, móc nhiều cơ sở, rút thanh niên lên núi lập bộ đội huyện, còn ở xã thôn thì lập du kích mật. Hai tháng sau chấm giải, phần thưởng là võ khí, từ tiểu liên đến mìn, lựu đạn, còn máy thu thanh bán dẫn thì nhân dân đã cho đủ dùng..
Mức thi đua đặt vừa sức thôi, nhưng các đội quyết vượt nhau, máu trẻ ưa chơi trội mà. Các đội liên tiếp báo về những tin đánh úp dân vệ thu được súng, giật mìn bom lép diệt bót gác, dồn tề không ác đi “chỉnh huấn” mấy đêm liền, số ngày đêm bám dân tăng vùn vụt cũng như số cơ sở mới.
Thăng Bình đang cho nhiều mũi xuống khoắng vùng sâu, khi địch đang dồn quân lên vùng ven núi, chặn cộng sản tràn xuống đồng bằng. Vùng cát Thăng Bình khá rộng đang vắng các sắc lính mạnh. Huyện ủy Thăng Bình xin cho nổ ngay kẻo “phong trào nguội” mất. Sau một ngày bàn cãi, soát lại sức địch sức ta, Cả Chanh cùng nhóm tỉnh ủy viên nắm cánh Nam thấy ta còn quá ham tiến mà chưa tính nước lùi, chưa biết giữ thành, không cho nổ sớm.
Tiên Phước, Quế Sơn, Tây Quảng đều chưa sẵn sàng nổ. Các huyện ủy đưa ra vô số lý do, nhưng lớp lãnh đạo quen “bắt mạch phong trào” như Chanh đều hiểu ngầm rất nhanh: Đảng bộ chưa quyết tâm. Có nơi huyện ủy quyết mà dưới chưa quyết, có nơi ngược lại, cấp dưới đòi mà trên sợ trách nhiệm nếu cuộc nổ thất bại.
Lắm lúc Chanh cảm thấy đầu mình muốn vỡ toác trước bấy nhiêu rắc rối.
Anh gọi con Dồ rất trung thành theo mình ra con suối gần nhất, tự xát xà phòng cho nó tắm thật sạch, vừa chà xát vừa vuốt ve, cho nó lên rùng lông phơi nắng mà vẫn nằm xa chủ vài chục thước, quay đuôi về phía chủ, dỏng tai căng mắt về chung quanh, gác cho chủ tắm tiếp. Ông Cả tắm lâu, mặt trầm ngâm, tức là ông Cả không vui. Con chó đã hiểu tính người, tiếng người tới mức nghe kêu “anh Cả”, “chú Cả” là chạy tới ngay xem chủ vui hay buồn, sai bảo gì không. Nếu ai đó sừng sộ, quát tháo, vung quả đấm vào ông chủ, nó sẽ lao vào cào ngực, cắn xé, có thể cắn đứt cổ họng, chỉ ngừng khi nghe tiếng quát: “Dồ, thôi, nằm xuống”. Nó lùi, nằm bén chân ông Cả mà vẫn gừ gừ tỏ ý sẵn sàng lao tới lần nữa, liệu hồn, chỉ cần ông Cả chỉ một ngón tay và quát: “Dồ, xung phong!”.
Và phần thưởng của nó chỉ là lúc ông chủ tắm cho nó, hay vuốt đầu nó đôi lần, vỗ lưng, khen giỏi. Nó được ông chủ khoe nhiều lần với các ông bà khác, nó hiểu qua ánh mắt và lời giọng dịu dàng khi các ông bà cùng nhìn nó. Nó dựng tai nghe đôi chút, len lén đến bên chỗ ông Cả ngồi, sực nhớ đến vai trò lính gác mới chạy ra ven rừng. Nó chỉ xem kỹ ông Cả cười hay nghiêm, ai thân và ai giận dữ với ông.
Ông chủ ngủ trên võng, ít ngủ sạp. Tối khuya, con Dồ mới rời chỗ gác, vào nằm sát bên võng, ngủ chập chờn như chỉ nhắm một mắt, cụp một tai và dựng tai kia. Gần sáng, ông chủ đi tiểu, nó chạy theo trông chừng, và nhận phần thưởng bằng đôi lần vỗ đầu: “Tội nghiệp con Dồ”. Đôi lần ông ôm đầu nó, thì thào gì đó chẳng hiểu. Nó run lên trong nỗi vui không chờ đợi, khó hiểu, chỉ biết rằng mình được thương yêu. Nó chỉ cần được thương yêu. Sinh trên núi, nhiều năm lớn lên trên núi, cha mẹ dần dà coi nó là kẻ dưng, lũ chó làng thỉnh thoảng gào thét xông vào con chó khác tầm vóc lông lá, nó quen tự kiếm ăn ngoài rừng, quen đánh nhau, quen nếp sống một mình. Nó chỉ gặp những người tốt bụng từ khi ông Cả nhận nó về, nó vâng lời chịu theo ông có râu mép lâu nay. Nó được trở về với ông Cả, rất mừng, mà ông Cả cứ thương nó như xưa. Nó cố đoán ý chiều lòng chủ, để được thương mãi mãi. Ôi tội nghiệp con Dồ! Nếu nó được biến thành người thì Cả Chanh xin nhận ngay làm con. Mà ngay bây giờ anh đã coi nó là con.
Giữa lúc cơ quan tỉnh bị đói, có người bàn xẻ thịt con Dồ, anh Tô Xáng đã cự: “Nó là con nuôi Cả Chanh, lại có công với cơ quan, đói quá thì làm thịt tao chớ đừng động tới nó!”. Chẳng ai dám ho he nữa. Đem áo quần đi đổi chó ở các làng Thượng là chuyện thường, anh em đánh chén tự nhiên, xẻ thịt con Dồ thì không nỡ nuốt. Cũng như chỗ khác nhau giữa con trâu cày đã làm giàu cho cả một nhà nông với con trâu hoang phải rình bắn, giữa con voi tải hàng có huân chương với con voi rừng về phá rẫy phá làng, giữa con mèo lạc hóa cáo chuyên trộm gà với con mèo khôn biết ngồi gác mâm cơm không lồng bàn cho chủ.
Sau một lần kiểm tra nữa, nhóm tỉnh ủy viên ở Nam Quảng Nam bật đèn xanh cho vùng cát Thăng Bình nổ, nhân khi địch đóng thưa thớt và chưa ngờ bị đánh sau lưng. Dù bị can ngăn, Cả Chanh nhất định xuống đấy trước và sau vụ nổ nhiều xã. Anh mặc bà ba, giữ nguyên bộ râu dài, gài cây súng ngắn ba nòng vào lưng quần-có thể vùi hay ném nó khi bị phục, bóp cò khi bọn địch lèo tèo, khai mình là dân bị ép đi phá rào, lấp hào chông. Và anh phải giao hẹn với huyện ủy là mình chỉ đi xem.
Đột phát động ở đấy khá mạnh. Một chục cổng chào căng khẩu hiệu của ta, nhân dân biểu tình từng xã trên số ngàn, đèn măng sông từ các tàu thuyền rớ đem lên sáng rực, chỉ phải xử hai tên ác ôn đã được duyệt án.
Đồng chí bí thư tỉnh ủy chỉ khoanh tay xem huyện xã làm ăn ra sao, không chịu “cho ý kiến”. Và huyện ủy phải trả lời một loạt căn vặn ráo riết của “cụ Thượng” về cuộc càn quét không tránh khỏi của địch, có thể đến cỡ trung đoàn. Ba ngày sau, địch tung quân đến “giập lửa” thật ra là tung lửa, đốt hơn một trăm nhà bị nghi “che giấu Việt Cộng” đốt bảy chục tàu thuyền lưới của các gia đình “bảng đen”, bắt chừng hai trăm dân bị ghép tội “ủng hộ Việt Cộng”. Chúng làm dữ đến nỗi bọn tề, dân vệ, địa phương quân phải kéo nhau đi kiện đòi thả người nhà, dân cùng làng xóm. Cha mẹ vợ con họ cũng phải sống yên lành gây thù kết oán mãi thì ai chịu đòn cho?
Vụ kêu kiện sau đợt khởi nghĩa kéo dài nhưng thành công. Địch phải thả số dân bị bắt, bồi thường những nhà cửa thuyền lưới bị đốt, tuy chua đủ số tiền nhưng cũng kha khá. Du kích các xã tăng gấp rưỡi, các đội Võ trang công tác đông vọt lên, biệt kích và dân vệ đêm đêm vào đồn hay tìm gò cát ngủ, “nhường dân cho Cộng”, khi sợ quá thì mỗi đêm đổi chỗ ngủ vài lần.
Hoa nở trong lòng thế là tàm tạm được. Các nơi khác sẽ làm được không?
Cả Chanh lại đi tiếp với mảnh khố và tấm bản đồ nhuộm chàm qua các huyện, kể kinh nghiệm khởi nghĩa các xã vùng sâu Thăng Bình. Con Dồ chạy trước một trăm thước, tới giao liên, tới “cụ Thượng”.
Cứ thế mà đi một đợt phát động Nam Quảng Nam, trước khi trở ra cánh Bắc để làm những việc anh Tô Xáng đã giao, cũng chẳng ít hơn số thòng lọng mà Chanh đã tròng vào cổ anh Xáng trước khi anh ra Bắc.
Anh Xáng ra Hà Nội, đã có một rừng việc chờ sẵn. Anh biến ngay vào khu nhà của Trường Nguyễn Ái Quốc trung ương, và lời đầu tiên của ban tổ chức là “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Các đại biểu từ miền Nam ra, nếu phải tiếp khách thì mỗi ngày tiếp mười hai tiếng chưa đủ, nói chi đến làm việc, nghỉ ngơi. Có hôm, các đoàn Trị Thiên Huế, Liên khu Năm, Nam Bộ có đến năm sáu trăm khách, chỉ vài ba chục người lọt được tới chỗ thường trực vì buồng tiếp quá nhỏ, còn bao nhiêu dựng xe đạp bao vây ngoài cổng như biểu tình ngồi, gửi tiền cho nhau mua bánh mì, nước chanh cam, kiên nhẫn cắm trại chờ khi ngớt họp để may ra hỏi được tí chút về gia đình, đồng chí, đồng bào ở trong kia. Bà con tập kết nhậy thật, chỉ cần một ai đó trong Ban đồng hương lỡ miệng hay rỉ tai một người thân, là đủ cho tin bay như gió, tất nhiên là Hà Nội trước, các tỉnh sau.
Các đồng chí miền Nam đọc cả tập dự thảo văn kiện được đóng dấu “Tối mật, thu hồi sau Đại hội”, đọc nhiều lần cho thuộc. Sau phần Đại hội công khai, họ phải đáp lễ hàng loạt nơi đã mời, không thể dứt áo ra đi ngay, dù họ sốt ruột đến mấy cho nơi quê hương đang đổ máu từng phút. Mất một giờ để nghe bà vợ của một ông tập kết nào đó kể dây mơ rễ má về căn buồng bị phân cho người khác, người được nhờ can thiệp lại có nhà cửa bị đốt, vợ con bị nhốt trong khu dồn và lang thang đói rách, thật là thử thách chẳng vừa.
Nhưng anh Tô Xáng đã kịp nhắn cho Sáu Cam và Hoàng Lan viết sẵn thư để anh mang về Nam, một tối nào chưa hẹn trước anh sẽ đến lấy, có thể là sau ngày liên hoan lớn của Đoàn thanh niên mừng Đại hội Đảng thành công.
Từ đó Cam về nhà Lan tất cả các tối. Anh Xáng đến, ngơ ngác trước anh chàng cao kều, râu quai nón, mặc bộ đại cán ka-ki Liên Xô màu sẫm. Không có gì giống với thằng nhỏ mà anh gặp đôi lần hồi chống Pháp, cũng rất ít những nét giống ông Tư Chua và Cả Chanh, cả giọng nói cũng gần với Hà Nội hơn Quảng Nam. Lan thì anh chưa gặp, hay gặp mà không nhớ nổi. Anh hối hả trả lời tới tấp chuyện nhà, chuyện làng xã, chuyện phong trào trong tỉnh, trong liên khu. Còn may là Chanh hay kể rành rọt chuyện nhà cho anh nghe như với người anh ruột, anh không đến nỗi ấm ớ.
Trong ba-lô trở về Nam của anh Xáng có thêm một xấp thư và gói quà nhỏ. Lan ở Hạ Lào không lâu, cũng chưa một lần gửi quà về nhà sau khi mẹ và em chết bom, đã gói một gói to tướng áo quần bánh kẹo định gửi cho nhà chồng. Cam trông thấy, kịp ngăn:
- Em bắt anh Xáng cõng bấy nhiêu thứ, leo Trường Sơn hàng tháng về Quảng Nam à?
- Em đã ở Quảng Nam bao giờ đâu mà biết!
- Dốc Quảng Nam, gan cộng sản, đường sá lên Hạ Lào còn dễ hơn ra Bắc.
Lan đi bán lại các thứ vừa mua, còn Cam vét tiền tiết kiệm mua được ba lạng sâm Triều Tiên, gửi cho cha mẹ, vợ chồng anh Cả, chị Năm Bưởi bị tù và tra tấn nhiều chưa khỏe hẳn. Tính mua thêm một chỉ vàng nhưng không đủ tiền.
Anh Tô Xáng đến lần thứ hai trước khi lên đường, vui lòng nhận mang thư và quà về quê. Lần này anh nhờ bạn đèo xe đạp, khỏi sốt ruột vì anh lái xe cùng với xe con Vôn-ga mới tinh nhé-phải chờ ngoài cổng sau bệnh viện. Hai anh cùng thưởng thức chầu mì Quảng của Lan làm, uống bia Trúc Bạch, cà rà tán chuyện xa gần.
- Nè Sáu, hay gặp anh Bảy Quý không?
- Em tới dinh anh Bảy hai lần. Vi-la sang lắm, lính gác ngoài cổng không cho vô, lần đầu là vì ảnh đi vắng, lần sau là ảnh dặn có giấy giới thiệu mới cho vô. Quan lớn rồi anh à!
- Mày tự ái hả Sáu?
- Tự trọng đúng hơn. Em nghĩ tình cũ đến thăm, công an tới bảo vệ tới văn phòng tới thư ký đều coi mình là thằng ăn mày. Có thể anh Bảy cũng coi em như ăn mày... Em đợi tới khi ảnh về hưu, mặt trời lặn em tới thăm, chớ bây giờ mặt trời đang rực lửa, càng gần càng nóng!
Anh Tô Xáng lên đường, còn kịp nhắc những lời gay gắt của Sáu Cam với anh Bảy Quý trước khi rời Hà Nội.
Chẳng ngờ, vài ngày sau, anh Bảy Quý cùng chị Sáu Lễ đến thăm Lan và con trong khu tập thể bệnh viện. Chẳng biết ai là ai, Lan cuống quýt thu dọn căn buồng. Đi xe Vôn-ga đến, có người báo trước và gác ngoài, chắc là các ông to bà lớn. Chị Sáu Lễ kéo Lan và con lên ô-tô, đi về ký túc Phúc Xá. Chiếc xe qua vùng bãi rác nồng hôi, lại lội bùn ngập nửa bánh, đến cổng ký túc. Cam đi vắng bị gọi đi họp xử lý vụ trồng khoai ở Gia Lâm và trồng ngô trên bãi sông Hồng, bị mấy tay quản lý ăn chặn-gần hết rồi vợ con họ đem luộc bán lại cho sinh viên ở ký túc ăn sáng theo giá chợ!
Trên đường về, hai anh chị nói thật tình là không biết có Cam đến thăm. Khách của anh chị mỗi ngày ít nhất vài chục, công an gác chẳng biết ai là ai, làm nhiều người phật ý chứ không phải riêng Cam. Nhờ anh Tô Xáng báo mới biết địa chỉ vợ chồng Cam, anh chị vội đến ngay. Lan không thấy chị kín đáo nhét một gói gì dưới gối thằng Nhứt đã ngủ say từ trên xe. Lan chỉ thấy nó khi buông màn, sửa gối. Có lẽ anh Xáng bảo Cam lấy vợ gần đây thôi, đã một con, nên chị Sáu Lễ đã mua quà cho cháu đầy tuổi tôi: lụa hoa màu sặc sỡ, đồ chơi nhựa cho trẻ mới biết đi, thuốc bổ cho phụ nữ đang cho con bú, kèm theo mảnh giấy nhỏ “Tặng cháu và Cam-Lan” kèm số điện thoại và câu tái bút: “Khoảng 8 giờ tối trở đi anh chị thường rảnh, các em tới chơi nhé, nên gọi điện báo trước để anh chị đón”. Quà của chị Sáu chắc là do chị nào đấy chọn giúp, chứ chị mới sinh con đã bị bắt ngay, và đứa con đã chết trong khi anh chị ở tù nơi xa. Khổ thân chị, đã từng nuôi trẻ đâu mà biết!
Anh Tô Xáng leo dốc tuột dốc một tháng rưỡi thì về đến cơ quan tỉnh ủy Quảng Nam. Bộ tổng tham mưu đã cấp lệnh cho giao liên đường 559 mang cho anh một gùi hàng hai chục ki-lô, tưởng là thừa thãi, anh chỉ cần ung dung chống gậy đi người không. Chẳng ngờ số thư và quà lên đến gần bốn chục ký, không kể số gạo muối phải mang thêm trên những chặng đường thiếu tiếp tế. Anh lại phải cõng nặng chẳng kém giao liên.
Trong cuộc họp tỉnh ủy mở rộng tiếp liền đấy, các gói thư, ảnh, quà được giao cho cán bộ để mang về trao tay cho các gia đình, bị anh Xáng bắt ký nhận vào sổ như bưu điện. Anh chị em nhấc nhấc từng gói trên tay:
- Chỗ này ít nhứt là hai chục sải lưỡi cước.
- Nhà này tôi biết, hạng khá giả, phải con heo nửa tạ.
Cả Chanh ngờ nghệch hỏi tại sao, họ cười ồ:
- Cụ Thượng ở núi lâu, quên hết lệ làng. Các gia đình có chồng con tập kết hay ở lại ngoài Bắc sau Giơ-ne, nhận được thư quà gởi vô, mừng hết lớn, hay tìm cách tạ lại cách mạng, nhiều ít tùy tâm. Mới đây có chủ tiệm thuốc Tây tặng cách mạng cả lô thuốc bị cấm, trụ sinh với chống sốt rét, chỉ xin ta giúp liên lạc với hai con đi tập kết. Nhà nghèo thì gánh lên một gánh mắm, cá chuồn muối, họ biết địch bao vây muối vùng mình.
Đoàn anh Xáng mang về rất nhiều kinh nghiệm quý. Ngoài các nghị quyết Đại hội, các anh còn tìm gặp các đoàn miền Nam khác, nói một lát thì hai bên cùng bốc, lắm khi quá nửa đêm mới đi ngủ. Bác Hồ và các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban bí thư cũng gặp nhiều để hỏi và bàn việc. Mệt quá, ngủ ít quá, chẳng ai lên cân được tuy tẩm bổ rất khá. Lại thêm đường về vất vả, các anh đều gầy và đen trũi.
Một câu hỏi được nhắc nhiều lần:
- Trung ương đánh giá Đảng bộ tỉnh ta và toàn miền Nam ra sao? Hay là coi thống kê, tưởng hầu hết đảng viên đã đầu hàng đầu thú? Số còn sót thì lên núi sống như Bá Di, Thúc Tề, Giới Tử Thôi đời xưa? (ý này do một huyện ủy viên tóc bạc nói).
Hội nghị định họp hai ngày, phải kéo thêm một ngày đêm nữa. Các đồng chí ra về hãy còn thòm thèm.
Từ giữa năm 1961 đến cuối năm, các đội Võ trang công tác bỏ dần kiểu vác loa đi đêm gọi “hỡi, hỡi”, xong lại leo lên gò lên núi với những ba-lô đầy ắp, đánh chén xong lại ngủ dài. Anh chị em quen dần với hầm chìm hầm nổi và nếp bám dân dài ngày, kể cả những ngày đêm mưa dầm nước ngập đầy hầm và những trưa hè ngột thở dưới cát nóng như rang. Dân cho ăn đến mấy cũng khó nuốt khi sống như thế.
Nhưng bấy nhiêu khổ cực được đền bù khi xã mình, khu vực mình “khởi” được, khi người dân được “phát” mãi đã “động”, khi cả tề lẫn lính ra hàng hoặc kéo nhau chạy vào đồn to xin được che chở, khi hàng ngàn dân họp mít tinh mừng ủy ban và đội du kích ra mắt, và kéo biếu tình rầm rộ qua các thôn, đánh thức nốt những ai đang còn ngờ vực, bàng hoàng, gờm cộng sản.
Các sông suối luôn luôn có dòng nước ngược hai bên bờ, kéo theo các thứ rác cùng bọt bèo ứ đọng. Các đội du kích vẫn còn người ra hàng địch với súng hay tay không. Dân trụ bám tại chỗ, dân vùng dưới chạy lên, cũng không ít dân sợ tàu bay đại bác chạy xuống vùng địch, sống vất vưởng trong các khu dồn dân, trong cái thế ngày nay chưa biết ai thắng ai. Ai cũng tiên bố mình sẽ thắng!
Có một đôi điều cấp trên dặn mãi là phải đẩy đấu tranh chính trị lên, đừng “cà nhắc một chân”. Nhưng lời dặn ấy xuống đến xã thôn thường rơi rụng hết, mà cứ làm như hồi chống Pháp: địch càn thì dân gánh gồng bồng bế nhau chạy về nơi vắng tiếng súng, du kích và cán bộ cố cản địch, lùi dần từ hàng rào kháng chiến vào các tuyến giữa, tuyến sau, bí hẳn thì xuống hầm bí mật, thường được gọi đùa là hầm bí. Khi huyện và tỉnh sạc mạnh, họ phân trần:
- Nói miết là phải giữ thế hợp pháp, không đấu tranh được nhiều cũng chặn được giặc đốt nhà, bắn trâu bò, mà bà con cứ nghe súng nổ là soạn gánh tản cư, cấm sao được!
Những đợt “khởi nghĩa từng phần, du kích cục bộ” ở Quảng Nam đã mang lại những xã thôn giải phóng đầu tiên dưới chân dãy Trường Sơn, mở những mũi chọc thủng đầu tiên từ vùng núi xuống đồng bằng, và vùng biển, tạo nên những cơn say sưa bốc đồng trong tất cả nhũng ai đang góp sức giải phóng miền Nam. Chỉ thẳng một lèo thế này là làm chủ hết vùng núi, nông thôn đồng bằng, và hái các thành thị như quả chín nẫu tự rụng.
Trong khi ấy, các chuyên gia chống Cộng của Mỹ và Diệm, của Anh, Mã-Lai, Phi-lip-pin, đang xúm lại cùng phân tích chiến lược chiến thuật qua hàng ngàn trang ghi được ở mỗi tỉnh, mỗi vùng có Việt Cộng. Kế hoạch “Bình định miền Nam Việt Nam trong mười tám tháng” thành hình. Hoa Kỳ sẵn sàng trút vũ khí, cố vấn cùng mọi thứ phí tổn khác vào cho Diệm, nhiều gấp bội.
Ngọn đòn quật lại của địch sẽ dữ dội và đột ngột. Nhưng xuống đến dưới xa, nó biến thành lời chế giễu:
- Hồi đen tối nhứt thì các ông biểu phải tin tưởng, lạc quan. Bây giờ anh em mình phóng xe rượt ác ôn trên quốc lộ Một thì các ổng lại nhắc đừng chủ quan khinh địch mà khốn. Chỗ nào giỏi đấu tranh chánh trị, cứ làm. Tụi tôi quen làm như hồi đánh Tây, miễn sao giải phóng được đất nước, xin đừng ép.
Không phải chờ đợi lâu, địch đánh trả ta trên toàn miền Nam. Tất cả những ai đã chế giễu lời căn dặn, đã đặt nải chuối cắm hương khi xuống hết dốc núi và làm lễ ly sơn đùa bỡn, nay hầu hết phải chay lên núi cao hơn trước, trừ một số ra đầu hàng địch vì quá đói hay vỡ mộng.
Phong trào Quảng Nam đành lùi bước. Khó lường trước là một hay nhiều bước khi phải lùi. Trước mặt là quân bộ, xe thiết giáp, pháo nhiều tầng, sát sau lưng là trực thăng từng bầy đổ quân, sau xa hơn là máy bay giội bom đạn, và ngay trong ruột đã có sẵn những tề và điệp giấu mặt.