← Quay lại trang sách

Chương 9

Hai Khánh mặc thường phục, lái chiếc Vexpa trở về khu nhà sĩ quan, mặt còn giận bừng bừng.

Mỹ Duyên đúng hẹn đến căn buồng anh thuê trong khu người Tàu, đưa cho Khánh một triệu đồng do lão Lê-ông La-phác-sơ trả công sau một chuyến buôn lậu hê-rô-in trót lọt. Duyên không nhận phần chia của mình:

- Em có huê hồng rồi, anh chia cho đám không quân thôi.

- Em được bao nhiêu?

- Kha khá, biết vậy thôi.

Duyên vẫn giữ kín phần đòi riêng của mình, chỉ cho biết làm phóng viên cho các hãng thông tấn và các báo nước ngoài, được tin cậy và trả lương khá.

- Thiệt tình, em là ai, Duyên?

- Là nhơn tình của thiếu tá Khánh, chưa chồng, đúng hơn là chưa muốn lấy chồng. Còn anh là ai?

- Em biết rõ anh như lòng bàn tay...

- Lầm to. Em ghét coi chỉ tay lắm, mấy cha thầy tướng nói dựa để hù dọa không hà. Em biết một chuyện thôi: anh là khúc cây chuối cắm hương cúng.

- Ồ!

- Họ ép anh nhận lon để chi? Các thứ truyền đơn với tài liệu tố cộng anh viết đó, ai làm chẳng được. Họ dùng anh làm mồi để câu cộng sản. Anh được vinh thăng thiệt dễ, vì các sĩ quan biết anh không đánh họ, chỉ dạy tù binh thôi, lại có ông phủ làm tỉnh phó. Phải như người khác là cán bộ, đảng viên, từng cầm súng xả đạn vô họ, thì cứ tra nhừ tử, liệu chừng phun ra hết thì cho đất lấp mặt hay vô bao mò tôm. Còn anh, họ vái như vái củ chuối cắm hương, chưa biết ngày nào ra đống rác!

Duyên nói những lời cay nghiệt ấy khi hai người đứng bên cổng vắng. Trong khi Khánh ngẩn ra, tức nghẹn họng, Duyên đi thoăn thoắt đến chỗ chiếc tắc-xi đợi sẵn chỗ đầu hẻm, giật cửa lên ngồi bên tài xế, và chiếc xe vù đi ngay.

Về đến trước cổng khu sĩ quan, Khánh gặp một trung sĩ dắt tay một đứa con trai chừng mười lăm tuổi, khá cao to, máu chảy thành dòng từ trán xuống mặt và ngực áo vá. Anh nhận ra bác hỏa đầu quân già, thuộc giới di cư răng đen thuốc lào, bị bắt lính muộn nên ngót mười năm mới ngoi đến trung sĩ. Bác này tính hơi khờ khạo, mang vào Nam đến hai vợ chín con, nằm chen chúc trong căn buồng lợp tôn của hạ sĩ quan trong khu gia đình mà bác quen gọi là “căng ma-dê” như hồi Pháp và Bảo Đại tóm cổ bác đi lính trong một trận càn ở Thái Bình. Đi đâu bác cũng khen thiếu tá Khánh là bình dân, là biết thương hạ cấp nghèo khổ, chẳng biết rằng mỗi lời khen như thế tạo thêm một vết đen vào lý lịch của Khánh trong hồ sơ của An ninh quân đội vốn rất đa nghi.

Bác trung sĩ nhà bếp trình thiếu tá rằng cậu Chung con thiếu tá đã dùng quả đấm sắt, thật ra là quả đấm đu-ra lồng vào tay, đấm thẳng con bác đến chảy máu. Cậu đốc gác nghe kiện thưa đã ra ngoài cổng, cũng nhận có thật như vậy.

Khánh đang cơn nóng, quát to:

- Lôi cổ thằng Chung ra đây!

Đốc gác rập chân chào kính, vào lôi được thằng Chung đang uống bia với nem chua, phì phèo thuốc lá Xa-lem với các bạn.

- Sao mày đánh bạn đổ máu?

- Tại hắn nói con là nửa Việt Cộng, nửa quốc gia.

- Bấy nhiêu thôi, đủ cho mày đánh nó chảy máu mặt à?

- Ai cộng sản, ai quốc gia, kệ họ, con nghe chướng tai là phát chưởng. Tiên hạ chủ vi cường, ba không biết à? Mà con ném đá chớ không đánh. Nó đô lắm, dại gì a vô cho nó uỵch!

Bác nấu ăn hốt hoảng: “Trình thiếu tá, cháu nó bé dại trót nhỡ... Còn ăn vạ đấy à? Rồi mày chết đòn với ông”. Bác túm tay lôi con xềnh xệch. Khánh gọi lại, rút ví ra đưa bác hai ngàn đồng:

- Biếu bác để buộc thuốc cho cháu, đừng đánh cháu. Nó chẳng bé dại đâu, nó nghĩ sao nói vậy là tốt.

Bác kia không để ý đến giọng mỉa mai của Khánh, chỉ sáng mắt lên khi khúm núm đưa hai tay đón xấp giấy bạc, cảm ơn rối rít. Lũ con bác lành thịt, ngày nào cũng có đứa ngã sứt trán hay toạc đầu gối, chỉ bôi tí thuốc đỏ cũng khỏi. Hai ngàn, những ba tạ gạo, chỉ vì bác để nguyên cho máu chảy ri rỉ, chờ thiếu tá về thực mục sở thị! Thêm những ba tạ gạo cho lũ tàu há mồm chen chúc trong căn trại lợp tôn của bác!

Khánh rẽ về nhà mình, vào ngồi trong phòng khách. Thằng Chung đã cùng các bạn nó chuồn ngả sau đâu mất, chị bếp đang thu dọn vỏ chai và quét tàn thuốc lá. Khánh mở tủ rượu, pha một cốc huýt-xki xô-đa, thêm đá, ra ngồi xa-lông, chống tay lên cằm, nhắm mắt.

Thế đấy. Chỉ trong vòng nửa tiếng, anh bị Mỹ Duyên mắng là khúc chuối cắm hương, con anh bị gọi đốp là nửa quốc gia nửa cộng sản. Anh được gọi là thứ gì trong hồ sơ tối mật của an ninh quân đội hay mật vụ của triều Ngô? Bao giờ anh sẽ ra đống rác? Chỉ cần các ngài triều Ngô quên lời phán xét cũ “Kháng chiến có công, cộng sản có tội, vì cướp công phản thực bài phong của toàn dân”, Khánh không vào tù cũng bị thải hồi. Duyên làm cố vấn cho anh, nhắc mãi: “Em giúp anh làm giàu để khi ra rìa anh không đến nỗi phải bán cháo phổi ở ba bốn nhà trường tư, làm nghề Godautre”.

Còn thằng Chung nữa. Mới mười hai tuổi, ai bày cho nó nói những câu bụi đời? Nó lìa mẹ như một đứa bé nhà quê, mặc một bộ bà ba quá chật và ngắn, có người đùa ác bảo nó thổi tắt đèn điện nó cũng bắc ghế lên rướn cổ thổi. Nay nó uống bia Mỹ, phì phèo thuốc Xa-lem, đi xem phim con heo, “cúp cua” liên tiếp đến nỗi trường tư cũng dọa đuổi. Ôi đứa trẻ xinh đẹp đã ám ảnh Khánh bấy nhiêu năm, ôm ghì mẹ Năm và “mẹ Xùi” ở Linh Lâm, đến nỗi Khánh phát ghen, khi về với ba nó lại thêm hư mỗi ngày một ít, cứ như nó bị nhiễm một thứ thuốc độc ngấm dai nào đấy.

Còn mình thì sao?

Mình là kẻ lừng khừng, chao đảo, ngả nghiêng. Nuôi ảo tưởng là đứng trên mọi cuộc loạn đả. Cố giữ tâm hồn kẻ sĩ, an bần lạc đạo, rốt cuộc thì bần không chịu nổi, mà đạo thì bị xói mòn mỗi ngày một ít. Bông mai bạc trên vai đang héo dần. Đang gắng gượng kiếm tiền bằng buôn lậu ma túy, không dám gửi tiền các ngân hàng vì sợ lộ tẩy, phải nhờ Mỹ Duyên mua vàng để chôn, nhưng chôn thấp thỏm vì sợ đảo chính, sợ mật vụ, sộ trộm cướp...

Chị bếp nói đâu đó, rụt rè giọng Huế:

- Thưa ông, cơm dọn rồi, ông thời cho nóng sốt.

- Thằng Chung về chưa?

- Dạ thưa chưa. Cậu hay đi chơi trái giờ.

- Chị cứ để đó. Tôi mệt, chưa ăn.

Cậu hạ sĩ hộ vệ đứng ngoài cửa, chào kính, xin phép về ăn cơm. Khánh đổi ý, gọi cậu ta vào ăn với mình. Vì độc thân, chẳng có ai chờ cơm, cậu vào giúp chị bếp dọn mâm. Khánh lấy trong tủ lạnh một chai bia, bát đá, chai cô-nhắc Pháp, đến ngồi vào bàn và tiếp người hộ vệ như khách quý, còn buộc chị bếp ngồi vào ăn chung. Anh nói như hồi chống Pháp, sau khi chạm cốc:

- Tụi mình gặp nhau đã lâu mà ít được dịp nói chuyện tâm tình. Nhờ các bạn nói giùm: tôi có làm gì bậy bạ sai sót đối với các bạn, với hàng xóm trong khu này không?

Hai người khách luống cuống ngó nhau, không mở miệng. Họ đã quen “thủ khẩu như bình” tránh mắc vạ miệng. Khánh chợt thấy mình vào đề quá đột ngột, vội giục:

- Mà ta ăn uống đã chứ. Vầy đây: chị vô bếp, khuân hết các thứ này ra cho đàn ông tụi tôi nhậu, có thiếu thì mở thêm vài hộp thịt cá nữa. Tụi tôi tội lỗi đầy mình, không dám vô chỗ vương quốc của chị đâu.

Nửa giờ sau, khi rượu và bia đã ngấm, họ mới khai khẩu:

- Trình thiếu tá...

- Thiếu tá nào ở đây? Tôi mời hai bạn, kêu tôi là anh Hai là quá rồi.

- Dạ, thưa anh Hai, bà con khen anh Hai hiền như ông thầy tu, anh Hai thương người, từ bà già tới con nít. Vậy mà họ còn nghi anh Hai đó. Họ nói anh Hai sống theo kiểu Cụ Hồ. Còn mấy ông tướng tá khác cứ làm giàu như điên...

Chị bếp không quen chất men, đỏ mặt từ nãy, chêm vào:

- Họ còn nói thiếu tá... ờ, anh Hai, không lấy vợ, thiệt không anh Hai? Nhà trống hoang, thằng Chung hư rõ ràng, phải có đờn bà coi ngó...

- Em là lính chiến, đụng mấy thằng mật vụ tới hỏi dò đời thiếu tá, nhiều lần rồi đó, em nói ông Khánh là số rách trong số sĩ quan được phong tá. Tin hay không tùy tụi nó. Hễ anh Hai vô số đen thì em cũng khó thoát tàu bay tàu ngầm, thà nói thẳng vậy hay hơn. Hồi đảo chánh hụt, tiếp dinh Độc lập bị bom nặng, mật vụ nó rình hết thảy... Em hỏi thiệt nghen anh Hai: hay là anh Hai nghi cả tụi em ăn ở hai lòng? Anh Hai... mời ăn, đổ rượu cho say... để thử bụng nhau... Thằng này mạnh rượu lắm… không say... càng uống càng tỉnh... Đây, thiếu tá coi...

Cậu ta tự rót thêm một ly nữa, dốc cạn, líu lưỡi lè nhè thêm những gì không rõ. Khánh biết cậu ta tính bộc tuệch, đang tán tỉnh chị bếp lớn hơn cậu hai tuổi, nhưng trông còn rất trẻ. Chị lấy một trung sĩ, góa chồng vài chục ngày sau lễ cưới, chồng chết vì xe vấp mìn trên đèo Hải Vân, xác văng xuống vực nào không tìm thấy. Chị được an ủi bằng một chân nấu ăn, ban đầu trong nhà một đại tá, nhưng không chịu nổi “tánh nết quan lớn” của bà chủ, được chuyển sang cho Khánh để tránh một vụ đầu độc vì cáu giận.

Bây giờ chị len lén rút chai cô-nhắc khỏi mặt bàn, giấu vào một góc kín, lấy hai chai bia trong tủ lạnh kèm hai cốc đá trước hai người đàn ông, một say mèm và một chỉ hơi ngà ngà, vẫn giữ đôi mắt sắc sảo ngắm hai người hầu gần gũi nhất:

- Thiếu tá đừng chấp ảnh, uống vài ly là rượu nói thay người. Tụi em như khúc gỗ lăn tròn, đui mù chuyện chánh trị, sức mấy mà nói chuyện lớn. Có điều thiếu tá cứ tin là tụi em dân nghèo kiếm ăn, chẳng muốn theo ai hay phản ai. Tụi em là dân đen, chẳng biết phe nào là phe nào, em nấu cơm cho sĩ quan ở vi-la hay ở tù cũng vậy thôi...

Khánh bật cười, rõ ra cười gượng:

- Không ai thử ai đâu chị, đừng nghi oan cho tôi. Vui nhậu với người nhà một lát thôi. Các thứ chị cứ úp lồng bàn để đó cho thằng Chung về vét nồi, chị mở giường xếp cho hạ sĩ ngủ đây.

Dù đôi mắt chị Bếp đã ngả sang hờn giận, Khánh vẫn lẳng lặng vào buồng mình. Chị ấy muốn gài Khánh vào một vụ bê bối buộc phải cưới, nhưng Khánh không chịu mắc bẫy. Cậu hạ sĩ non choẹt kia là con mồi dự trữ, trượt thiếu tá thì đành lấy hạ sĩ chứ biết sao, mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi!

Hai Khánh chợp mắt được nhờ hai viên gác-đê-nan uống cách quãng. Gói tiền một triệu không làm anh quên được những lời cay nghiệt của Mỹ Duyên. Dù giận tràn hông, anh vẫn phải nhận là Duyên nói không sai. Chỉ cần một lần đảo chính nữa, dù thành hay bại, phe phái nào nắm quyền cũng ném anh vào góc rào, có khi cho vào máng heo ăn nếu còn hơi tươi. Tất nhiên, ngài tỉnh phó sẽ cho ra một trong hàng trăm mưu mẹo để thoát thân một mình. Me anh gửi thư từ Sài Gòn ra, cho biết có tin đồn ông phủ Đỉnh sắp lấy vợ khác, tuy đã gần sáu mươi nhưng cái máu “ba mươi lăm” còn khá đậm. Bà mới này là vợ góa của một quan Tây, có hai đứa con lai, được hưởng của chồng để lại nên rất giàu, chăm đi mỹ viện nên nhan sắc không quá héo.

Ông phủ rất ít gặp Khánh, chỉ sai thư ký gọi điện thoại đến nhà hoặc chỗ làm việc của Khánh nói đôi lời thăm hỏi. Khu ruộng vườn mà dân làng Linh Lâm cứ nhất định gọi là “ấp ông Hường” rốt cuộc đã lấn sang khu đồn điền La-phác-sơ bên kia sông Linh, tăng thêm chừng hai trăm mẫu tây chỗ đất tốt nhất và dễ tưới nhất bằng nước suối Blam có đập ngăn. Chỗ còn lại được giao cho dân di cư làm nương rẫy. Canh gác cho vùng đất tốt nhất và mới của ngài tỉnh phó có một đồn lính bảo an mới lập chỗ đường 56 gặp sông Linh, hai đồn dân vệ, sáu điểm gác của thôn vệ và dân canh, còn thêm một trung đội dân vệ biệt kích của xã và các tiểu đội vệ sĩ của các thôn công giáo di cư. Quản lý đồn điền của ngài là ông Cửu Áng, mà ngày nay ai cũng gọi lại cái tên hồi làm lý trưởng nắm triện đồng trước khi Việt Minh lên cầm quyền. Ông vẫn giữ cung cách lý trưởng bình dân như xưa, luôn luôn nheo mắt cười hề hề, hay đến lò rèn ông Tư Chua để cà rà chuyện “bạn già với nhau”, khi vắng thì ngả sang “bạn cũ kháng chiến với nhau”. Cửu Áng ăn cắp không thua lão Huần ngày trước coi đồn điền La-phạt, nhưng kín hơn, khéo hơn nhiều, vì biết bản lĩnh của ngài tỉnh phó cao tay ấn hơn lão Tây nghiện hút, lâu nay chỉ về Linh Lâm một lần, dạo xem đất cũ vài ba tiếng, lại đi ngay...

Bốn giờ sáng, chuông điện thoại réo từng hồi dài, muốn lờ cũng chẳng được. Khánh nghiêng mình, nhấc máy.

- Thưa, có phải thiếu tá Khánh không ạ?

- Đúng tôi đây. Có việc gì?

- Xin cầm máy, đại tá cần nói chuyện.

Cũng được. Nếu định bắt giam, chỉ có một tốp an ninh quân đội kín đáo đến chặn cổng trước cổng sau, bấm chuông gọi, đưa lệnh bắt, thu súng ngắn, cho ra xe cây đóng kín, xong.

Đại tá tư lệnh sư đoàn chỉ nói máy câu:

- Xừ tới gặp tớ ngay nhé. Phòng Thần phong trong phi trường, tớ không ở nhà đâu. Cần cho xe hộ vệ không? Đường vô phi trường chẳng có gì rối. Việc gấp, xừ đến ngay nghe.

Khánh đánh thức cậu hộ vệ để đi gọi lái xe, sau đó mới mặc quân phục, đeo quân hàm trên ngực theo kiểu ra trận.

Thì ra đó là một trận hành quân quét Việt Nam cộng hòa, với khá nhiều cố vấn Mỹ đi theo. Mũi chính chĩa vào huyện Tây Quảng, bản đồ tham mưu gắn nhiều mũi tên chĩa vào các làng ven sông Linh, chỗ hội tụ là cái làng Linh Lâm mà Khánh rất quen, được đánh dấu xanh biển trên bản đồ tham mưu.

Đại tá nói thêm:

- Địa đồ này tớ đã gửi cho không quân, lơ mơ thì tụi nó bom cả quân mình, cả ấp cụ Đỉnh, cả khu di cư. Xừ cứ yên chí lớn, tớ đi theo thiết giáp xa mà cầm máy hăm bốn trên hăm bốn, ấp cụ via chả bị lầm đâu... Phần xừ Khánh rất nhẹ: xừ cho thu tiếng vào băng, chửi Việt Cộng hăng vào, in ảnh vào truyền đơn gọi cán binh Việt Cộng ra hàng, xừ ngồi trên trực thăng hay L.19, xem nổ phát đòn tâm lý chiến tốt không, mạnh không. Đừng như hồi đầu năm, tụi không quân phát loa vùng Thượng mà nói tiếng Kinh, máy nổ rầm rầm chẳng ai nghe được, mà truyền đơn mửa ra lại bằng tiếng Ăng-lê, kỳ cục hết cỡ!

Đại tá nhìn Khánh xoi mói:

- Phần việc thế, có phiền gì không, xừ cứ nói. Hay xừ còn sợ dân nó chửi, các đồng chí cũ trả thù, sợ mất con đường lui khi muốn chạy sang bên kia?

Một luồng nước lạnh buốt chạy dọc xương sống Khánh. Đến cái lão võ biền di cư kia mà nói trúng tim đen anh đến thế, ắt hồ sơ của anh ở an ninh quân đội, mật vụ, tổng nha công an cảnh sát đã dày lắm rồi... Khánh vười gượng, cố lấy giọng thơ ơ nhất:

- Đại tá đa nghi quá. Tôi xin tuân lệnh ngay tắp lự.

- Xừ khá lắm, chưa quên lối nói Hà Nội. Thế này nhé: xừ làm rất gấp năm bảy cái băng thu tiếng, viết nhanh một truyền đơn có in ảnh, đưa cho tụi kỹ thuật bắt làm hỏa tốc từ giờ đến trưa.

Tớ đi theo chiếc C.47 chỉ huy, hễ quân bộ dồn Vi-xi tới bờ sông Linh, quân blocking force [1] xuống trực thăng chặn đứng sau lưng tụi nó, tớ gọi ra-đi-ô về thì xừ cho hai L.19 cất cánh ngay, chiếc trước phát loa, chiếc sau rải truyền đơn. L.19 chở ít mà máy êm, chẳng như đám trực thăng ồn nhức tai. Tớ cho lệnh rồi đấy, hai “Cô Liên mười chín tuổi” đặt dưới quyền xừ, cẩn thận thì mang theo ít tiểu liên với lựu đạn khói chỉ điểm. Hurry, hurrry up! [2]

Khánh trở về bàn mình trong dãy phòng tâm lý chiến, soạn giấy bút ra, ngồi thừ một lúc. Thế là rõ. Đâm lao phải theo lao. Một liều ba bảy cũng liều. Đã qua rồi cái thời đóng vai quân tử Tàu, vai thức giả, vai bề trên chế giễu những người dốt nát mà mình hạ cố cùng làm cuộc kháng chiến, vai thầy giáo cao ẩn chốn thị thành mà chẳng được yên.

Mình đã đầu hàng từng bước, lún sâu từng bước. Triều đình họ Ngô biết rõ mình còn vương vấn tí chút với bên kia, họ cứ dùng, vì đã thấy rất nhiều người kháng chiến cố chuộc tội khi theo quốc gia, và không thân Pháp, không muốn dính vào các vụ đảo chính, cũng là một nét hay của số ra hàng.

Ba bông mai vàng cấp đại úy được thay khá nhanh bằng một bông mai cấp thiếu tá cho dù lớp sĩ quan chai sạn từ thời đánh Việt Minh và sớm theo cụ Ngô đánh phe thân Pháp còn hậm hực, kêu Ngô tổng thống vắt chanh bỏ vỏ. Nhưng triều Ngô đủ khôn để tạo nên một lớp sĩ quan mới đã từng phản thực bài phong, và luyện cho họ đứt hẳn những tơ lông còn dính với cộng sản. Quen ăn thì không quen nhịn, họ phải bám chắc Ngô triều để sống còn.

Nay đã hết những ngày chìm trong bóng tối để soạn tài liệu tố cộng, viết những tờ “tâm thư” cho các vị tướng, vị tỉnh trưởng, vị tư lệnh ký tên. Họ đòi thiếu tá Ung Viết Khánh phải chường mặt ra chống cộng, bằng truyền đơn có ký tên và in ảnh, bằng tiếng nói thu ri-coóc-đơ có xưng tên, buộc mình phải nhúng tay vào chàm cho hết đường lui. Cũng như họ ép các cảnh sát phải ăn gan uống huyết phạm nhân, đám đầu thú phải tự tay tra tấn hoặc bắn chết đồng chí cũ, ít nhất cũng phải xé cờ cộng sản và ảnh Cụ Hồ trong các mít-tinh đông dân, để cắt hẳn đường trở về. Khánh được coi như trí thức, của khá hiếm trong quân lực Việt Nam cộng hòa, họ không làm quá như thế, chỉ cần Khánh xuất đầu lộ diện.

Không thể lùi được nữa rồi.

Khánh sang bộ phận nhiếp ảnh để chụp mấy kiểu 4x6, hẹn lấy gấp để kịp in. Nháp vội một “Lời kêu gọi các bạn đã cùng tôi theo kháng chiến”, với cái điệp khúc chính thức của triều Ngô chưa thay đổi: “Kháng chiến chống thực dân là có công, cộng sản là có tội cướp công kháng chiến”. Vừa cho đánh máy xong bản truyền đơn ngắn, ảnh của Khánh được mang tới. Ghép vào nhau xong chỉ mới hơn tám giờ sáng. Bộ phận kỹ thuật đã nhận lệnh in gấp, thu gấp, tới mười giờ sáng đã xong một việc, cũng như hai “Cô Liên 19 tuổi” sẵn sàng nổ máy ở đầu đường bay. Lệnh đại tá vẫn chưa đến. Các phi công nhìn Khánh và cậu trung úy trẻ bằng cặp mắt lạnh lùng khi họ hỏi nhận dù, nói giữa hai quân bài đánh dưới cánh máy bay:

- Thiếu tá tới hỏi bọn “bò sát” mà lấy. Tụi tôi chỉ được phát mỗi đứa một dù.

Khánh lóc cóc đi tìm đám phát dù. Cậu thiếu úy đòi cho xem lệnh cấp dù của không quân, bởi lục quân đi trực thăng không mang dù. Khánh không có giấy lệnh, được xin lỗi và bị bỏ trơ ra đấy. Cậu trung úy lấy xe Gip đi tìm ông chỉ huy sân bay, bị quân cảnh chặn nửa đường và đuổi quay lại vì thiếu giấy phép đi lại trong cái sân bay rộng như thành phố này.

Cái bông mai bạc cài trên ngực Khánh lúc này nặng như cục chì. Họ muốn giết mình thì quá dễ, chẳng thí cho rơi một chiếc L.19 đâu, chỉ cần lấp khúc dây bở dế đứt vào đầu nút của nịt bụng, về đến gần sân bay thì cho máy bay lộn ngửa một vòng quen thuộc, mình sẽ thành bãi phân trâu dưới đất, và sau đó họ đổ cho hệ thống lái bị trục trặc. Năm ngoái một trung tá dính từ xa vào đảo chính đã bị xử êm như thế.

Khánh gọi điện về chỗ mình, gọi một thiếu úy đến gấp, giao lại tất cả mọi thứ để đi thay mình, vừa xong thì lệnh đại tá cũng đến, gọi tâm lý chiến lên đường ngay. Khánh chỉ kịp dặn thêm hai cậu trẻ măng kia:

- Lên chỗ khu chiến, hễ đại tá hỏi tại sao tao không đi, mày nói tao đau bụng ỉa chảy. Chắc ổng hỏi đó. Nhớ kỹ tần số, mật hiệu là “Em Liên kêu Cua thép Một”. Đi tốt nghe, hai cưng!

Quá trưa, hai chiếc L.19 về đủ. Chiếc thứ hai dành chỗ ngồi sau cho Khánh bị một tràng dài đạn nhỏ dưới đất bắn lên, không hỏng máy nhưng cậu thiếu úy đi thay Khánh bị nát cả hai đùi, xương lẫn với thịt, chắc phải cưa cả hai chân trên đầu gối.

Trong xắc-cốt của Khánh có một bộ đạn lép của các cỡ súng thường dùng. Anh rút ra đút thử vào các lỗ đạn. Cỡ 7,5 ly của trung liên 24-29 Pháp không lọt, cỡ 7,62 ly của Brao-ning Mỹ cũng không lọt. Cuối cùng, cỡ nhỏ nhất của M.16 vừa các lỗ. Thứ này Mỹ mới đưa sang dùng thử, mỗi sư đoàn được phát mươi cây, và chưa cây nào lọt vào tay cộng sản. Số lỗ đạn trên thân máy bay nhiều hơn số hai chục viên của một băng M.16, như thế đã có vài ba cây cùng bắn, và bắn khi máy bay xuống thấp, không đề phòng. Chỗ ngồi đằng trước của phi công không có vết đạn.

Có thể tin đến chín mươi phần trăm rằng các ông chiến hữu quý hóa không muốn tái bản cái trò đứt dây bảo hiểm đã gây quá nhiều xôn xao trong hàng sĩ quan, nhưng họ đạo diễn vở kịch mới còn vụng lắm.

Khánh sẽ mua những ngày sống sắp tới bằng cách nào?

*

Vừa đẩy đi trót lọt được món hàng bốn chục ki-lô ma túy đắt tiền nhất-hê-rô-in loại 4-lão Lê-ông La-phác-sơ nhận được điện khẩn của Gia-nét đánh đi từ đồn điền cao-su ri-sô, gọi lão về ngay có việc rất gấp. Không báo rõ việc gì.

Lão hối hả vào Sài Gòn, đẩy bớt mấy triệu đồng vào chi nhánh ngân hàng Thụy-sĩ ở đấy sau khi đổi ra phrăng Thụy-sĩ. Ngân hàng Pháp quốc cũng có chi nhánh, nhưng chẳng ai dám gửi vì chiến tranh An-giê-ri gây rối ren và lạm phát dữ dội ở chính quốc. Rồi lão cùng gã da đen Rơ-nê lái chiếc xe đua trá hình vọt lên đồn điền của con gái và con rể.

Một tin sét đánh đang chờ lão: đứa con trai của lão, trung tá Pi-e La-phác-sơ đã chết, hay như cách nói triệu lần như một của giới nhà binh là “đã ngã trên trường vinh dự”. Kèm theo giấy báo tử là bản sao quyết định tặng cho Pi-e huân chương “Chữ thập chiến tranh”. Gia đình có thể nhận các thứ của trung tá tại thủ phủ An-giê hay qua bưu điện.

Lê-ông dựa ngửa đầu trên ghế bành, nhắm mắt, đầu óc xoay tròn. Lúc này Gia-nét mới thấy cha mình héo hắt đến chừng nào. Tóc cha chỉ còn một phần ba vành khăn chạy qua hai mang tai và sau gáy, bạc gần hết. Cha bao nhiêu tuổi nhỉ? Sáu mốt... sáu lăm? Gia-nét từ lâu không còn nhớ ngày tháng năm sinh của cha, chỉ nhớ những dịp kỷ niệm của mình, của chồng, của ba đứa con, trong khi cha không quên một ngày nào, luôn đánh điện chúc mừng mỗi dịp sinh nhật kèm theo một tấm séc, gần đây nhất là điện và séc nhân ngày cưới của Ang-đrê và Gia-nét, giúp vợ chồng Gia-ry-nét sắm thêm được một máy xén cỏ trong đồn điền cao-su. Con tệ bạc khủng khiếp, phải không cha? Mỗi lần nhận điện và tiền, con chỉ điện cảm ơn, đôi chữ thương nhớ, nhưng vài giờ sau con quên sạch, chỉ còn biết tới mình, chồng, các con nhỏ.

Anh Ăng-đrê đang phát phì với cặp má tròn, ba lớp cằm, cái bụng ngày càng đùn mỡ thành phệ, dáng đi khệnh khạng rất oai của ông chủ đồn điền. Khi nhận điện báo Pi-e chết, anh chỉ im lặng một lát như mặc niệm người chết. Khi ăn tối anh mỏi nói: “Vậy là gia tài vào tay Gia-nét cả rồi, liệu mà ăn ở với ông cụ. Nghiện ma túy không sống được lâu đâu”. Gia-nét hãi hùng ném dao nĩa vào đĩa ăn, kêu nhức đầu đi nằm sớm, không cho chồng con vào buồng ngủ.

Lão Lê-ông chỉ uống một bình sữa chua, đi vào căn buồng được dọn riêng đón lão, tự tiêm một liều hê-rô-in gấp đôi mức thường để chìm vào ảo mộng, nhưng trong tất cả mộng mơ đều thấy thằng Pi-e hiện hình. Nó chế giễu, đòi hỏi, mở tròn mát nghe lời lão răn dạy, cảm ơn lão nhiều lần vì đá nhồi tiền vào ví nó, đòi thêm nữa khi nó chuyển sang Bắc Phi, rồi gửi thư cho lão với những dòng thắm thiết: “Con ngày càng nhận thấy Ba là người duy nhất trên trái đất này nghĩ đến đứa con bất hạnh nơi xa, dù đứa con hỗn xược và phá của ấy đã gây cho Ba rất nhiều cơn đau lòng”.

Gia-nét bồng đứa con thứ ba vào xem cha ngủ nhiều lần. Cha nằm như lịm đi, thở rất ít, chỉ thỉnh thoảng lẩm bẩm đôi môi thâm như mớ không thành tiếng. Gia-nét cũng thấy trên môi mình dồn ứ một câu hỏi: Ai sẽ đi An-giê-ri dự lễ truy điệu và tìm cách đưa Pi-e về chôn ở Mác-xây theo nguyện vọng Pi-e đã nhắc vài lần trong thư, và nhận tất cả các thứ Pi-e để lại?

Ăng-đrê? Chắc chắn anh ấy không đi. Hai người đàn ông ngày càng ghét nhau, xa nhau như sừng với đuôi tuy cùng ghép vào một thân con bò. Ăng-đrê đang mê say làm giàu, gần đây bắt nhân tình với một ả gái nhảy người Tàu lai Pháp ở Sài Gòn, Gia-nét biết rõ nhưng không dám nói gì. Định xén bớt những món tiền cha gửi cho, cũng không dám. Định gửi thư cho cha xin đổi cách khác: thay vì dùng séc, xin cha cứ trao tay cho một bà Pháp, cũng là chủ đồn điền nhưng con đã lớn, bà về ở Sài Gòn, đều đều mỗi tháng một lần về đồn điền thăm các cháu nội. Bà ta sẽ ghé ngang đồn điền Ri-sô để bí mật đưa lại cho Gia-nét. Sắp xếp vừa xong, chưa kịp viết thư gửi cha thì ngói đã sụt xuống đầu...

Đành để cha tự định đoạt.

Sáng hôm sau, Lê-ông uống vội ly cà-phê sữa, lật xem lịch bay của tất cả các hãng hàng không, bỗng hối hả gọi Rơ-nê xách va-li ra xe, chưa kịp ăn. Có một chuyến bay của hãng Air France vào năm giờ chiều nay. Phải đi gấp mới kịp rút tiền, mua vé bằng bất cứ giá nào, thu xếp công việc. Gia-nét dắt các con ra hôn ông ngoại, và rỉ khẽ vào tai:

- Ba đừng đem cái món... món ba thường dùng ấy mà... lỡ họ khám thấy... con lo lắm...

- Không đâu, ba chỉ đem tiền. Như người Việt nói, có tiền mua tiên cũng được. Đi nhé, Ăng-đrê. Chúc cả nhà khỏe.

- Rơ-nê, đợi tí.

Gia-nét gói các thứ ăn sáng kèm bốn chai bia và xô-đa, nhét cả vào túi lưới. Tất cả những ai quen đều nhận rằng Gia-nét trẻ rất lâu, đã ba con mà như gái một con. Họ không biết vợ chồng Gia-nét đang ngấm ngầm chán nhau. Chán vợ nhưng không chán tiền, Ăng-đrê cứ nhét túi gọn những tấm séc của cha vợ, để mặc cho vợ đánh điện hay viết thư cảm ơn, vọt về Sài Gòn bảo là để lo việc làm ăn, nhưng dường như chỉ để bao thêm nữa cho ả gái nhảy trẻ đẹp, đổi lấy chút tình hờ rất đắt tiền.

Những người gần gũi Ăng-đrê đều biết anh ấy mê gái mà không dám nói. Dại gì mà nhét ngón tay vào giữa vỏ cây và thân cây. Người quản lý trước là Mô-ham-mét A-li, biết ông chủ lấy nhiều của cha vợ mà đưa rất ít tiền cho vợ nuôi con, thường xén bớt các món bổng ngoại của ông chủ để đưa lén cho bà chủ. Từ khi An-giê-ri rục rịch nổi dậy chống Pháp, Ăng-đrê sợ nuôi ong tay áo nên đuổi thẳng con người đã tận tụy giúp mình làm giàu. Ăng-đrê kén mãi mới nhận vào làm một đại úy quân đội Sài Gòn bị thải vì dính ấp gì đấy vào chính trị, trước đây đã làm quản lý đồn điền cho một thiếu tướng giàu sụ. Gã này nói thạo tiếng Pháp và Anh, làm ăn giỏi, nhưng không thương hại bà chủ tuy rất lễ phép, kiếm thêm được gì gã bỏ túi sạch, êm.

Cha đi khỏi một lát, Ăng-đrê xồng xộc đi vào khi Gia-nét đang cho con bú. Anh thắt nịt đạn súng săn vào bụng, nhấc cây súng hai nòng khỏi đinh treo, còn mở ngăn kéo lấy thêm khẩu súng ngắn 6,35 ly nhỏ xíu đút vào túi quần. Gia-nét lo lắng hỏi chồng:

- Có gì mà anh... cẩn thận thế?

- Con bò sữa tốt nhất nhà ta bị mất trộm. Mấy đứa cu-li đồn điền trông thấy, không ngăn cản. Nhóm trộm không mang súng, chắc là dân làng thôi. Chúng nó đang đói, kiếm thịt về ăn.

- Hay là... anh nhờ cảnh sát người Việt tìm hộ... Chính quyền Sài Gòn không ưa người Pháp... anh hứa thưởng kha khá... đỡ phiền về sau...

- Để xem... cũng được... nhưng anh báo trước, em có thể sẽ nuôi con bằng sữa hộp phồng dộp đáy...

Ăng-đrê miễn cưỡng treo súng săn và nịt đạn vào chỗ cũ, chỉ giữ trong túi khẩu 6,35 ly, ra sân quát gọi cậu quản lý và một người gác-dạo này đồn điền đã tăng số gác lên bốn người có súng săn vì dân Việt bị giam đói trong các “khu trù mật” lẻn ra trộm cắp quá nhiều. Bọn gác cũng ăn cắp, nhung cộng cả lương và số gà vịt heo chúng lấy vẫn chỉ bằng một nửa số bị dân làng chui rào ra ăn trộn đêm. Giúi tiền cho mấy thằng cảnh sát Việt tìm hộ tiện hơn.

Ngay tối hôm ấy, tay cảnh sát trưởng đến đồn điền với vẻ mặt đầy hãnh diện, xách theo một bao tải gồ ghề. Ăng-đrê đã biết tiếng Việt kha khá, không cần phiên dịch, mở chai huýt-xki ra mồi. Đám cảnh sát không phân biệt được các loại huýt-xki loại Xcốt-len, loại Ken-tấc-ki Mỹ, loại dỏm Chợ Lớn, chỉ cần thấy mác huýt-xki là thấy sang lắm rồi, dù giá rẻ hơn rượu gạo mua tại chỗ vẫn tấm tắc khen ngon, nhất là khi nhắm kèm phó-mát và dồi chín, đều là made in Cholon trá hình.

Tay cảnh sát trưởng lôi trong bao tời sọc xanh ra một cái đầu bò đã róc hết thịt, bốc mùi hôi:

- Con bò ông Ri-sô còn lại bấy nhiêu. Xương bò ném xuống sông suối hết, tôi lượm lại cái đầu còn sừng. Ông Ri-sô coi thử, chắc đúng nó. Ông hẹn thưởng khá lắm, tụi tôi lùng riết.

Ăng-đrê làm sao nhớ được sừng mỗi con bò trong số tám chục bò sữa và bò thịt của đồn điền. Nhưng hứa là hứa, anh lẳng lặng đi vào buồng trong lấy tiền, vẫn chưa tin bộ xương đầu hôi rình kia là con bò sữa giống Hà-lan đã cho sữa tươi nuôi các con mình bấy nhiêu năm qua. Thôi đành, thí cho bọn Da vàng tí chút để giữ đường sống về sau.

Tên cảnh sát trưởng nhận hai chục ngàn tiền thưởng cho khối xương đầu, cảm ơn rối rít, mươi phút sau lại xin thêm cho lũ đàn em. Ăng-đrê khinh khỉnh ném ra thêm năm ngàn nữa, hẹn thêm là chỉ thưởng cho những vụ trộm cắp thu lại được tang vật trả cho chủ, không phải bộ xương đầu như lần này.

Tên cảnh sát trưởng xã đã ngà ngà, thề làn sau sẽ khác. Gia-nét ôm con nhỏ, hỏi qua loa:

- Với cái đám ăn trộm bò, ông xử thế nào?

- Ồ, bà ơi, xử chi cho phiền rầy. Trói chân tay, vô bao tời, cột đá, thả xuống sông là xong, xong hết.

- Lạy Chúa tôi, giết người vì một con bò ư?

- Ghép vô Việt Cộng thì ai trách được tôi với ông bà? Xin kiếu nghen. Lần sau ông cứ báo liền tay, tụi nó không kịp cắt cổ bò. Một con bò bị cứa cổ, vài ba đứa đền mạng. Ưng chưa?

Đêm ấy, Gia-nét hỏi chồng thêm về vụ con bò. Ăng-đrê đáp giống tên cảnh sát trưởng người Việt, còn thêm:

- Tại nó ăn tiền cắt cổ lẫn nhau, ai ngăn được? Em khuyên anh tung tiền ra thay đạn, đúng, cảm ơn. Nhưng khi bọn Vàng nổ súng vào nhau thì sẽ phiền phức đấy. Sống ở đất Đông Dương này cứ như làm xiếc đi trên dây thép. Khốn nạn cả một lũ!

Gia-nét nghĩ ngay: người tình của anh không xếp vào khốn nạn! Ý nghĩ ấy không kéo dài, vì đứa con thứ ba nổi khóc đòi bú trong buồng bên cạnh, và chị vú em chắc đã ngủ say đến sùi bọt mép, bị dựng lên lại nằm vật xuống như người bị thuốc mê.

Chú thích:

[1] Lực lượng khóa đuôi.

[2] Nhanh lên, vội lên.