Chương 10
Trận càn quét lớn vào vùng ven núi hai huyện Tây Quảng và Quế Sơn kéo dài nửa tháng. Sau năm ngày đánh phủ dầu dữ dội bằng tất cả số quân và vũ khí có trong tay, địch rút bớt một số tiểu đoàn về, chắc để đi càn nơi khác, chỉ để lại những đại đội lo dồn dân và đốc thúc dân xây nhiều đồn mới.
Hai mũi biệt động quân phóng lên dồn dân hai làng Blam và Blin xuống bên bò sông Linh bị xóc chông sa bẫy nhiều. Du kích làng Blam đánh khá, tuy chỉ có ná tên. Du kích làng Blin yếu hơn, lại bị mấy ông già làng, thầy cúng, thầy đồng cản mũi kỳ đà, vì sợ địch trả thù ném bom giết cả làng.
Địch cay cú vì chông bẫy quá nhiều, lùa dân Blam rất gấp, bắt khiêng đám lính bị thương, khiêng cả heo bò gà mà chúng đã cẩn thận bắn chết. Tên chỉ huy tiểu đoàn này rất khôn, hắn biết các loài dân Thượng nuôi đều thả rông nên tự tìm đường về làng về nhà rất giỏi, dân bị dồn thường lén thả dọc đường, đã có số du kích và thanh niên lánh vào rừng trở về cho súc vật ăn. Vì cần lùng sục kỹ cả khu vực Xưởng quân giới cũ nên chúng chưa đốt làng, chỉ bắn số trâu ăn rong mò về làng kiếm muối, dò dẫm đi vào “hang ổ cộng sản” mà ngày xưa Pháp biết rõ nhưng không đưa quân tới được, đại bác bắn cũng rơi đạn dưới rất xa, máy bay ném bom không trúng lần nào.
Làng Blin đánh yếu, dằng co với địch càng yếu. Các ông lão làng già nhất và nhát sợ nhất là nạn nhân đầu tiên. Tên tiểu đoàn trưởng chỉ chọn để dồn những người trẻ khỏe, cả đám con nít sẽ lớn lên. Hắn lọc ra vài chục ông bà già nhất, nói mấy câu xì xồ tiếng lạ với tên thiếu úy, và tên này dẫn số mắt lòa chân chậm vào rừng. Mươi ngày sau, đội du kích nghe ngớt tiếng súng mới lò dò từ núi cao xuống làng, theo mùi thối và dấu chân đi tìm, gặp hơn chục cái xác rữa nát đã bị thú dữ xé từng mảnh rời đi ăn, bỏ xương rải rác. Làng bị đốt ngay sau khi dân bị lùa, tro than đã nguội từ lâu. Trâu heo gà thấy bóng người là chạy biến vào rừng: các ông bà chủ bỏ chúng không cho ăn nữa, bắn vào chúng, xin để chúng tự kiếm sống trong rừng núi, từ bỏ loài người độc ác và bạc bẽo.
Các đội Võ trang công tác và các đội du kích đã chọc xuống tận quốc lộ Một, được dân cho và tự mua những ba-lô nặng trĩu vải ka-ki, máy thu thanh bán dẫn và pin, vị tinh, ni-lông dầu làm võng, ni-lông-mút may áo quần, bị địch vỗ mặt và chặn lưng giữa lúc ít ngờ nhất, đã vất cả ba-lô, xe gắn máy và xe đạp để rượt ác ôn và chạy liên lạc, chạy dạt lên các gò đồi hay rừng núi tùy nơi nào gần nhất được coi là yên thân nhất. Anh chị em đay nghiến nhau khi nhắc lại những lời căn dặn từ trên dội xuống: “Phải đề phòng khi địch phản kích mạnh theo kế hoạch Xta-lây Tay-lơ bình định miền Nam trong mười tám tháng”. Lác đác có những đội viên vác súng ra hàng địch.
Cả Chanh đi vội về Tây Quảng khi trận càn mở đầu.
Cơ sở trong sĩ quan ngụy chỉ được biết về trận phản công Việt Cộng vài giờ trước khi trực thăng cất cánh, báo tin không kịp. Cơ quan huyện Tây Quảng đóng gần làng Blam, gọn nhẹ, chuyển lên núi cao chẳng khó khăn gì. Các đội võ trang công tác từ núi tỏa xuống đồng bàng, ắt sẽ vọt trở về nơi ra đi. Cũng có thể một số đội trụ bám dân, nhất là ở vùng sâu gần biển đã sắp xếp được hầm chìm hầm nổi sau lưng địch.
Anh Tơ-rin vạm vỡ, nay đã điểm tóc bạc, được bầu làm bí thư Đảng ủy xã và huyện ủy viên Tây Quảng, đón Chanh ở trạm giao liên mới đổi chỗ trong càn. Anh vuốt ve con chó Dồ con mà anh đã nuôi từ khi mới đẻ, chưa quên ông chủ đầu tiên có mùi lạ khác mấy ông chủ sau này. Nó ngửi một lát, bắt đầu liếm bàn tay ông chủ cũ đặt trên lưng nó. Nồi sắn tươi trên bếp đã bốc hơi.
- Anh Cả đừng lo. Dân ở núi khác tui không biết, chó dân làng Blam tui biết, không dồn được mô. Tụi nó dọa giết quá phải đi, lần hồi họ trở về hết cho coi. Đốt làng cũ thì rút vô chỗ thiệt kín dựng làng mới, dân tui xưa tới nay dời làng cả trăm lần, khó chi mô. Lệ làng tui hễ rẫy xấu, bịnh nhiều, chết nhiều là dời làng. Tỉnh ủy với Cụ Hồ lo nhiều, thương nhiều, quý lắm đó, mà dân làng tui cũng phải lo cho mình nữa chớ! Đợi trên lo giùm hết, mình như con nít đòi bú mẹ, xấu lắm lắm!
Suýt nữa Cả Chanh đã lao qua đống lửa trong hang đá để ôm ghì người đồng chí hết sức đáng yêu.
Dần dà, góp từ nhiều nguồn tin, Cả Chanh đã làm được báo cáo về trận càn hung hãn nhất từ ngày đình chiến tới nay. Các đội Võ trang công tác và du kích xã cộng dồn hai huyện chỉ chết ba, bị thương tám, bị bắt hai, ra hàng một có súng săn một nòng. Phía địch, biệt động quân bắt dân khiêng về hai mươi bảy đứa xóc chông sụp bẫy, có lẽ không chết vì du kích được chỉ thị chưa dùng tên ná hay chông tẩm thuốc độc. Hai lính chết vì đạn. Cay nhất là trung đội vệ sĩ thuộc các thôn di cư Linh Thượng và đồn điền Tây: vừa được phát xong vài chục cây súng loại phế thải, phía núi. Hai chiếc T.18 bay tới, chẳng biết mô tê nào cả, lao xuống nện xuống đầu họ bốn quả bom diệt bộ binh, cả trung đội chết, bị thương, vất súng trả “quốc gia” hết sạch. Các cha cố chạy gấp lên an ủi con chiên, nói tội ấy là của phi công theo đạo Phật, theo Tin Lành, theo Việt Cộng, không ai cãi mà chẳng ai tin. Thôn Linh Hạ lâu nay hiền lành bị đại bác bắn lầm, chết bảy và cháy mười tám nóc nhà.
Việc còn lại sau càn: chổng dồn dân, phóng các đội trở về vùng hoạt động cũ xuyên qua lớp đồn bót chằng chịt mới mọc lên sau trận càn lớn.
Đợi quyết định cuối cùng của anh Tô Xáng “cai lục lộ” thì quá lâu, “cụ Thượng” Cả Chanh cho in ngay một chỉ thị bằng rô-nê-ô gửi đến từng chi bộ. Phải quyết bám dân không rời, mất dân là mất hết. Dân đi đâu, đảng viên phải theo tới đó, bị gián điệp, tố cáo thì cố chịu đòn tra tấn cho hồ sơ trắng, lại trở về bám dân mà hoạt động cách mạng.
Chanh tự biết chữ ký của anh trên tờ rô-nê-ô có sức nặng không nhỏ, chỉ vì anh đã từng làm những gì anh đòi hỏi ở các đồng chí. Các anh chị có tuổi sống trong vùng địch hay nhắc con cháu: “Đừng tin ngay mà khốn, quốc gia giả cộng sản nhiều lắm. Có ông Cả Chanh về mới là cách mạng thứ thiệt. Bây mới lớn lên chưa biết mặt ổng, chớ tao chưa quên. Đợi tao coi trước đã”. Nhiều ông bà giả đi buôn Thượng, lên dò tin và kiếm cách gặp ông Chanh, đã đi qua trước mặt “cụ Thượng” mà không nhận ra Chanh. Mỗi khi về gặp cơ sở, Chanh phải tháo búi tóc giả, các mảnh ngà voi kẹp tai, quấn khăn che miệng để giấu bộ râu không nỡ cạo, đeo súng ngắn và máy bán dẫn ra ngoài áo bà ba. Gián điệp đưa tin ông Chanh cộng sản gốc cứ phải kèm theo một dấu hỏi trong ngoặc đơn, để về sau nếu sai khỏi bị quốc gia bắt vạ.
Vùng núi được rắc đầy truyền đơn có chữ ký và ảnh của Hai Khánh gọi các đồng chí cũ ra hàng, “trở về với chánh nghĩa quốc gia”. Các loa phóng thanh trên máy bay L.19 hay trực thanh H.34 tuôn xuống đất những lời thống thiết của thiếu tá Ung Viết Khánh.
Cả Chanh nổi xung điên khi nghe lần đầu tiếng Khánh trên loa, đọc tờ truyền đơn đầu tiên có ảnh và chữ ký của Khánh. Chanh đã trót dại tin ở lương tâm của một trí thức đã giúp Việt Minh trước khởi nghĩa 1945 chăng? Gã trí thức ấy, chao đảo ngả nghiêng mãi hồi chống Pháp, nay đã quay lưng với các đồng chí cũ, dốc lòng thờ Mỹ-Diệm làm chủ? Lá thư phân trần mà Khánh gửi cho Chanh trước khi nhảy về vùng tề, chỉ là một trò lá mặt lá trái nữa ư? Và mình đã khờ dại tin ở lương tâm của một kẻ không có lương tâm? Chanh đã gặp quá nhiều đứa lựa gió phất cờ qua bấy nhiêu năm cách mạng thăng trầm, sẵn sàng giết đồng chí cũ để lập công chuộc tội.
Rồi Cả Chanh lắng tai nghe giọng Hai Khánh đến lần thứ tư qua loa phóng thanh ghép cạnh sườn máy bay tâm lý chiến như cái bướu. Lời lẽ trong truyền đơn chống cộng rất khác lối nói hằng ngày của cậu sinh viên Luật khoa Hà Nội mà anh đã quen nhiều năm, giọng nói cũng pha Nam Bộ:
- Chánh quyền của chí sĩ Ngô Đình Diệm, cùng các vị thân cận hơn hết, là chánh quyền hợp pháp ở miền Nam Việt Nam, được Hoa-kỳ quốc, Anh quốc, Pháp quốc, cùng nhiều quốc gia khác thừa nhận và viện trợ. Tôi xin góp một lời kêu gọi các chiến hữu phản thực bài phong với tôi năm xưa, hãy cộng tác với chúng tôi để Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng của chúng ta được độc lập và thống nhứt, thoát khỏi mọi sự đô hộ của ngoại bang và sự chia cắt non sông ngày nay...
Kể ra, cậu ta cũng chưa quá tệ, không gào thét chống cộng, cũng không muốn mất lòng các ông chủ mới. Nhưng khi tình thế căng thẳng hơn thì cậu ta sẽ lùi thêm, lùi mãi đến tận chân tường, với một đống tội phản dân hại nước. Cô Mỹ Duyên, qua những báo cáo miệng, đã đoán trúng mặt tốt mặt xấu của anh chàng này, nhưng chưa moi được những bí mật quân sự vì chính Hai Khánh cũng bị gạt ra ngoài cái nhóm được tin cậy. Hai Khánh sẽ ngả sang phía nào? Chưa biết, và cũng khó đoán trước.
Hơn mười cái đồn mới cắm ở Tây Quảng cùng hàng loạt ấp chiến lược mọc lên đã làm cho các đội Võ trang công tác và du kích rúng xương, quay về bám chắc rừng núi, bước xuống đồng bằng là thấy địch vây bốn phía, chỉ vội vã kiếm gạo muối đầy bao đầy gùi là chạy lên xanh.
Chính lúc này, lớp dân trung kiên phải dỗ dành những người rời nhà theo cách mạng:
- Rán chịu cực nghen con. Con ra đầu thú, khai báo lung tung, chết dân cả làng, tội nghiệp lắm. Khổ mấy cũng chưa bằng hồi “bể hiệp thương, bể tổng tuyển cử”, mấy năm sau đó nữa, cán với dân lớp chết, lớp tù, lớp bị đòn tới, cả đời thân tàn ma dại... ừ, thì nó đóng đồn chớ sao. Nó đóng trên gò cao, mình đi né tránh lại dễ hơn năm xưa nó ăn chung ở lộn trong làng. Bọn con trai lãnh súng vô thôn vệ, dân vệ, là để kiếm ăn với trốn quân dịch đó thôi. Các con đánh được vài trận như hồi bộ đội mình đánh Tây, làng xóm hù dọa ráo riết, là nó rã đám liền hà. Dân bị nhồi nhét vô ấp chiến lược đói kém lắm, phải tháo đòn tay nhà mà nộp làm hàng rào, bỏ làm ăn đi đào hào, cắm chông, dựng tường, đắp lô cốt. Tụi hội đồng xã nói miết là xây ấp chiến lược hay xây đồn cũng vậy, xong thì mới thôi, không tính ngày công như xâu cộng đồng kiến thiết. Bà con kêu đói quá làm không nổi, tụi nó mới chịu trả mỗi ngày hai lon gạo, lon gạt đó, hai lon chừng nửa ký cho cả nhà còn ăn hết nhịn. Các con cứ nổ súng, kêu loa, ra lệnh cho dân đốt rào ấp, ai nấy trở về làng cũ nhà cũ, là bà con ríu ríu làm theo hết, không phải như hồi bên mình kiêng kỵ nổ súng... Nó đốt làng giết dân à? Đâu xa chẳng biết, chớ làng này kêu rập một giọng: cả trung đoàn Việt Cộng mang đủ súng lớn nhỏ, chĩa súng bắt dân phá ấp về làng cũ, làng với lính chạy ráo, dân tôi tay không dám chống lại à?
Lúc này vai trò đang đảo ngược. Năm xưa cán bộ cố khuyên dân bình tĩnh chịu đựng. Nay bà con chòm xóm phải khiêng cán bộ và du kích đừng hoảng sợ, chớ ra hàng giặc, và nhịn ăn mặc để nuôi đám trẻ nhảy núi chưa quen chịu cực.
Út Thanh Yên bị đứt liên lạc, tự ý mò lên núi, còn may không trúng chông bẫy. Làng Blam bị dồn xuống ven sông Linh, nhưng lớp trai gái trẻ rút vào núi sâu đã trở về bám làng cũ vẫn bị đốt trụi sau khi quân địch rút hẳn. Cô em đồng chí huyện ủy viên Tơ-rin dẫn Thanh Yên vào chỗ ở mới của huyện ủy Tây Quảng, Cả Thanh đang còn ở đấy, sắp ra cánh Bắc Quảng Nam.
Vừa thấy anh Cả, Thanh Yên đã nhào tới ôm ghì anh, nức nở không nói được. Chanh vỗ về cô em út, đợi em báo nhiều tin dữ.
- Út ơi, nói đi, nhà mình… có chuyện gì?
Thanh Yên lắc đầu, khá lâu mới kéo một góc tấm dồ Thượng mà anh Cả đang khoác trên thân, lau mắt, giọng bớt nghẹn:
- Không gì đâu anh. Cha mẹ, chị Thùy theo bảng A cô lập mà tụi nó không bắt. Chị Năm Bưởi ho hen miết, cũng được ở nhà với cha, chị Thùy. Anh Tư Quýt có nhà với lò rèn chỗ xa xóm Mới, bị dồn vô ở xóm Chợ với nhà vợ, che cái chòi lò rèn trong góc vườn, cả nhà chị Song coi ảnh như đứa ăn bám vợ ở xó chuồng heo... rầu nhứt là anh Bảy Bòng...
- Nó ra sao, Út?
- Ảnh hư rồi, hư quá sá... Đi học một lớp tố cộng nửa tháng về, người ta hẹn hễ lập công diệt cộng tốt thì họ cho lên thứ gì úy đó, chưa kể phần thưởng tiền, mề-đay. Đi đâu ảnh cũng bô bô: “May là cha tôi với chị Năm Nhím đã đầu hàng quốc gia, chớ còn ho he tôi chặt đầu. Ông Chanh là anh ruột, nắm đầu được tôi cũng không tha”. Nói vậy thì còn chút máu mủ gì. Vài anh dân vệ quen nhà mình ghé nói giống nhau: họ nghe lén hội đồng xã họp, soát lại cách xử sự với số gia đình có người nhảy núi, tập kết. Lão Ba Mít nhứt quyết làm dữ, đẩy mấy nhà loại B lên loại A cô lập. Ông Cửu Áng, vừa quản lý ấp phủ Đỉnh vừa làm ủy viên kinh tài xã Tây Giang, ổng biết Việt Cộng chẳng vừa đâu, anh Cả về thì lãnh đủ một loạt súng máy. Chính anh Bảy Bòng nhà mình chê lão nhát gan. Cãi một hồi, anh Bảy chịu cho chị Năm học tố cộng ở xã vì đã được huấn chánh trong mấy năm ở tù, giam nữa chắc chết trong tù. Còn anh Tư Quýt mập ú ra, cứ xuống quận học tố cộng cho xuống ki-lô cũng hay. Tư Quýt đã mang khăn gói quả mướp xuống quận lỵ Tây Quảng, và chị Song vợ anh vội đi rao khắp nơi rằng ai làm nấy chịu, chị không dính tới việc của chồng... Anh Bảy nói trong hội đồng xã: cha tôi bị ông Ba Hùng Minh đây, hồi còn làm chủ tịch, bí thơ, hất cẳng cho về vườn trước đình chiến lâu lắm, ghép vô loại A cô lập là quá rồi. Mẹ tôi một chữ bẻ đôi không biết, chẳng tội vạ gì. Chị Thùy mắc bệnh điên, chữa lành thì lo may đồ nuôi cả nhà, họp làng họp xóm cũng ở nhà giữ sắp nhỏ, tới nay chưa biết là chồng tập kết hay ở lại trên núi, cộng tác viên công an đi lùng miết không gặp. Hễ gặp thì các ông bắt, tôi cũng hô bắt, mà phải nộp về cho quận, tỉnh, tòa đại diện Trung phần, có khi phải giải vô tới Sài Gòn để tổng thống với ông Nhu xét hỏi, ai giết ổng hay để ổng tự tử thì cầm chắc vô nhà đá nghỉ mát. Trên xuống lệnh vậy, tôi là cảnh sát trưởng cứ lệnh mà làm. Chắc ông Hùng Minh với ông Cửu chưa ưng bụng, trước đây lập công với Việt Minh, bây giờ quay ngược mặt sau ra mặt trước, giết cộng sản càng nhiều càng được tin cậy, tùy ý các vị. Tôi nói cắn cưa, ai chống cứ chống, thằng này không sợ...
Cả Chanh ngập ngừng hỏi:
- Nó... thằng Bảy... có làm gì quá quắt không Út?
- Em nghe nhiều tin đồn, chưa chắc đúng... Ảnh về Linh Hạ, tra tấn hai đảng viên cũ, một chết liền, một bị gẫy xương sườn, dập phổi, mắc bịnh cả năm chưa lành... Họ còn đồn ảnh... uống huyết pha rượu, quế bột, gừng, ăn gan xẻo mật anh thôn đội trưởng hồi chín năm Việt Minh, cụt chân không đi tập kết được, ở Linh Trung... Em chưa tin đâu anh Cả, mà sao cứ ngờ ngợ... biết đúng biết sai ra sao… Cái miệng ảnh độc địa vậy, thêm đám chống cộng chung quanh khích vô, đổ rượu thêm vô, dám chác ảnh làm như lời...
Giữa những câu run rẩy, Út Thanh Yên vẫn nhớ soạn các thứ đem cho anh Cả được vùi dưới đáy hai giỏ to đan bằng tre mà dân làng thường gánh khi đi cắt lá độn chuồng trâu. Chừng mười ki-lô muối, hai bộ bà ba, thuốc trụ sinh và thuốc sốt rét clô-rô-kin, toàn những thứ bị địch cấm bán lên vùng “mất an ninh”. Cả nhà trước Cách mạng tháng Tám, Thanh Yên đã lớn lên thành cô gái mười chín tuổi, da hồng hào và dáng người gọn chắc, khá xinh đẹp, có lẽ trong nhà về phần nhan sắc chỉ thua chị Hai Thùy thôi. Thùy vẫn được xem như hoa khôi Linh Lâm tuy đã hai con, như cái boong-ke cố thủ không chịu ly hôn, và được những họng súng vô hình của ông Cả Chanh cũng như súng dài ngắn của Bảy Bòng sẵn sàng nổ vào những ai muốn cưỡng hiếp.
Chanh đùa một chút cho em gái bớt buồn:
- Út ơi, em chưa nói chuyện riêng với anh. Đã thương ai chưa, có bồ bịch gì chưa?
Thanh Yên đang lau mắt bỗng bật cười:
- Ở cái chỗ tối mịt, đen thui, em bắt bồ với ma quỷ à? Mà em nói thiệt với anh Cả, anh không cho em nhảy núi thì em ra Huế, vô Quảng Ngãi, xin thoát ly cho gọn, chẳng cần anh cho phép, nhà mình cũng khỏi bị liên can gì. Nói thiệt đó anh!
- Úi chà, khoan đã út. Em chưa bị nghi, rán chịu lâu lâu nữa, bên mình gài được một cơ sở trong vùng địch khó quá em à. Tới khi em bị lộ, anh cho người xuống đón em liền một khi, đừng ngại.
Thanh Yên không cãi, mà rõ ràng sẽ làm theo ý mình. Thùy cũng nói gần gần như thế. Năm Bưởi cũng đòi lên xanh, nhưng còn lo bệnh tật sẽ làm phiền các đồng chí. Con đường Thống Nhứt ra Bắc đã mở, nhung ai đủ sức leo núi vài tháng mới dám đi.
Ba giờ sáng, gà rừng đã gáy te te lảnh lói, Thanh Yên mói chịu ra về, theo sau cô em đồng chí Tơ-rin.
Cả Chanh ngả lưng trên tấm sạp tre, kéo tấm dồ Thượng trùm kín thân, trong khi đống lửa trong hang đá ngớt cháy nhưng còn tỏa khói đủ xua muỗi. Anh chưa ngủ được ngay. Cuộc sống hỗn tạp đầy rối ren đang chen vào gia đình anh ngày càng sâu, xốc xói lên những thứ đau xót tưởng đã chìm sâu dưới đáy trong thời chống Pháp: mẹ chồng nàng dâu, anh em ruột giành gia tài, chị mang lựu đạn đi lùng em, em để mặc cho chị ở tù... Út Thanh Yên đã dọa thêm: em lấy chồng ác ôn đó nghen, tội vạ gì mà không hưởng của nhà Ngô. Hay là chị Hai Thùy chịu ký ly hôn, tái giá, em cũng mặc kệ, không vun vào cũng chẳng cào ra, anh tính sao đó tính.
Xã hội miền Nam đang phân hóa ngày càng gay gắt. Không ít đồng chí ở núi lâu hay từ Bắc về đã trả giá rất đắt vì không thể tưởng tượng một đảng viên lâu năm biến thành gián điệp, một người gần gũi trong nhà lén chỉ hầm bí mật cho địch khui, anh mang súng ra hàng trong khi em đang bắt mối để lên xanh. Những tiếng “đầu thú, cơ sở phản, đào ngũ” đã ngớt một dạo, sau trận càn lớn lại được truyền miệng nhau như hồi đen tối nhất sau đình chiến.
Các đội Võ trang công tác và các huyện ủy viên trẻ đang dần dần thay thế lớp đảng viên cao tuổi, đã ngán ngẩm hay kiệt sức. Trong đại hội một Đảng bộ huyện, tuổi trung bình của đảng viên là bốn mươi, nhưng qua bỏ phiếu kín thì lứa tuổi trung bình của huyện ủy mới là hai mươi lăm, bí thư mới hai mươi bốn tuổi, Út Thanh Yên đang được đội Tây Giang rất tin cậy, đưa vào cảm tình Đảng, có thể kết nạp ở tuổi tròn mười chín, cũng không sớm lắm so với nhiều anh chị em khác.
Cả Chanh chợt bật cười khẽ, khiến con Dồ gác ngoài cửa hang quay đầu rướn cổ dòm... Buồn cười thật, mình mới ngoài bổn mươi mà đã suy nghĩ theo kiểu ông già, tính bàn giao cho con cháu!
- Mình nuôi bộ râu dài để giả làm ông già Cửa Đợi, cái đầu tưởng thiệt cũng già theo!
Anh Bảy Quý đã đùa như vậy trên chiếc thuyền liên lạc của chị Xáng, khoảng mười bẩy năm trước. Đến lượt Cả Chanh nuôi râu làm “cụ Thượng”. Lứa tuổi nối tiếp có phải đóng kịch như anh không, hay là sẽ mặc com-lê, xách cặp da, bước vào ô-tô du lịch?
Đồng chí Tơ-rin hẹn sẽ đến đón rất sớm, vì đồn lính bảo an giữ bờ Tây sông Linh hay cho quân đi phục ban đêm và luồn rừng ban ngày, đánh úp ta và vét nốt những xóm Thượng đã rút vào rừng sâu. Chanh lại búi tóc, rắc thêm phấn cho thành hoa râm, kẹp ngà voi vào tai, hay mặc cái khố đã bạc màu chàm, nhét cây súng ngắn ba nòng vào lớp khố quấn quanh bụng. Thằng địch quyết dồn dân Thượng xuống gần đồn nhưng gặp người già đi lẻ không súng thì chúng chặn bắt, chưa giết thêm nhiều, sợ bị “trả đầu”.
Con Dồ nhỏm dậy, gừ gừ trong mũi, rồi rên rên đón ông chủ cũ đã nuôi nó từ khi mới đẻ. Họ lại ra đi theo thứ tự quen: con Dồ trước xa, giao liên đeo lựu đạn cầm ná, anh Tơ-rin vác cây trường Mátx đã sứt đầu ruồi và cõng bớt các thứ sách báo cho Chanh, Cụ Thượng cõng gùi và cầm giáo dài, đi khóa đuôi.
Cả Chanh lại trở về nắm các huyện Nam Quảng Nam. Anh Tô Xáng cùng đoàn đại biểu Quảng Nam chia nhau đi các nơi kể chuyện Đại hội Ba, gọi họp từ chi ủy viên trở lên. Thiếu gạo muối, chỉ họp hẹp và ngắn thôi, nhưng người nghe không chịu thường phải kéo dài thêm một ngày đêm nữa mà hãy còn thòm thèm.
Cánh Nam Quảng Nam được chia của một tổ điện đài, mật mã, do anh Tô Xáng xin được và dẫn về, tầm liên lạc chỉ đến cánh Bắc và khu ủy Năm. Một trong những bức điện đầu tiên là chỉ thị của khu ủy, đánh ba lần liên tiếp: “Đ/c Thanh Trà ra ngay cánh Bắc”. Cũng thêm một điện của cánh Bắc gọi anh Thanh Trà trở ra hỏa tốc, tuy mới chia tay nhau chưa đầy hai tháng. Có chuyện gay go rồi.
Vẫn theo đuôi con Dồ, theo lưng giao liên Thượng, Chanh đi hỏa tốc theo con đường xuyên núi đã dời lên cao hơn. Đường mới phát đầy những gốc nhọn và lúc nhúc vắt đen, nâu, vắt lá leo lên tận cổ và nách mới chịu hút máu. Đi từ tờ mờ đất đến tối mịt phải thắp đuốc, mỗi ngày vượt hai ba trạm, Chanh vẫn mất bốn ngày mới đến huyện Giằng, vùng dân tộc Cơ-tu, để nhận cái tin sét đánh: anh Tô Xáng bị địch giết!
Thật không, anh ơi, “ông Bát Đập” ơi?
Anh em đã can không để anh xuống vùng ven biển Hòa Vang, anh chỉ cười cười: “Tiếng nói của Đảng mình chỉ loan tới vùng núi thôi à?”. Anh cứ đi, cứ gặp đảng viên và cơ sở vùng sâu, dù chỉ vài ba người anh cũng tỏ bày cặn kẽ như trước những đám đông hàng vạn người hồi chống Pháp. Trên đường về, anh rơi vào vòng phục kích, một loạt đạn cắt ngang người. Bọn dân vệ ngu đần đến nỗi buộc dây vào chân anh, kéo về nộp cho xã và quận một cái xác đã nát mặt mày, gọi ai đến xem đều nói người lạ. Các điện đài ta sợ lộ, không nói rõ cái điều mà địch chưa biết, vợ con anh Tô Xáng bị đẩy đi dinh điền Cao nguyên Trung phần cũng chưa biết.
Một điện mới nữa từ khu ủy Năm phóng về: “Bắc Ân cử Thanh Trà thay người đã khuất, sau sẽ bầu chính thức”.
Thay anh sao được, anh Xáng ơi?
Tôi đã tính những người thay tôi làm “cụ Thượng”. Nhưng có bao giờ tôi nghĩ phải thay “ông cai lục lộ” với bộ ka-ki vàng và bộ râu mép rậm rì với cái cằm nhổ trụi?
Anh Xáng ơi, mộ anh chôn đâu em chưa biết, chỉ xin cúi đầu tưởng nhớ anh trong lễ truy điệu hôm nay. Em tiếp bước theo anh, sẵn sàng hi sinh như anh, dù mai sau có nhiều kẻ bĩu môi chê chúng mình khờ dại, thời xưa gọi là “ngu trung”, ngày nay có kẻ xếp vào “cuồng tín”. Chúng mình đã qua nhiều trận cãi nhau nẩy lửa và kéo dài khó dứt. Cãi trong hội nghị chán rồi kéo ra rừng cãi tay đôi, cãi ngày chưa đủ lại treo võng bên nhau cãi đêm, đúng cái máu “Quảng Nam hay cãi”. Thế nhưng chưa bao giờ anh với em giận nhau, lạnh mặt nhau, bởi hiểu lòng nhau chỉ vì dân vì nước, chẳng hề mưu toan gì cho riêng mình.
Anh Xáng ơi, tại sao em không được thế mạng anh?
Một đồng chí trong thường vụ tỉnh ủy được cử vào nắm cánh Nam thay Chanh. Anh ở lại cơ quan tỉnh ủy, quyền bí thư. Làng Linh Lâm và huyện Tây Quảng trở nên xa vời vợi.
Địch không biết rõ cái xác bị buộc chân kéo lê đến nát mặt có phải là “tên cộng sản ngoan cố Tô Xáng tức Bát Đập” hay không. Cứ để cho chúng nghi ngờ chán, xác quá thối phải đem vùi. Cả Chanh thay anh đang làm quen với các huyện cánh Bắc, sửa soạn họp đại hội tỉnh sắp tới.
Khi mình bị giết, ai sẽ thay? Câu hỏi ấy nhoi nhói ngày đêm trong lòng đồng chí quyền bí thư tỉnh ủy. Và các đồng chí còn lại-sống sót-trong Thường vụ tỉnh ủy cùng an ủi: tới đó tụi tôi sẽ lo bầu đúng người, việc chi anh phải nghĩ xa?
*
Các đội Võ trang công tác, du kích, các chi bộ bí mật trong vùng địch đã hoàn hồn sau trận càn dữ dội để lập đồn và xây ấp chiến lược. Những con đường liên lạc và tiếp tế phải thay đổi, nhưng vẫn là đường. Nơi ẩn náu của các đội phải đổi chỗ, nhưng vẫn ẩn náu được. Cơ sở giấu mình trong vùng địch vẫn là nơi đưa tin, cho gạo khoai, càng xuống vùng sâu càng ít rung chuyển.
Làng Linh Lâm, cũng như các làng khác ở ven núi, được biến thành “hàng rào chống cộng”. Địch biết không thể đóng đồn trên núi cao thăm thẳm, chỉ lùa dân xây ấp chiến lược “hai sông ba núi”, giam đói cộng sản trên vùng không người, tát cạn nước để bắt cá. Bản đồ Linh Lâm được vẽ lại khác hẳn. Trên bờ Tây sông Linh mọc lên hai đồn lính bảo an, một đồn dân vệ, năm bót dân canh, chặn hết các ngả từ vùng núi xuống. Thêm một thôn mới ra đời, thôn Linh Sơn gồm dân Thượng hai làng Blam và Blin vừa bị dồn xuống, kẹp giữa các đồn bót to nhỏ.
Trên vùng đất phía Đông sông Linh, được coi như dễ kiểm soát hơn, được giao cho hai đồn dân vệ cùng bốn bót dân canh, người và súng ít hơn lính bảo an.
Trong đám con cháu ông Tư Rèn, chỉ có Tư Quýt bị dồn. Công lao giành vườn, giành đất, giành đồ rèn của Tư Quýt bị đổ xuống sông cả, chỉ vì cái tội ở nơi khó kiểm soát. Vợ chồng Tư Quýt chạy đôn chạy đáo, tốn rất nhiều tiền đút lót và nói tình nói lý chán chê mà chẳng được ai bênh, cả chú em là cảnh sát trưởng Bảy Bòng cũng ngoảnh mặt. Hắn nói thẳng thừng: “Thà theo cộng sản hết lòng như anh Cả hay chị Năm, tôi coi như thù mà còn coi trọng, bắn chết rồi tôi còn quỳ gối lạy anh chị. Còn anh Tư chỉ bám đáy quần vợ, vơ vét cho mình, tôi coi như rác, để chết bỏ”. Lò rèn Tư Quýt dời về góc vườn nhà vợ, chẳng ai đến đặt rèn, cả nhà vợ lườm nguýt khinh rẻ, tiếp đó lại phải bán đi những thứ kìm búa vét được của cha để có tiền đi học tố cộng hai tháng ở quận Tây Quảng.
Căn nhà và lò rèn ông Tư, bà Tư cùng dâu con trong vườn dầu lai cổ thụ được để yên vì bọn dân vệ đóng gần, đi tuần đêm cần có chỗ ghé vào uống bát nước, nhờ nấu nồi cháo khuya, thường là với những thứ chúng kiếm chác được khi trút trộm các đăng đó, nò tôm, hốt ổ gà, có khi cả heo con bị chụp bao tro vào đầu chặn tiếng kêu. Bù lại, có đứa không quá xấu còn đến giúp sửa nhà, cưa bớt cành dầu lai cho quả khỏi rụng xuống đầu trẻ con, giúp ông Tư thổi bễ hay gọt cái cán rựa. Dân xóm Mới, được coi như ổ nuôi cộng sản, phải dời nhà ra bờ sông, cắm lều ở từ lò ông Tư đến xóm Chợ, mất nhiều ngày công và tre gỗ rào ấp chiến lược, lại phải rào hết ruộng rẫy chống heo rừng, nai, mang, vì ban đêm ấp bị khóa cứng, không ai được ở chòi rẫy để canh thú rừng. Bẫy kẹp, thò, chông đều bị cấm, coi như gài chống quốc gia, chừa lối đi cho cộng. Lên núi đốn cây về rào ấp cũng phải đút tiền cho ông Kinh tài là Cửu Áng, xin giấy phép.
Linh Lâm ngạt thở. Chưa chết hẳn cũng khó sống nổi.
Dân di cư đến chiếm đóng đồn điền La-phạt, làm chủ vùng đất các gia đình quân giới CK.II vỡ hoang sẵn, nay đã rõ mình chỉ là cây gậy chống cộng trong tay chí sĩ họ Ngô. Đồng đạo mà không đồng lòng, đồng tình. Họ kết thân với dân sở tại ngày càng gắn bó, dù các cha cố vẫn rao giảng về hiểm họa cộng sản, nghe mãi đến chán ngấy. Đòi di cư xa hơn nữa, không được. Đòi nới bớt ràng buộc, không được. Trong chín bót dân canh, họ được coi như chỉ điểm, nòng cốt, xin được giảm bớt số đêm canh gác, không được. Các cha đã giảng rằng Ngô tổng thống che chở. Nhưng cụ Ngô chỉ cho họ sáu tháng gạo ăn, mấy tấm tôn lợp nhà, vài bao xi-măng, hết, may dùng họ như nô lệ da vàng!
Một chuyện lạ đang diễn ra: dân di cư xin được giấy nhập lâm, gặp cộng sản và nghe họ tuyên truyền, về hẹn nhau giữ kín: “Ai phản bà con đi báo cáo, người khác sẽ mời cách mạng về cho ăn chì lập tức”.
Hàng rào chống cộng vùng ven núi mới dựng lên đã ruỗng nát từ bên trong.
Nhưng nó vẫn chĩa bộ mặt lởm chởm đầy hăm dọa về vùng núi phía Tây. Các đội công tác và du kích, bật lên núi trong cuộc phản kích của địch, nay dò dẫm trở về bám dân trong tâm trạng khiếp sợ: cái gì đang chờ giết họ đằng sau bấy nhiêu lớp hào chông, rào lông nhím, rào kẽm gai? Chông cỡ to có ngạnh phải dùng thuổng đóng sâu, dưới đáy gài mìn chống nhổ? Rào kẽm gai xoắn ruột gà, rào hình cũi heo, có mìn nhảy mìn đèn khắp nơi? Và những cây súng chực sẵn, mấy chục lần nhiều hơn nhũng thứ góp nhặt của họ, viên nổ viên lép? Và pháo cối từ các đồn xa gần giội tới, máy bay thả đèn dù và thả bom trên lưng?
Tỉnh ủy, các huyện ủy, tiếp tới các Đảng ủy và chi bộ xã phải dẫn đầu các mũi chọc qua hàng rào chống cộng, thuốn xuống đồng bằng. Chết nhiều. Chết rất nhiều. Truy điệu mỗi tháng năm bảy đồng chí, đến nỗi người đọc điếu văn thuộc lòng lời phải nói.
Rốt cuộc, những người cộng sản và thân cộng từ núi rừng miền Trung vẫn chọc thủng vành đai “ngăn cộng” để tuôn xuống vùng đồng bằng và ven biển.
Tất cả đã khác trước nhưng sắp xếp lại gần như trước.
Còn Thùy nữa...
Chị Hai Thùy, chị Chanh, hay gọi theo tên con đầu lòng còn sống là chị Bình, tùy ý mỗi người quen, cũng là người khác thường ở Linh Lâm. Gọi là con tin, là gái cứng đầu không chịu ly hôn với chồng cộng sản, là hoa khôi gàn dở, là người khó động đến, gì cũng được.
Trong xã chỉ có Ba Mít muốn trị chị Thùy để phô bày “lập trường chống cộng”. Cảnh sát trưởng Bảy Bòng đã dọa bắn đứa nào động đến bà chị hiền lành như Quan Âm. Cửu Áng vốn quen “tôi ở giữa, tôi chữa đôi bên”, làm chứng rằng chị Thùy chỉ biết may vá, giữ sắp nhỏ cho cả nhà đi họp làng xóm, ngoài cái vụ lấy anh chồng cộng sản gộc thì chẳng có tội tình gì với quốc gia.
Thùy bị gọi lên xã vài lần vì không ký ly hôn. Chị không lý sự dài, chỉ cười nhẹ:
- Hồi nhỏ tôi đã nghe các cụ các bác dạy “tòng nhứt nhi chung”, phận gái chỉ một đời chồng. Cha tôi thờ Chúa, nhà chồng thờ Phật, mà các cụ thờ đức Khổng Tử cũng dạy vậy. Bây giờ các ông biểu tự tôi bỏ chồng, tôi không dám, sợ trái cái đạo duy linh của cụ Ngô, về sau đâu dám ngó mặt ai?
Và cứ thế, chị ra về tươi tỉnh, còn ghé chợ mua bánh cho con và cháu.
Cả Chanh nghe kể, nghẹn lời khó nói. Em ơi, người vợ và người yêu trọn đời của anh ơi, sao em lại chọn anh làm chồng để rước lấy khổ vào thân, vì anh với cả nhà anh chịu những cái eo xèo trong nhà, nỗi cay cực kiếm chén cơm ghế khoai sắn nuôi và thăm nuôi bấy nhiêu người ở nhà, ở lớp tố cộng, ở tù, ở núi? Sắc đẹp của em, trỗi dậy sau cơn đau ghê gớm đến loạn óc vì đứa con đầu xinh xắn của chúng mình bị cháy thui, vẫn làm cho anh chàng Hai Khánh giàu sang và tài hoa kia mê mệt, cũng như lắm kẻ quyền cao chức trọng phải thèm thuồng. Nhưng em chỉ dành riêng em cho anh, một ông lão người Thượng đóng khố và đầy râu tóc.
Mỗi lần lên rừng gặp anh, em hay báo trước là rất sợ có thai, địch đánh chết thì con cháu không ai nuôi. Chỉ nửa giờ hay một tiếng sau, em đã tự lao vào tay anh, tự hiến thân cho anh như một cô gái trinh lần đầu biết ái ân. Và anh cũng không cưỡng nổi mình, anh quên hết, quên rằng tất cả tội vạ sẽ do em lãnh đủ. Thùy ơi, có trách anh ích kỷ không em?
Sau mỗi cơn cuồng loạn, khi anh trằn trọc hối hận, em lại ôm ghì anh, dỗ dành như quen dỗ trẻ trong nhà:
- Anh đừng lo. Hễ có mang, em khai là lỡ dại chịu với anh buôn quế hay thằng biệt động quân trẻ trai nào đó. Vợ vắng chồng lâu quá, gặp hồi yếu đuối, tránh sao khỏi...
Nhiều chị em không chịu bỏ chồng nhưng có một hai đứa con “tự túc”, là chuyện thường mấy năm qua. Những cái tên mới ra đời ở mỗi làng xóm đã hay chưa giải phóng là “chị Ba tự túc, chị Sáu hai riêng, chị Tám lỡ dại” được đặt cho những chị có chồng tập kết hay lên núi quá lâu, lo hết lứa tuổi sinh nở, tự kiếm đứa con phòng khi về già. Chẳng có thư từ gì suốt bấy nhiêu năm, người chồng lấy vợ khác hay chưa không biết, các chị chỉ cần một đứa con làm bạn. “Con tôi đi kiếm về đây muốn cho nó gọi bằng thầy thì cho”. Thầy là cha là ba, theo kiểu nói người Bắc.
Anh Tô Xáng mang về rất nhiều chuyện ngoài Bắc. Anh em cười bò ra khi nghe chuyện “vợ tôi khuất núi rồi”. Một anh muốn lấy vợ Bắc, làm bản khai có câu như trên. Cụ trưởng Ban đồng hương tỉnh hiểu theo nghĩa xưa, ký xác nhận là anh ta góa vợ, tái giá chẳng có gì sai luật Hôn nhân gia đình. Cấp trên không đủ sức theo dõi hàng chục vạn người tập kết, cũng ký cho phép. Sau hàng chục lá thư của chị vợ chính thức gửi ra Bắc, Ban đồng hương gọi anh ta lên kiểm điểm, anh nói gọn trơn: “Khuất núi là ở nơi xa, núi sông cách trở, không gặp nhau được, tôi chẳng hề nói vợ tôi ở miền Nam đã chết!”. Và đành cho qua, sau thống nhất các đương sự sẽ tùy lòng tính với nhau!
Thùy của anh ơi, em biết không, trên núi này có rất nhiều cô văn công, cô y tá, cô thư ký, cô giao liên trẻ măng xinh đẹp muốn làm vợ anh bí thư tỉnh ủy? Nhưng anh vĩnh viễn đã thuộc về em rồi, Thùy ơi, người đã nuôi anh trước Cách mạng tháng Tám, người đang nuôi anh sau bấy nhiêu năm đen tối của miền Nam, thà nổ súng vào đầu còn hơn phụ bạc em!
Trước khi ngủ thiếp đi dưới lều nhựa, trên võng, trùm tấm dồ Thượng ở quãng rừng vắng nào đó, Chanh vẫn dành cho Thùy những ý nghĩ cuối cùng. “Thùy ơi, vợ anh ơi, chúng mình sẽ có ngày sum họp, em cứ tin thế nhé. Anh sẽ bế hay dắt tay con mình, ba chúng ta cùng chụp hình ở công viên nào đó, em sẽ đẹp rạng rỡ trong áo dài màu và trong hạnh phúc chiếu sáng từ trái tim nồng nàn...”
Ước mơ đẹp đưa đến những chiêm bao đẹp, để mỗi sáng sớm Chanh tỉnh dậy theo tiếng gà rừng hay vượn hú, lại phải đón nhiều nỗi đau mới trong lòng và trên thân thể.
Số đồng chí còn lại từ thời chống Pháp bị giết và bị bắt đang tăng lên đến mức báo động, khi dẫn các mũi nhọn thọc xuống các vùng sâu. Anh chị em tập kết trở về còn ít và hiểu rất chung chung về xã hội miền Nam, còn số trai gái trẻ mới đưa vào các đội được cái hăng, bốc, nhưng chưa tùng được học gì về chính trị, quân sự, hầu hết mới thoát mù chữ hay đang còn mù chữ. Móc lại số đảng viên cũ đã xuất thú trong những năm đen tối đầy thất vọng, phần lớn cú lừng khùng, cùng lắm chỉ gửi ít tiền hay cho gạo muối, còn dặn lớp trẻ “đừng làm căng quá, tụi nó giết hết dân lành”.
Sau Đại hội Ba của Đảng, miền Bắc đưa người và của vào mạnh hơn, nhiều hơn, nhưng mỗi ngày mươi gùi hàng cõng trên lưng cho nửa nước đang mặt đối mặt đánh Mỹ-ngụy chỉ là muối bỏ biển. Súng đạn tước được của dân vệ, thôn vệ, thanh niên diệt cộng chỉ là những thứ thải bỏ, làm sao diệt được quân chính quy dùng toàn súng Mỹ tối tân, hay bọn bảo an của tỉnh để lấy những thứ kém chút ít nhưng vẫn khá, đỡ trục trặc?
Còn cái xác phàm của Chanh này nữa... Sức người có hạn, đá tảng còn đổ mồ hôi nữa là người. Những cơn sốt rét quật anh ngã từng đợt, ngày càng kéo dài và khó chữa. Các thứ bệnh khác cũng thừa cơ nổi loạn: những thang thuốc nam của cụ lang Huề Bình vô cùng tốt bụng dường như không nghiệm nữa khi anh lên cơn đau dạ dày, và chứng thấp khớp từ Hạ Lào mang về sau những năm lặn lội trong vùng bưng lắm đầm lầy và đá ong đang tấn công gắt hơn sau những năm ở hang, nằm núi ẩm ướt, ngay trên tỉnh quê mình.
Bốn mươi tuổi mà chịu đầu hàng bệnh tật ư? Không sợ Pháp, không sợ Mỹ, mà lại sợ các thứ vi trùng vi khuẩn đục khoét xương thịt mình? Chanh cố chống đỡ bằng mọi cách. Anh chịu bớt gương mẫu trong nghĩa vụ sản xuất-được quy định mỗi ngày một buổi cho cơ quan tỉnh, và anh từ chối không nhận miễn giảm-dành thêm giờ tìm hái thuốc nam, tự sao tẩm và sắc, tán, uống thuốc nước khi ở cơ quan, thuốc tễ khi đi đường dài, ngoài cái tên “cụ Thượng” lại được phong thêm chức “cụ Lang”, vì chữa lành được những bệnh nhẹ cho cơ quan và dân các làng Thượng ở gần.
Soạn các tài liệu anh Tô Xáng để lại, anh gặp ba bức điện đánh ra Trung ương đề nghị đưa đ/c Thanh trà ra Bắc hay sang các nước bạn chữa bệnh và an dưỡng ít lâu. Anh Xáng ghi rõ: phải có chỉ thị, Trà mới chịu đi.
Nước mắt Chanh đã chảy nhiều khu truy điệu ông “cai lục lộ”, không chảy nữa, nhưng anh vẫn úp các bản điện tín vào mặt hồi lâu, nấc nhẹ trong cổ, khi tỉnh hẳn mới đọc lại và hiểu rằng người cãi vã với mình nhiều nhất vẫn là người yêu quý mình thắm thiết nhất. Điện anh Bảy Quý trả lời rất gọn: “Cố thuyết phục Thanh Trà, vì lợi ích lâu dài CMMN”. Thằng Chanh cứng đầu không nghe lời thuyết phục, nay đang phải thay anh Xáng ở chỗ đứng đầu Đảng bộ Quảng Nam, đùn đẩy cho ai mà ra Bắc?
Những nỗi đau như thế từng ngày, từng ngày xói mòn thân xác và tim óc của Cả Chanh, thuốc nam hay bắc đều bó tay lần lượt, các thứ thuốc tây thứ thiệt hay thú “dởm” xin chịu chàng thu cả các thang thuốc gia truyền của cụ lang Chín trao lại kèm theo câu đùa: “Người khác tôi chẳng tin đâu, với chú Chanh thì tôi chịu úp niêu cơm bí mật gia truyền để chú lành bệnh, lo giúp cho dân mình”. Và quả thật cụ Chín đã giúp Chanh cầm cự với bệnh tật mãi tới nay. Có lẽ các loại bệnh đã lờn thuốc hay sao, dù Chanh đã tra cứu các sách Đông Tây y để gia giảm cho hợp với mình. Với chút tiền của Thùy gửi cho, anh nhờ các đội và cơ sở vùng bị chiếm mua thêm các vị chưa tìm thấy, như đỗ trọng, ngưu tất.
Không phải ai cũng hiểu rằng Chanh cố chặn bớt các bệnh để bám chiến trường, chỉ đợi có người thay là đi chữa. Một số đồng chí từ thành phố lên hay từ miền Bắc về, hồng hào béo tốt, hay xì xào chê anh Chanh thiếu gương mẫu, lo cho thân xác mình quá nhiều, cố bám địa vị quyền bí thư tỉnh ủy, chưa chịu rút lui. Trong một cuộc họp chi bộ cơ quan tỉnh ủy, vài đồng chí đã nói rõ. Chanh chỉ chống tay lên cằm, ngồi nghe, buồn tê tái. Tôi khao khát rút lui từ lâu lắm rồi, sao các đồng chí không bầu người khác cho tôi được nhờ? Trong đại hội Đảng bộ tỉnh, tôi từ chối không nhận đề cử vào tỉnh ủy, tại sao hầu hết đại biểu lại bác bỏ không cho tôi rút? Tôi ra Bắc, có thể được chữa bệnh, xếp lương, trở về với nghề xưa đường sắt, với con tôi được học tiếp và vợ tôi vào một xưởng may nào đó. Tôi đâu có tranh giành gì ở đây? Tôi bám quê hương, bám đất, bám dân, bám Đảng, đâu có bám cái ghế đói khổ của một quyền bí thư sống nay chết mai, với người bạn thân nhất là con chó Dồ luôn chạy trước chủ, với tất cả gia tài là một cái gùi trên tấm lưng cởi trần đen thui!
Những thứ bom pháp từ phía địch giội tới, những mũi kim nhọn chọc sau lưng, Cả Chanh đều cố chịu, cũng như cố chặn mỗi đợt phản kích của bệnh tật đang quật lại mình từ bên trong.
Nhưng anh sẽ chống chọi được đến bao giờ?
Đi đêm rồi cũng có ngày gặp ma. Anh chị em dần dà quen với mỗi chiều “cụ Lang” cõng gùi cầm rựa ra đi hái thuốc với con chó Dồ không đợi gọi cũng tự ý chạy vượt lên trước chủ. Hôm ấy anh chợt nhớ đến một cụm gân voi ở hơi xa cơ quan, thứ củ của nó sắc uống chữa đau khớp cũng khá lắm. Anh gọi thêm cậu y tá, học nghề ở Đà Nẵng nên không biết thuốc nam, vác cái thuổng cùng đi để biết cây biết củ.
Giữa lúc Chanh đang chỉ cho cậu trẻ kia nhận ra thân và lá, con Dồ chạy sục chung quanh bỗng đến cào móng vào chân chủ, ngoảnh đầu về phía con suối khô cách chừng trăm thước, gừ gừ khẽ, lại cào chân anh. Có chuyện rồi. Thú dữ rình chăng? Anh vỗ đầu con Dồ, nhìn vào mắt nó, nhưng nó cứ cào, gừ, quay đầu về hướng suối, trong mắt hiện rõ nỗi lo và đau khổ vì không biết nói.
Cậu y tá có hai quả lựu đạn Mỹ da láng xanh đeo thắt lưng. Chanh có súng ngắn ba nòng. Anh cẩn thận nhét lưng khố túi đạn dự trữ. Cả hai cầm giáo và rựa rón rén theo con Dồ. Nó cố ý đi thấp chân giống kiểu gặp địch để ông chủ hiểu, không một tiếng động.
Họ bắt gặp sáu tên biệt kích mặc đồ rằn ri trên bờ con suối chỉ còn chảy bằng một dòng nước máng tre vào làng. Chúng đang ăn cơm sấy đóng bao với đồ hộp Mỹ, uống bia lon pha huýt-xki Mỹ, rì rầm nói gì với nhau chẳng rõ. Chúng được trực thăng thả xuống tìm cơ quan tỉnh, không nói cũng biết.
Chanh liếc nhìn cậu y tá mặt tái xanh, tay run, miệng hớp hớp như cá lên cạn. Anh bò đến gần, rỉ tai:
- Đưa lựu đạn đây, cả hai trái. Cậu rút thẳng về cơ quan, báo động, nhớ nói rõ là chưa có lệnh đổi chỗ.
Chỉ còn anh với con Dồ đánh tốp biệt kích.
Anh thong thả cắn chốt cả hai quả da láng, xem lại cây súng ba nòng đặt bên tay phải, cây giáo sắc để tự vệ cuối cùng, trước khi tấn công.
Hai quả lựu đạn nối nhau rơi nổ giữa mâm cơm biệt kích, chúng hét vang ầm khi chạy tản. Hai tên gác đầu và cuối chỗ mâm ăn, vừa chạy xô tới vừa gào. “Việt Cộng”, cùng bị hai phát đạn ria vãi xòe như hai nong sạn hắt tưới vào thân, úp chụp lên những tên kịp nhào sấp xuống tránh mảnh lựu đạn. Một tên ăn xong trước, qua bên kia suối chừng để đi ngoài, chộp vội cây tiểu liên Tom-xơn, nép sau một tảng đá, đảo mắt tìm. Hắn lỳ mà dốt: đáng lẽ thu hình kín và rướn cổ bên phải chân tảng đá cho dễ xem và dễ bắn, hắn lại nhô đầu trên đỉnh vật che đỡ, nhờ đó Chanh không bị thấy trước, quét đạn trước, vẫn nằm sấp, anh kê súng ngắn trên rễ cây to, ngắm kỹ, bấm cò nòng thứ ba. Viên đạn trường. Anh trượt trên đá, nòng cưa ngắn bắn khó trúng, nhưng vẫn bật lên xóc vào mặt tên lính rằn ri. Hắn rít một tiếng ngắm, thả rơi tiểu liên, ngã vật xuống.
Chanh vỗ lưng con Dồ, cầm giáo và cây súng rỗng chạy thục mạng, vẫn nhớ tạt qua các bụi gân voi ban nãy để lấy gùi, rựa, thuổng, vác tất cả chạy về cơ quan, chỉ dừng vài phút để lắp đạn vào súng ngắn ba nòng, lại chạy nữa.
Cậu y tá về trước đã báo động. Nói lắp bắp sao đó, anh chị em lại tưởng anh bí thư bị địch vây bắt rồi, chúng đang dò đường vào cơ quan tỉnh.
Vài người nhát sợ nhất đã xốc ba-lô định lủi êm. Anh chánh văn phòng và cậu bí thư chi bộ, một già một trẻ, phải nhảy ra chỉ huy. Người đang sốt rét, già yếu, phụ nữ vướng con mọn, phải thu dọn các thứ tài liệu, các máy chữ và thu thanh, lùi xa ít nhất một buổi đường núi, đợi nhau ở căn cứ Hai. Điện đài tách một nửa cõng máy theo nhóm này, một nửa ở lại đánh. Nồi soong dìm xuống vực, heo gà mở chuồng thả vào rừng, chúng sẽ tự trở về nếu vắng tiếng súng. Địch vào đốt phá mặc chúng, ta về làm lại nơi khác khó tìm hơn.
Con chó Dồ, con cưng của mọi người, lon ton chạy về, chỏm đứng hai chân trước cậu bí thư chi bộ, quẫy đuôi rất vui như báo tin mừng với những người hiểu nó. Cậu bí thư chi bộ đang lắp thêm đạn vào băng Tuyn cải tiến - dùng đạn K.50 thay đạn chín ly của Pháp, từ miền Bắc gửi vào, đã được cẩn thận đeo trên ống tản nhiệt một vỏ đạn K.50 rỗng cho khỏi dùng sai đạn to hơn nòng - chợt nhận ra những nét mừng mà con Dồ cố làm cho người hiểu.
Mươi phút sau, Cả Chanh trở về giữa bấy nhiêu tiếng thở phào nhẹ nhõm, với gùi, giáo, súng ba nòng, bộ dạng ông già Thượng không hề sứt mẻ. Cậu bí thư trẻ lao ra sân ôm ghì anh:
- Thấy con Dồ chạy về một mình, cả cơ quan lạnh ngắt xương sống hết, chắc chú bị gì rồi. Đang xếp quân đi giải cứu chú. Có phải tản cư chưa chú?
- Chưa cần. Anh chị em đã xếp gùi cứ lùi ra sau cơ quan cho chắc. Số trẻ mang võ khí đi dò lại chỗ suối cạn mà Chanh đã một mình đánh úp toán biệt kích.
Chúng bỏ lại ba xác chết, bốn tên bị thương, cái máy bộ đàm bị lựu đạn phá võ toác, bốn cây tiểu liên và các-bin còn tốt, một súng ngắn Côn 45, một súng bắn pháo hiệu có nhiều đạn màu, chín cái ba-lô đầy những tăng võng và đồ hộp.
Một tên đeo lon hạ sĩ không đợi hỏi, đã hối hả khai để chuộc mạng. Chúng ra đi từ đồn quận Khâm Đức, mười hai tên tất cả, sục rừng tìm mật khu cộng sản cấp tỉnh đã ba ngày, báo trước cho trực thăng sáng mai tới đón vì chưa tìm ra, phải về quận vì lội leo quá mệt. “Khi bị quý ông vây đánh, toán biệt kích tui đã yên trí vùng này không có cộng sản, chỉ cần tránh chông bẫy của “bọn mọi” là yên ổn về đồn”. Trừ số bảy tên bị bỏ lại, còn năm tên thoát, kể cả lành lặn hay bị thương nhẹ còn đi được. “Chắc hẳn chúng theo bản đồ trở về Khâm Đức thôi, quý ông theo dấu chân là bắt trụm hết”. Tên hạ sĩ cay cú vì bị vất lại, muốn đưa hết số đồng đội phản phúc kia vào trại giam chung với mình.
Cậu bí thư chi bộ trẻ tuổi muốn kéo ngay đội tự vệ đuổi theo dấu chân những tên sống sót. Ông chánh văn phòng tóc hoa râm cản ngay: “Nhiệm vụ chúng ta là bảo vệ Thường vụ tỉnh ủy chứ không phải truy lùng biệt kích. Lỡ khi mình say máu rượt theo tụi nó, một mũi biệt kích khác đánh úp vô cơ quan, bệnh xá, điện đài, giết cán bộ với thương binh, lấy sạch tài liệu tối mật? Rõ ràng là lợi bất cập hại”.
Và tất cả đội tự vệ cơ quan khiêng đám biệt kích bị chết đi chôn, cắm biển tạm bằng gỗ đề tên người, lại khiêng các tên bị thương về bệnh xã chữa chạy, khuân vác mọi thứ chúng bỏ lại đến còng lưng. Còn may vô vàn là giới y tế vừa nghe kinh nghiệm của dân Thượng dùng loại dây leo lôông tơ-uyn, có tính kháng sinh rất cao, đun nấu đến thành cao đặc cũng không đổi tính, có thể thay cho các loại xi-lin hay my-xin trong tây y trong những năm bị địch bao vây thuốc này.
Trong bốn tên bị thương, khi được chữa lành, hai đã xin ở lại với cách mạng. Hai nữa xin về thăm nhà, sau đó một trở lên căn cứ, chỉ một gửi thư xin được yên thân làm ăn vì đã ba con, xin thề suốt đời không hề phản Cụ Hồ, chống “quý ông giải phóng”. Tay này đút lót trốn lính cho bọn tề thôn xã, cho Quân vụ thị trấn được hơn một năm thì cùng kiệt, phải đùm túm cả nhà sáu miệng ăn đi dinh điền đâu tận phía Nam tỉnh Đắc-lắc, không dám gửi thư về quê nhằm tránh bị giấy đòi quân dịch rượt theo. Nhà khá giả cho con trốn lính ngay trong làng, trong nhà, nhà nghèo phải trốn thật biệt tăm tích mới thoát, chỉ mất một lần tiền mua giấy tờ giả là xong.
Đồng chí quyền bí thư tỉnh ủy Thanh Trà, sau khi được gọi là “cụ Thượng, cụ Lang”, nay được thêm tên mới là “đơn vị một người”. Năm tên biệt kích sống sót đưa nhau về đồn quận Khâm Đức, theo cơ sở nội tuyến báo lại, đã khai bị sa vào vòng vây của một đại đội Việt Cộng có đủ súng moóc-chê, đại liên, còn thêm thứ súng tối tân hắt đạn vào thân như mưa đá. Chỉ đường cho đại đội ấy là một tên “Việt Thượng cộng phi” đóng khố vác giáo, râu tóc lòa xòa, thuộc rừng núi như lòng bàn tay. Lính ngụy ở Khâm Đức hầu hết là số không đủ tiền nộp để làm “lính ma, lính kiểng”, ghi tên ở Khâm Đức nhưng thân xác gửi ở các snack-bar từ Sài Gòn ra đến giới tuyến Bến Hải. Sống hay không sống? To be or not to be? Thằng nào dại cứ kiếm lon, kiếm thưởng, kệ mẹ cha chúng mày, tao mãn hạn quân dịch là về cày ruộng, xới vườn, buôn chuyến, đợi khi có dịp là tao bay vù đi đâu mặc kệ, miễn là không nằm sấp giữa hai làn đạn chiu chiu trên gáy.
Mỗi khi nghe cái tên dài mới được phong, Cả Chanh lại lắc đầu, vỗ vỗ con chó Dồ:
- Công lao phải chia ba. Con Dồ tìm ra địch, cậu y tá đem hai trái lựu theo, mình có công nổ lựu đạn, nổ súng. Chia ba là phải. Phần con Dồ, cho nó ưu tiên, ăn khá, thưởng bằng khen nó chẳng đọc được, tội nghiệp thân nó!
- Giỡn chi vậy anh Cả, lập công mà không được khen thì anh chị em khác cũng bị cụt hứng, chẳng ai muốn xông lên tấn công như anh nữa...
- Có lý. Vậy các bạn viết cho mình ký ba cái giấy khen: đồng chí Thanh Trà khen đồng chí Thanh Trà là một, khen cậu chó Dồ là hai... Ôi, sao lại cười? Nhớ thử coi, hồi xưa trên hành lang từ Quảng Nam lên Hạ Lào-Đông Bắc Miên có mấy con voi được thưởng huân chương đó nghen. Khi chở hàng, muối hay súng đạn, mình chẳng có cân to, hễ chất lên bành quá nhẹ hay quá nặng thì các ông voi đó quất vòi ra sau, cứ quỳ phục bốn chân không chịu đứng dậy, rống theo kiểu riêng mà quản tượng mới hiểu. Chưa hết đâu. Khi làm lễ mừng chiến thắng, mấy ông đó thấy thiếu cái huân chương buộc dây dài nhằng qua cổ là cứ đứng dẫm chân và rống dài dài, đợi đeo xong huân chương mới tới dự lễ gật đầu đưa vòi chào các quan khách rất là đàn anh… Con chó Dồ không biết nói, mà nó hiểu hết đó... Coi kìa...
Con Dồ nghe tên nó được nhắc nhiều lần với cái giọng trìu mến, đã bò bốn chân rất khiêm tốn đến giữa hai chân ông chủ mà nó nhớ được gọi là ông Cả, anh Cả, nói rất nhiều tiếng lạ khiến nó rối óc, chỉ biết rằng ông chủ này luôn thương nó.
Cả Chanh đùa, đánh trống lảng cho qua cái trận cò con. Mà không thoát. Khoảng một tháng sau, nhóm phái viên của Quân khu 5 về nghiên cứu chiến trường trọng điểm Quảng-Đà, bàn mảnh sao đó với chi ủy cơ quan tỉnh, mời tất cả cơ quan họp một tối nghe tình hình chung trong khu. Tất nhiên Chanh đến dự. Các ông khách đột ngột đưa ra một bằng khen của Quân khu 5 tặng đồng chí T. đã đơn độc tiến công một đơn vị biệt kích, giữ an toàn cho các đơn vị ở hậu cứ của tỉnh.
Tới đó mà từ chối mãi cũng khó coi. Chanh đứng lên nhận, nói đôi lời hiếu hỉ cho xong chuyện. Dứt cuộc sinh hoạt đêm, anh gọi cậu văn thư đến, ghi thêm mấy chữ vào dưới tấm bằng, bảo cậu ghép vào hồ sơ anh Tô Xáng để trong kho mật. Cậu kia trở về lán mình, châm cây nhựa thông dùng thay đèn, đọc dòng chữ Cả Chanh đề dưới góc: “Quân khu 5 truy tặng đ/c T. tức Tô Xáng, đã hi sinh anh dũng vì dân vì nước”.
Sức mấy mà cãi lại “cụ Thượng”. Đành phải làm theo thôi!