Chương 11
Trời Hà Nội đang kỳ rét lộc và mưa phùn, đường phố phủ bùn nhem nhép lỏng. Đàn ông đi giép bốn quai hay giày vải có cổ còn đỡ bẩn, các bà các chị ngại trơn trượt phải đi guốc cuốc bộ, mỗi lần gót guốc nẩy lại hắt thêm năm bảy giọt bùn to nhỏ lên ống quần đằng sau, chỉ qua vài trăm thước là đủ hiện rõ hai mảng bùn hình tháp nhọn, dưới đậm trên nhạt, đỉnh lên tới nửa đùi dù đã cố rón rén.
Nền mây đệm bông xám trên đầu tỏa xuống một ánh sáng hoàng hôn kéo dài suốt buổi chiều. Điện đường đợi đúng giờ mới bật, lúc ấy trên phố đã có nhiều xe đạp vấp nhau, kêu oai oái. Và điện đường chỉ để lại bóng to ở các phố chính, đã thay bóng nhỏ ở hẻm các phố nhỏ, tháo bớt bóng để soi cách quãng trong các hẻm và khu nhà tập thể gân ngoại thành, chỉ đủ đánh dấu con đường chứ không soi sáng, vì điện thế xuống quá thấp, lắm lúc bóng dây tóc chỉ đỏ lên như hòn than củi. Các nhà có con đi nước ngoài nổi rõ lên vì ánh sáng chơi trội, nhờ những bộ tăng áp gửi về, tuy nằm lọt giữa một khu tập thể “quạt chạy lờ đờ, đèn mờ đom đóm”, ấy là khi không bị cúp điện.
Hoàng Lan xếp hàng đến gần bảy giờ tối thì mua được số gạo và ngô xay theo số lương thực. Đang loay hoay buộc hai cái bao tự may bằng ống quần cũ của chồng vào chỗ đèo hàng xe đạp, Lan nghe tiếng kêu than và la hét dội lên trên cái đuôi dằng dặc đang xếp hàng. Không cần nhìn lại, Lan đã biết là bảng “hết hàng” đã treo, cửa nhận hàng đã đóng, nhưng bao giờ khách hàng cũng kịp thấy những bao tải đầy căng còn xếp cao bên trong cửa hàng lương thực trước khi các vị “nội trợ của nhân dân” đóng cửa ghi-sê trước giờ bán đã quy định lại.
Vài năm trước, khi bắt đầu bán theo định lượng, ngành lương thực đưa ra các loại tem phiếu, tiếp tới sổ lương thực, một cân gạo bốn hào. Dân ngại xếp hàng, mua gạo chợ đắt hơn vài hào nhưng tùy ý chọn, gạo ngon hơn, đỡ mất thì giờ. Đến khi gạo và thịt cấm bán tự do ở chợ, họ mới đổ xô tới chịu xếp hàng ở mậu dịch. Cửa hàng gần bệnh viện Việt-Đức cứ nhất định bán và nghỉ theo giờ hành chính: “Chúng tôi là cán bộ công nhân viên Nhà nước, phải làm và nghỉ theo giờ Nhà nước chứ sao!”.
Những người ăn lương Nhà nước nếm đòn trước tiên. Giờ đi làm không thể bỏ, cả nhà vắng, lấy ai đi xếp hàng. Các bà mậu dịch dùng sổ giờ vắng khách ấy để bán từng bao, tùng chục bao tải gạo, mì sợi, ngô xay cho bọn con phe. Số này ngày càng đông, ngày càng trắng trợn, ngày càng giàu, vung tiền ra mua các vị cấp trên và công an khối phố, ăn lãi tăng theo cấp số nhân.
Dân phổ nói ngọt không nổi, tự tổ chức các cụ về hưu, nhờ góp sổ đi mua hộ cho nhiều nhà, có tiền thù lao. Một ả hàng quà rong mới được chồng thu xếp vào làm mậu dịch để “cải tạo tiểu thương”, đã hất cả một xấp sổ do cụ vụ trưởng tóc trắng đã hưu đưa vào ghi-sê.
- Cấp trên đã bắt chúng cháu không được bán nhiều sổ một lần, bảo là tránh ăn lãi trung gian, nhà nào tự mua phần nhà ấy thôi.
Cãi qua lại một hồi, tới lượt ông cửa hàng trưởng ra oai:
- Tôi biết cụ trước đây là cấp trên của tôi. Hồi ấy cụ ra lệnh thì cấp dưới phải răm ráp, không phục tùng thì cụ trị cho nhừ xương. Bây giờ cấp trên của tôi ra lệnh thế đấy, mời cụ lên Cục lên Bộ mà kiện, cãi ở đây là cản trở công tác của cửa hàng.
Phải mất bốn tháng điều tra, ngâm cứu, đợi xét duyệt từng cấp, đợi các vị lãnh đạo bận đi nước ngoài, đi nằm bệnh viện, đi nghỉ mát, hay có mặt tại chỗ nhưng họp nhiều đến nỗi không giải quyết chuyện vặt là giờ bán hàng và nạn phe phẩy, thì cách bán được thay đổi: sáng, năm giờ đến chín giờ, chiều, bốn giờ đến tám giờ. Dân có thì giờ mua, mà nhân viên bán cũng còn dư thì giờ để tuồn hàng cho con phe, đan len, tán gẫu, ăn quà vặt, chạy theo những đứa con bám mẹ. Các cụ hưu được xét cấp giấy phép mua lương thực cho nhiều hộ, về chia nhau.
Và đến khi chia, lại nổi bật lên cái chuyện “Cân đong đo đếm”. Mậu dịch đong nhiều bao loại năm cân, mười cân, chỉ ném ra đủ số cho người mua trút vào bao mình, đem về cân lại bị hụt năm cân thành bốn, mười cân thành tám hay tám rưỡi. Lại họp dân ký kiến nghị tập thể, lại công an được cử điều tra người ký xem có vụ “Chống chế độ” nào lọt vào chăng. Lại qua rất nhiều điều tra, ngâm cứu, xét duyệt nữa, với nhiều đoàn kiểm tra đi lướt qua, mức ăn bớt xén giảm đôi chút rồi trở lại như cũ.
Các thứ tem phiếu khác đều bị cắt cổ như thế. Chất đốt, thịt, dầu mỡ, sữa trẻ em, cả xì dầu và mì chính nữa, đều trở thành mồi ngon của “con phe ngoài” hay “con phe Nhà nước”. Ăn, cố ăn, chia nhau ăn, nộp phần ăn cho người có chức quyền, nếu bại lộ thì Nhà nước chỉ bắt làm kiểm điểm hay cùng lắm là đưa ra khỏi biên chế, số vốn kiếm được đã đủ để buôn lậu với tấm bình phong hợp pháp của một quán nhỏ hiền lành, với lãi buôn lậu bằng trăm lần những đứa ăn lương Nhà nước. Và phải luôn nhớ không ngớt mồm kêu đói khổ vì thuế nặng, chỉ bán lèo tèo chè chén với kẹo lạc mà các ông ấy không tha, chắc phải giẹp cái quán vỉa hè này thôi. Chỉ ít lâu sau, bà bán chè khốn đốn ấy kín đáo mua được một mảnh vườn, giỡ bỏ căn nhà tranh của chủ cũ, xây luôn một nhà gạch mái đúc bê-tông hai tầng, bên trên còn tua tủa những cây sắt nhọn để đón tầng ba. Lâu lâu gặp người quen, bà lại thở dài: “Dầm mưa dãi nắng mãi đến rạc người, mới phải ngậm bồ hòn mà thuê chỗ bán tí ăn uống mới sống tạm qua ngày”. Lúc nào cũng rên rỉ, nhưng mỗi giờ khuya đếm tiền bà lại tươi như hoa: bà mổ họng khách hàng ăn phở, uống cà-phê, bà thít cổ các cô thất nghiệp xinh giờn, bà trốn thuế, bà thuê nhà của chính bà. Mỗi ngày lãi của bà bằng lương tháng của một kỹ sư hay bác sĩ cỡ lớn đã bạc tóc trong nghề, còn đám mới ra trường chỉ bằng con số lẻ, bà hay vất cho lũ con ăn quà sáng.
Hoàng Lan không dám cưỡi xe đạp vì thồ nặng và đường trơn, đèn tối, chỉ hì hụi đi bộ thồ hai bao gạo ngô và thùng dầu lửa về nhà. Chả cần ai cười chê, Lan xắn hai ống quần quân phục cũ bạc màu lên quá gối, đi giép cao-su đen, lật cái nón lá cũ ra sau gáy, từng lúc kêu to: “Tránh nhé, xe đây nhé” khi xe đạp khác lao tới trái đường. Các bà các chị dặn mãi là có thai đến tháng thứ ba rất dễ sẩy, phải giữ thân rất kỹ. Giữ thân rất dễ, nuôi thân mới khó. Anh Cam chắc đã về, lau xe đạp xong đang nấu cơm canh, luộc rau. Thằng Nhứt ăn tạm mấy mảnh bít-xcốt làm bằng bánh mì thừa sấy khô, đang chơi và nghe phát thanh bên hàng xóm. Hai vợ chồng đã dành dụm mua được một quạt bàn nhỏ Ma-re-li loại rẻ tiền không có trục xoay, thường dành cho con trong mùa nóng cho nó đỡ rôm sảy, đang tiến tới bước hai là mua một máy thu thanh, cũ cũng được, cho khỏi nghe nhờ hàng xóm và khỏi lạc hậu tin tức.
Đúng như Lan đoán, anh Cam đã lau qua xe đạp và nhấc vào buồng tránh mưa, đang ngồi trầm ngâm trên cái đòn thấp trông chừng bếp trấu hâm canh. Bếp được đặt trên một mảnh sát tây gỉ cho khỏi hỏng nền buồng lát gỗ, hàng viện trợ.
- Giúp em tí, anh!
Cam giật mình, chạy ra cửa, xuống ba bậc cấp gỗ, xốc tất cả các thứ vợ mua về trên hai tay, đem xếp vào góc căn buồng chật.
- Em đi gọi con về ăn, anh lau xe, để ướt chóng gỉ lắm.
Tám giờ tối, bộ ba mới ngồi vào mâm. Thằng Nhứt vừa ăn vừa ngủ gật, hai lần đánh thức nó mới ăn đủ hai bát với canh, mấy con tôm rang mặn, vài sợi rau muống luộc mà nó rất ghét. Cam phải xốc nó trên tay khi bắt uống nước rau muống, súc miệng nước muối, rửa hai tay và kỳ cọ hai chân nó phết bùn đến gối, khi Lan rửa bát đĩa xong vào thì Cam đang cài chăn, buông màn cho đứa con đã lịm đi như ngấm thuốc mê.
Chín giờ tối, hai vợ chồng mới thực sự gặp nhau kể từ mờ sáng. Cam trách nhẹ:
- Anh đã bảo đến chủ nhật anh đi mua các thứ. Em đang có thai tháng thứ ba...
Lời trách ấy lại như làn hơi ấm quạt vào Lan trong đêm rét lộc này. Lời trách mà là lời khen, lời biết công vợ. Nhung Lan chỉ kịp nghĩ ra một câu đáp ngớ ngẩn và hơi xẵng:
- Ngày nghỉ của anh phải dài tới bốn mươi tám tiếng. Bạn chiến đấu cũ tới thăm, bạn giảng dạy đến bàn việc, bạn miền nam hỏi tin tức, sinh viên nhờ phụ đạo, bà con họ hàng phía em phía anh cần nối dây tình cảm… Trốn đâu được, anh Sáu?
Sáu Cam nín lặng. Sự thật là thế. Anh không còn chút thì giờ nào để đưa vợ con đi giải trí ở rạp Kim Đồng dành cho thiếu nhi, hay đi dạo ở những nơi mà anh đã gánh đất xây dựng như công viên Thống Nhất hay đường Thanh Niên-ngày xưa là Bảy Mẫu và Cổ Ngư.
Cam tốt nghiệp Đại học tổng hợp vào hạng nhất lớp. Sinh viên hay đùa nhau là “bỏ biển xanh, giành biển đỏ”. Trường dập biển tên đeo trên ngực hình chữ nhật để bảo vệ tiện kiểm soát, chỉ khác ở màu sơn nền: nền xanh là của sinh viên, màu đỏ là của cán bộ giảng dạy và tất cả các loại công nhân viên chức khác. Cam không muốn ở lại trường, nhưng phải phục tùng sự phân công như đã ghi trong đơn dự thi bốn năm trước. Các cơ quan đã đọc các bài Cam viết về Nguyễn Đình Chiểu và Lục Vân Tiên, về dân ca Nam Trung bộ, về thơ văn miền Nam hồi chống Pháp, đều đánh giá là biết nghiên cứu loại khá, đã cho người đến tìm hiểu thêm và làm công văn xin Cam về chỗ mình. Nhà trường từ chối cả. Khoa ngữ văn vừa lập thêm một bộ môn mới để nghiên cứu và giảng dạy văn học miền Nam sau cách mạng tháng Tám, đã quyết định Cam ở lại trường làm nghiên cứu sinh và trợ lý giảng dạy thuộc bộ môn này. Đưa ý kiến ý cò ra chán rồi đành nhận việc chứ sao. Và chỉ vài tháng sau, Cam bị bầu vào Đảng ủy Khoa học xã hội, làm phó bí thư chi bộ khoa Ngữ văn. Năn nỉ xin rút khỏi danh sách đề cử, không được.
Tính Sáu Cam xưa nay vẫn thế: từ chối không được thì phải nhận việc, và đã nhận việc thì phải làm hết mình. Làm hết mình là mất nhiều sức khỏe, mất tự học và nghỉ ngơi, mất giờ giúp vợ và dạy con, phải gánh thêm không ít lời cằn nhằn, mỉa mai chế giễu trước mặt và cả đòn ngầm ác hiểm sau lưng, ở đâu cũng có những người như thế: năng lực chuyên môn kém thì cố ngoi lên bằng thăng quan tiến chức, gọi mỹ miều là công tác Đảng, công tác quản lý, hay cao hơn nữa là công tác lãnh đạo. Nhưng ở trường đại học thì phải giỏi chuyên môn mới có uy tín, họ đi rỉ tai khắp nơi mà khi bỏ phiếu kín vẫn dẫm vỏ chuối. Lấy mình làm thước đo, suy bụng ta ra bụng người, họ tin rằng thủ đoạn kẻ kia cao tay hơn mánh lới của mình, những ai lạy van không nhận đề cử chỉ làm như Tào Phi ngày xưa ba lần từ chối không nhận ngôi vua, nhưng vừa ngồi vào ngai vàng đã lập túc đuổi vua cũ đi đày và trị dằn mặt lũ em ruột để trù hậu hoạn!
Ông bí thứ Đảng ủy nhà trường, tú tài hồi Pháp, đã hoạt động Việt Minh trước Cách mạng tháng Tám, đã nhất quyết không chen vào những vụ tranh cãi về học thuật. Một trường với rất nhiều khoa, cả tự nhiên lẫn xã hội, hay xảy ra nhũng vụ kiện như thế, và giới cán bộ giảng dạy thường ép Đảng ủy xử kiện, nếu không muốn bị coi như bù nhìn. Trong mỗi khoa lại có lắm trường phái tùy nơi đào tạo: Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, các giáo viên cấp ba lâu năm được đưa lên vừa học thêm vừa dạy, các nghiên cứu sinh và trợ lý mới tốt nghiệp đại học vài năm gần đây.
Sáu Cam bị bầu làm phó bí thư ở đấy, thấy mình là con cá bỏ giỏ cua. Thì giờ bị xé vụn tơi tả. Ở trường, đang soạn giáo trình cho bộ môn văn học miền Nam-cụ chủ nhiệm bộ môn suốt đời chưa hề vượt khỏi Đèo Ngang-bị gọi giật đi họp, đi hội ý, đi xử khiếu nại về đời sống hay lủng củng nội bộ. Về nhà, chưa kịp tắm rửa ăn cơm đã có ai đó đợi sẵn hay đổ bộ đột ngột, xin lỗi cô vợ mấy tiếng gọi là, bảo cần gặp Cam vài phút thôi. Vài phút ấy kéo thành vài tiếng với những lời dỗ dành hay gay gắt, có khi đập bàn đến đổ cốc chén: hữu khuynh, mũ ni che tai, coi khinh ý kiến đồng chí đồng nghiệp, cực đoan, phiêu lưu, tiền phong chủ nghĩa, kiêu căng ngông nghênh... Ban đầu Hoàng Lan hoảng hồn định chen vào can, liên tiếp gọi chồng đi ăn cơm kẻo cả nhà chờ. Mãi rồi quen, Lan chỉ xách một xô nước úp chậu thau và treo khăn mặt lên trên, để phần cho chồng trên mâm đậy lồng bàn, riêng cơm thì lót giấy báo và trùm chăn ủ nóng trong nồi.
Lan sợ nhất khi bà Ất béo đến. Gọi là dạy bảo người cháu dâu cũ đã đi bước nữa, nhưng bà nói quên dừng lại, như vòi nước ban đêm ai đấy quên khóa. Chồng con và bạn bè chán bà “nói dai, nói dài, nói dại”, bà mở máy trong nhà bà chỉ năm phút đã vắng khách. Đến nhà Lan bà không bị khách nghe bỏ trốn. Lan cứ giặt giũ, nấu ăn, giặt đến nửa giờ hay nấu nửa giờ bên ngoài, bà vẫn kiên nhẫn giữ thằng Nhứt tuy nó cũng muốn chạy sang xóm nghe nhờ ca nhạc thiếu nhi hay sân khấu truyền thanh, nếu được một cô chú nào cho nhập bầy con đi xem phim Kim Đồng thì tuyệt. Lan vào nhà, Cam đi họp đêm về, cái đĩa hát vô tận vẫn ra rả không ngừng.
Chính cái bà nặng ngót một tạ ấy, chiếc ghế nào bà đặt mông không gãy cũng rên ấy, đã gây nên một vụ cãi cọ khá găng giữa hai vợ chồng nạn nhân. Lan mở đầu trước:
- Bà Ất trách anh mãi. Thấy bà ấy đến là anh mắt trước mắt sau kiếm đường chuồn.
- Thì anh đã giao hẹn rồi mà. Anh sẽ chào hỏi lễ phép, pha nước, gọi vợ con ra chào, mười lăm phút sau sẽ xem đồng hồ và hối hả xin lỗi đi họp kẻo muộn giờ.
- Nói dối mãi cũng lòi đuôi...
- Em biết rõ anh đi đâu. Anh Lê Tùng treo biển trước cửa buồng “Xin lỗi, tôi đi vắng”. Tấm các-tông lật mặt chữ xanh là giả vờ vắng để yên thân làm việc, bạn rất thân như anh và em gõ cửa đúng tín hiệu ảnh mới ra mở. Mặt chữ đỏ là vắng thật.
- Bả nói anh coi khinh bả là coi khinh anh Thống, coi khinh thằng Nhứt. Em là đứa bạc bẽo, hưởng của vun đắp của chồng cũ để nuôi con chồng mới...
Cam vọt đứng dậy, chén nước trong tay chao xuống nền nhà một mớ giọt:
- Cô có thấy thế không?
- Em không thấy, mà người ngoài thấy. Bả đòi đưa thằng Nhứt về bả nuôi, em không chịu. Bả bắt anh phải lập bàn thờ anh Thống để hương hỏa giỗ quải. Em không hứa gì hết. Bả nói treo ảnh anh Thống chỉ là che miệng thế gian thôi, ít nhứt phải đặt làm bài vị, không cúng thì đưa bả đem về cúng.
- Cô trả lời thế nào?
- Em có hứa làm theo ý bả.
Cam đi qua lại trong buồng hẹp, hai tay đút túi quần. Trong túi còn sót một điếu thuốc Bông Lúa đã dúm dó, loại ba hào một gói rẻ tiền nhất. Cam lập cập đánh bốn que diêm Cầu Đuống, xấu quá, que thứ tư mới chịu cháy. Cũng thêm thì giờ để tự trấn tĩnh.
- Lan nghe đây nhé. Anh Thống khi còn sống đã chế giễu cái bà trong họ xa đến nỗi pháo 155 bắn không tới, dặn Lan đừng nghe lời cái bà cám hấp đến cái độ chồng con phải trốn xa, còn nhớ chứ?
- Nhưng bà ấy là chỗ bà con họ hàng...
- Bà con họ hàng không phải là một thứ bằng cấp được nhận từ khi sinh ra, chết đi vẫn còn giá trị. Thiếu gì kẻ ăn chơi dông dài, theo cờ bạc rượu chè chán lại theo ngụy quân ngụy quyền, sẵn sàng giết tươi những người bà con gần nhất theo Kháng chiến, kể cả anh chị em ruột. Đến lúc bí nhất, bỗng sực nhớ tói những kẻ mình đã giết hụt, cố moi ra cái tình ruột thịt máu mủ để dù xa tới mức chưa hề gặp nhau, nhờ cứu nguy không được thì chửi như Chí Phèo, đợi về sau sẽ chửi tất cả bọn cộng sản hay treo cổ cộng sản trong một cuộc bạo loạn nào đó như Hung-ga-ri. Tới đó chắc không ai trưng ra cái bằng “bà con họ hàng” mà cô thấy là thiêng liêng nữa. Anh rất quý trọng anh Thống, chính anh nhắc cô mỗi năm phải một lần tưởng niệm ảnh theo ngày sinh hay ngày mất tùy ý, và phải nhắc thằng Nhứt kính yêu ba Thống cũng như ba Cam...
Cam rót uống một cốc to chè pha loãng, nhận thấy mặt Lan khi đỏ khi tái. Lan đang cố nén cơn tức. Giận mất khôn, lại sắp cãi chày cãi cối đây. Cam cứ nói chẻ hoe ra, con đi vắng, phải dứt điểm một lần với cái bà muốn làm lãnh tụ mà không ai bầu kia:
- Làm bài vị với mua bát hương không tốn mấy, nhưng nó cũ đến mục nát rồi, chẳng ai làm thế. Bà ấy được đàng chân lân đàng đầu, sẽ bắt cả nhà chúng ta góp tiền làm giỗ, lạy trước bài vị đủ bốn lạy, bắt chúng ta coi cái bà cám hấp kiêm cường hào ấy như bà mẹ, gọi đâu chạy đấy, lo liệu cho cái gia đình bị bà ta phá cho rối tinh. Sai vặt không được thì nói xấu, thì chửi, coi chúng ta như nô lệ da vàng, bả không biết hãm phanh bao giờ đâu!
- Em không ngờ anh máy móc, khô khan, nghèo tình cảm đến thế!
- Xin cứ tự do đánh giá. Trong vụ này, có lẽ anh với anh Thống nghĩ giống nhau, cô với bà Ất hợp ý nhau. Quy tội cho nhau chẳng ích gì. Tốt nhất, anh sẽ vắng mặt mươi ngày nửa tháng để cô có thì giờ suy nghĩ. Sáng mai báo trước cho anh Tùng kê thêm giường trong căn buồng độc thân của ảnh, chiều mai anh đi.
- Anh cố lánh mặt cả em với con à?
- Đúng! Tạm ly thân ít lâu, nếu thấy không hợp nhau thì nên ký giấy ly dị. Chúng ta chưa có con chung, chẳng rắc rối gì mấy. Con nhà lính cả hai, miệng nói tay phải làm, anh không quen nói suông.
Chiều hôm sau, Lan run rẩy ra vào, trong khi Cam thu dọn về ở với ông Tùng lớp trưởng mắt lồi, cán bộ biên tập nhà xuất bản Sự thật. Áo quần chỉ đủ cho một ba-lô chữ nhật của quân đội, nhưng sách báo tài liệu phải đầy ba thùng bìa cứng, tất cả chở xích-lô, Cam đạp chiếc xe cọc cạch theo sau, không một nét xúc động khi chia tay. Lan cài cửa xong, gục đầu khóc nức nở. Hàng xóm tò mò hỏi, Cam chỉ nói qua loa: phải làm gấp một công trình nghiên cứu ở xa Hà Nội, mang theo bấy nhiêu tài liệu vẫn còn thiếu.
Sau một tuần, Lan không chịu nổi nữa. Tuy vẫn oán anh Cam khô khan máy móc, Lan vẫn đến nhà xuất bản gặp anh Tùng.
Phòng làm việc kê ba bàn của tổ anh đang vắng, anh Tùng gọi Lan lên đấy. Anh pha nước, gạt chồng bản thảo sang bên, kiên nhẫn nghe Lan kể khổ đến bốn mươi phút, chen những cơn thổn thức nghẹn lời. Anh bạn vong niên của vợ chồng Lan lặng lẽ chống cằm hút thuốc, không ngắt lúc nào, cho đến lúc Lan nhìn chiếc đồng hồ báo thức đặt trên bàn mà anh đã xoay mặt về phía Lan. “Mình nhiễm cái thói nói quên ngừng của bà Ất mất rồi”, Lan thoáng nghĩ thế.
- Lan nói hết chưa?
Câu hỏi đượm mỉa mai không cố giấu. Lan hơi đỏ mặt, lắc đầu.
- Đã muốn nghe ý kiến anh chưa? Nếu chưa, thì để hôm khác, anh đang bận, không nói tỉ mỉ như Lan được đâu.
Lan cảm thấy mặt mình nóng hơn, đỏ hơn. Mình đang bị coi rẻ, quá rõ. Một mụ đàn bà tái giá, chỉ biết chê trách, đòi hỏi, muốn đè đầu cưỡi cổ ông chồng sau rất biết điều.
- Anh cần cân nhác thêm. Tối mai anh đến nhà Lan, khoảng bảy rưỡi, được chứ?
Lan chỉ đủ sức gật đầu, đứng dậy vơ xắc tay và cầm nón. Một người tốt bụng và thẳng thắn như anh Tùng mà phải dè dặt đến thế, ắt chẳng phải chuyện lành. Trong khi mở khóa xe đạp, chợt lóe một ý nghĩ khiến Lan lạnh người: tối mai, anh Tùng sẽ đến với lá đơn ly hôn mang sẵn chữ ký của anh Cam, ghi rõ lý do là “tính nết và quan điểm khác xa nhau không thể hòa hợp”. Dù đã nén tự ái, Lan vẫn phải ký, và mất luôn đời chồng thứ hai. Bà Ất Béo sẽ thống trị nặng nề hơn, thằng Nhứt sẽ chán mẹ nó, đời chồng thứ ba sẽ làm mất hết mọi mối dây tình cảm gần xa, mất cả đứa con ghét mẹ... Lan khóa xe lại, định chạy ào lên buồng anh Tùng, mới đi mươi bước lại dừng khi nhớ cái giọng lạnh lùng mỉa mai khi chào tiễn.
Qua hai ngày một đêm nặng nề thao thức, anh Tùng đến đúng hẹn theo nếp quân sự, nay được gọi là “tác phong công nghiệp”, dù bên ngoài đang mưa dầm. Anh treo áo mưa vải bạt và mũ cối cạnh cửa, ngồi bên bàn nước và nói ngay:
- Đừng pha nước nhé. Anh nói ngắn và nói thẳng: anh đã nghe và cân nhắc lý lẽ cả hai bên, anh thấy Cam đúng và Lan sai. Ý kiến riêng thôi nhé, muốn nhận hay bỏ tùy lòng... Tất cả những ai đến gặp vợ chồng Lan đều thấy lạ: người chồng kế luôn luôn coi người chồng trước là mẫu mực, là người anh cao quý cho cả nhà noi gương. Chuyện ấy rất hiếm có. Lan vẫn chưa vừa ý, bị bà Ất xúi bẩy đến cái mức buộc chồng làm điều quái gở, quý vợ như Cam cũng phải nổi loạn. Cái kiểu quan hệ đại gia đình phong kiến quá lạc hậu kia, hai người gặp nhau lần đầu phải cùng tính sổ hàng giờ như kế toán mới biết nên gọi nhau bằng gì, và kết luận lắm khi quái ác: ông già bảy mươi gọi thằng bé mười sáu bằng bác, xưng cháu, một chị ba con bồng một đứa bé mới biết bò trên tay và dỗ: “Ơi ời để cháu ru bà trẻ ngủ nhé”. Là tại sinh vào ngành trưởng hay ngành thứ, chi trên hay chi dưới. Anh có nghiên cứu xã hội Trung Quốc thời phong kiến: quan hệ bà con của họ không tỏa rễ to nhỏ dài ngắn quá quắt đến thế đâu, dù Trung Quốc là cái gốc phong kiến của Châu Á. Châu Âu càng đơn giản hơn rất nhiều. Ý anh là thế đấy.
Lan tắc họng, dặng hắng mãi mói nói được:
- Anh... anh Cam... nhắn gì em không?
- Có. Anh ấy báo cứ để Lan cân nhắc thêm một tuần nữa, nếu thích thì mời bà Ất đến ở chung, nên nghe tiếng chuông từ các phía. Anh ấy không muốn làm lành theo kiểu gượng gạo, che giấu, trong mo ngoài đất. Nếu không ai nghe ai thì sẽ bàn với Lan làm đơn ly hôn. Tính cậu ấy đã nói là làm, anh biết.
Lại một cơn nóng đầu nữa bốc lên tận chân tóc Lan:
- Em sẵn sàng ký đơn. Chắc anh Tùng cũng thế?
- Ly hôn là do tòa án quyết định. Anh chỉ làm chứng khi kết hôn. Nhưng anh nói rõ là anh thấy quyết định của Cam không sai. Chào Lan, anh về nhé.
Lan cài chốt cửa, vào ngồi gục đầu xuống hai bàn tay ngửa. Suốt mấy năm qua, anh Tùng được vợ chồng Cam coi như người anh chồng hết sức vô tư và tốt bụng, chuyên nói tình cảm. Khi vợ anh làm y sĩ ở Hải Phòng nghỉ phép lên chơi, chị nói riêng với Lan rằng anh Tùng chỉ có lỗi là lo cho vợ con nhiều quá, lo cho mình ít quá, tuy các thứ bệnh kháng chiến còn hành hạ mãi. Chị nhờ Lan thỉnh thoảng thăm anh và khám sức khỏe qua loa, Lan là y tá quân đội chắc dễ hiểu các thứ bệnh của lính cũ.
Bây giờ, anh nói với Lan hai lần đều cứng lạnh như tảng đá hoa cương, và anh Cam cứ lù lù đi tới theo hướng mình như chiếc xe tăng hạng nặng.
Lan chịu kém ăn và mất ngủ thêm một tuần nữa, chịu đựng hai buổi lên lớp nữa của bà Ất Béo về tội thằng Cam chiếm đoạt tài sản của thằng Thống, và kinh nghiệm của đàn bà cầm cương chồng con sao cho vững. Lần đầu Lan ngắt lời bà ba bốn bận, nhẹ nhàng thôi. Lần sau thì Lan nổi loạn thật sự. Đến cuối Lan trừng mắt, gằn giọng:
- Bây giờ tôi mới thật hiểu vì sao anh Thống trước kia hay dặn tôi: giúp đỡ bà thì cứ giúp, nhưng chớ nên theo lời bà. Ảnh từ biên giới về, vợ con túng thiếu tới mấy ảnh cũng dành phần quà đến giúp bà, vì thương hại bà đông con và gia đình bà rối ren, bà lại tưởng ảnh giàu, ảnh phải triều cống bà vì một mối dây họ hàng nào đó do bà nêu ra chứ ảnh không nhớ. Bà làm mất gia đình bà chưa đủ sao, còn muốn phá quấy vợ chồng tôi nữa? Tài sản anh Thống hả? Có. Phần ảnh có nửa cái xe đạp tôi đang đi, cái tủ lưới bằng gỗ thùng phế phẩm, mấy cái ghế đẩu, ảnh về thăm nhà tự đóng lấy. Gia tài để lại cho thằng Chung bấy nhiêu, hễ bà có di chúc của ảnh thì tôi xin giao hết cho bà. Nếu không có, xin mời bà về!
Lan vào ngăn buồng trong, đóng sập cửa sau lưng, nghe tiếng bà Ất chửi rít răng, rồi các bậc gỗ bước từ sàn xuống rồi rên rỉ dưới những bước chân vốn đã nặng lại dẫm mạnh hơn lúc thường.
Lần này bà Ất không viết thư hay tìm gặp cấp trên của Cam và Lan nữa, vì biết mình đã già néo đứt dây, cũng sợ Cam và Lan phản công thẳng tay. Bà biến hẳn khỏi cuộc đời của bộ ba không ưa bà.
Vợ chồng Lan làm lành. Lan được một bài học thấm sâu.
Nhưng Cam vẫn mất thì giờ không ít, trong những trường hợp êm ả và thân thiết hơn.
Các cụ các bác hưu trí bao giờ cũng ít nhiều bị “sốc” khi chuyển từ những ngày bận việc rối mù sang cuộc sống quá nhàn rỗi. Các cụ ở miền Bắc có thể lo giúp bầy con cháu, làm việc nhà. Các cụ miền Nam tập kết khổ hơn nhiều. Đã buồn vì xa vợ con họ hàng-số có tiêu chuẩn đem vợ con theo rất hiếm, ví dụ trong quân đội phải là tiểu đoàn phó trở lên-buồn vì ngày thống nhất ngày càng lùi xa và địch khủng bố gia đình những người tập kết ngày càng ác, lại buồn hơn nữa vì cô đơn trong cảnh thiếu thốn và già yếu. Mỗi lần được báo họp đồng hương, các cụ đi rất đông, nhưng các cuộc gặp mặt chay tịnh ấy cứ thưa ra mãi vì cứ phải kể cho nhau những tin đau lòng, cùng những chuyện bực mình vây quanh.
Tìm nghề vừa sức để kiếm thêm tí chút bù vào lương hưu đã nhỏ lại teo nhỏ thêm vì hàng thiếu, giá tăng, tem phiếu chỉ đủ cầm hơi: phần lớn chỉ biết làm nông, không biết hay không làm nổi trăm thứ nghề ở thành phố. Kể ra làm ông gác cổng hay bà bán trà chén vỉa hè cũng được thôi, nhưng... nó cứ sao sao ấy. Từ ông bí thư Đảng ủy hay bà trưởng phòng tụt dốc đến đấy, lý đúng mà tình khó thông. Thà đóng cửa buồng mà tập làm hàng gia công cho mậu dịch hay hợp tác xã, đóng sổ hay dán túi ni-lông, hỏng mãi rồi cũng phải được, mệt đâu nghỉ đấy, mỗi tháng thu vào không bằng một ngày của cô bán hàng ở buồng bên, cô này phất tay lên nhờ buôn tem phiếu.
Những cụ không kiếm ra việc phụ thường kết thành tùng nhóm theo địa phương, theo nơi ở. Sáng ra, gặp nhau chỗ vỉa hè hay bãi tập thể dục, về nấu một soong cơm ăn sáng và trưa, hâm nửa phích nước nóng còn lại cho đủ sôi để pha ấm nước uống sáng bằng loại chè mậu dịch bốn hào mà cô mậu dịch bên cạnh đem về bán với giá bảy hào một gói nửa lạng, hâm luôn cái soong con có cá tép kho với dưa cải già muối chua, món mặn này được cái qua nhiều lửa càng dễ ăn bằng độ răng lung lay khấp khểnh. Nếu còn đủ dầu lửa thì trưa và tối sẽ thêm tí canh hay rau muống luộc cho dễ nuốt.
Khoảng tám hay chín giờ các bạn già sẽ đến chơi, hay mình đến nhà họ. Pha thêm chè, bày ra đĩa thuốc lá sợi, xấp giấy quấn sâu kèn, ngả bàn cờ tướng ra, thế là đủ cho một buổi tán gẫu và giải trí. Nhà nào có máy thu thanh thường được đón các bạn già nhiều nhất. Để chủ nhà khỏi thiếu thốn vì mình, các cụ thỉnh thoảng đem đến biếu một gói chè rẻ tiền hay một lạng thuốc lá sợi nâu.
Tuy vậy, các cụ gặp nhau mãi cũng chán, nghe chuyện quê hương thời chống Pháp mãi rồi thuộc lòng, những tin tức hiếm hoi về miền Nam đã cũ mòn đi. Các cụ tìm đến lớp trẻ để hỏi chuyện thời thế và dạy bảo vô số điều hay lẽ phải.
Sáu Cam được các cụ xếp vào hàng con em tập kết có chí, có tài, là một trong những bộ đội trẻ của Quảng Nam và Liên khu Năm sớm tốt nghiệp đại học, trong khi hầu hết đồng đội tập kết còn loay hoay với những lớp bổ túc cấp I hay mới vào trường Bổ túc công nông cấp II, cấp III. Các cụ gặp Cam rất ít, nhưng phần lớn đã từng đi toa xe lửa công hành của Cả Chanh hỏa xa. Ngày càng nhiều cụ đến làm quen với Cam. Theo các cụ thì cán bộ hay gì gì cũng chỉ làm việc ngày tám tiếng, buổi tối và chủ nhật là lúc nghỉ ngơi, chuyện vãn. Chẳng có luật lệ nào ép phải làm thêm hay học thêm ngoài giờ hành chính cả. Cụ nào cũng tưởng chỉ mình hay vài người nữa lâu lâu đến nói chuyện nhân tình thế thái và hưởng không khí gia đình với vợ chồng thằng Cam một buổi tối.
Cộng dồn ba chục cụ đến nhận người cùng tỉnh, bạn của anh Chanh và bà giáo Hạnh, bạn bộ đội và cơ quan của hai bên vợ chồng, cả bạn anh Thống nữa, đã xấp xỉ con số mỗi tháng một trăm khách đến nhà. Treo bảng hai màu như anh Lê Tùng không được, Cam trốn vào buồng trong cũng khó yên, Lan học lớp ban đêm bổ túc lên y sĩ đến phải bỏ học mất. Ngân sách gia đình từ giữa tháng trở đi bắt đầu rối loạn vì các bạn từ khu Tư ra hay biên giới về không đủ tiền ở nhà trọ, không thích ở trạm đón tiếp quân đội, ghé ở với hai vợ chồng vài ba ngày, và cũng nghĩ như các cụ: hàng năm mới có bạn cũ tạt vào, chúng nó chả khó khăn gì mà ngại.
Bàn đi tính lại mãi, Cam và Lan quyết định: tan tầm chiều sẽ về hối hả làm mỗi người một việc, sáu giờ mang tất cả các thứ cần cho buổi học đêm hay làm ngoài giờ, khóa cửa đi ăn cơm ở nhà ăn tập thể có bán phiếu lẻ, Lan mang theo một lọ tôm kho mặn hay muối vừng để ăn cho đủ bữa. Cơm xong, không về nhà mà chia tay luôn tại chỗ. Cam đạp xe đến nhà Lê Tùng; Lan đưa con đến gửi chị cấp dưỡng có bầy con năm đứa hay ốm vặt đã được Lan đến săn sóc lâu nay chẳng kể nửa đêm gà gáy, chị đền ơn bằng cách mua hộ con cá mớ rau mà vẫn áy náy, nay được dịp giữ hộ bé Nhứt buổi tối mới yên tâm. Lan gửi chị một chồng tranh truyện trẻ em, một bộ chữ cho lớp võ lòng chơi chung suốt tối. Lan trốn vào gian trong tí xíu của buồng y tá trực, đã kê sẵn cái bàn con bên giường chân niễng, đóng cửa ngồi học. Giờ hẹn gặp lại cả nhà là chín rưỡi.
Cam và Lan đều nghĩ thương các bạn từ xa đến áo đầy bụi và quần đẫm bùn, thương các cụ lập cập đếm bước đến chơi. Biết làm sao, khi phải làm và học thêm mỗi ngày vài ba tiếng. Lan cố tìm một chỗ nào cho chồng thức đêm trong khu bệnh viện, thì bỗng một anh bạn học cũ của Cam ở trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng được chuyển đến làm bác sĩ thực tập ở khoa Huyết học, thu xếp được cho Cam làm việc ở phòng ngoài, nơi có mùi cồn nóng và máu tanh, nhưng lắp quạt và đèn nê-ông chong suốt đêm. Cam giữ riêng một chìa khóa ngoài, không phải đạp non một cây số dưới mưa đêm đến quấy ông bạn Tùng mắt lồi nữa.
*
Những đêm mưa và tối thế này, Cam ở nhà để cùng nấu một bữa tươi gia đình và chơi với con một lúc trước khi nó ngủ lăn ra. Thằng Nhứt không chịu ăn cơm trước khi mẹ về, nó biết ba Cam xót ruột lo con đói sẽ lấy mấy cái bánh bích-quy trong tủ ra cho nó ăn tạm, thứ này làm bằng bột mì pha nhiều bột sắn khoai, cứng và nhạt, mua không cần phiếu. Ba hay quấy thêm cho nó một cốc nước chanh bằng thứ đường vàng gọi là hoa mai hay hoa mơ gì đấy. Hết bích-quy vẫn có bít-xcốt tẩm đường. Tội nghiệp thằng bé, hàng tháng chỉ được ba bốn lần ăn nửa bát phở hay bún riêu cua thay vào bát cơm tối qua hấp lại hay mấy củ khoai chấm muối vừng mỗi sáng. Được cái nó ít ốm và không đứng “chầu mồm” khi trẻ khác ăn bánh bao và uống sữa ca-cao.
Tối nay ở nhà, nó chơi xếp chữ hay tô màu tranh truyện một mình hàng giờ, mãi mới đến ôm đầu gối Cam:
- Ba chơi với con một tí nhá.
Cam giật mình, nhìn đồng hồ báo thức: đã một tiếng rưỡi anh quên bẵng nó để chim sâu vào một tập thơ nôm đã phiên âm và đánh máy, chua công bố, một anh bạn chỉ cho mượn đọc trong hai ngày và nhờ sửa lỗi đánh máy luôn thể. Cam xốc con đặt ngồi trên đùi:
- Ờ, ờ, ba thích chơi với con lắm chứ.
- Ba để con chơi mãi một mình...
- Con thấy đấy, ba bận lắm lắm, bao nhiêu là giấy là sách. Con chơi gì nào? Đua ngựa nhé, hay làm ảo thuật trên tường? À, chắc con thích chơi xếp chữ, dựng nhà?
Hỏi gì thằng bé cũng lắc đầu. Nó rỉ tai Cam như sợ bị nghe trộm:
- Ba cho con tập nấu cơm, luộc rau, hâm canh.
- Úi, con còn bé thế...
- Bên nhà bác Dự, đứa năm tuổi đã biết luộc rau hâm canh. Đứa lên sáu nấu cơm ro ro. Con chả biết gì, chúng nó cứ chế là công tử bột, ngượng lắm. Ba dạy con vài lần, con thuộc, con nấu ngon cho chúng nó nác mắt ra. Nhé ba nhé?
Nó đã lây giọng Thái lọ của bà cấp dưỡng rồi. Chẳng sao. Nhưng để cho một đứa bé sáu tuổi rưỡi mó vào lửa và nước sôi, lỡ bị bỏng thì những kẻ độc miệng sẽ rao lên là Cam hành hạ con riêng của vợ, sức mấy mà đi phân trần.
Thấy ba ngần ngừ, thằng Nhứt vòng tay ôm cổ Cam, thơm thật to vào má. Nó biết ba thích được thơm, cũng như nó. Cam thơm trả vào má con, cả hai bên, rồi hẹn chung chung:
- Hễ mẹ bằng lòng thì ba cũng bằng lòng.
- Ba bảo mẹ bằng lòng đi.
- Ồ, con bảo chứ. Việc của con cơ mà.
Thằng Nhứt phụng phịu nhưng không hờn dỗi.
Từ ngày ba Cam đến ở chung, nó bớt hờn hỗn với mẹ, chỉ còn hay vùng vằng. Với ba, nó ngoan hết sức. Ba không yêu thì nó mất đi chơi các trò ở Bách Thảo hay Thống Nhất, không được đèo xe đi xem phim thiếu nhi, không ai đi mượn sách Kim Đồng ở thư viện Hà Nội về cho nó xem tranh truyện. Mẹ bận luôn tay luôn chân, ngày làm tối học, chủ nhật đi mua hàng tem phiếu, giặt giũ, tiếp khách, sức đâu mà lo cho con được chơi.
Cam ở nhà đã gánh được hai thùng nước ở khu điều trị về để sẵn. Buổi tối là giờ cao điểm ở khu tập thể. Lắm nhà lén đun bếp điện tuy đã bị cấm, nước trong đường ống bị lấy dọc đường không đến được khu nhà viện trợ chỗ cuối dòng.
Rửa bát xong, Lan vào nhà khi Cam đã tém chăn buông màn cho con và quét dọn gần xong. Cam kể vắn tắt câu chuyện thằng Nhứt muốn tập làm bếp. Lan gạt ngay:
- Anh lo vậy là phải, trẻ con trái chứng hơi đâu mà cưng mà chiều. Miệng thế gian em không lo, mà lo nó bị bỏng nặng hay làm cháy nhà, cháy lây cả khu này mình lấy gì bồi thường?
Cam trầm ngâm một lát mới nói:
- Kể ra, hồi lên năm anh đã nấu trọn bữa cơm cho cả nhà, lũ trẻ nhà chị cấp dưỡng nay cũng thế... Hay là ta bước đầu cho nó tập đóng bếp trấu, mùn cưa, quét nhà?
- Cũng được, nhưng phải bắt nó đeo khẩu trang, làm xong nhớ rửa tay... Tối nay ai đến không anh?
- Có ba lần. Hai cậu bạn cũ anh Thống ghé thăm Lan, vội lắm không đợi được, biếu Lan chai mật ong kia kìa. Một cô nghiên cứu sinh đến phàn nàn chính sách, ba sinh viên nhờ phụ đạo, anh đều hẹn sáng mai làm việc ở trường. Các cụ không thấy đến, chắc ngại mưa.
- Với lại chúng mình tản cư đêm đã hơn tháng, khách đến vài lần không gặp cũng nản.
- Anh băn khoăn nhiều. Thôi đành chịu chửi, biết sao.
Tiếp đó hai vợ chồng cùng chúi mũi trên nhũng trang giấy in và giấy viết, ai đi ngủ trước thì người còn thức lấy báo che một góc đèn.
Thằng Nhứt tạm bằng lòng với bước tập được cho phép. Nhưng nó muốn tránh tiếng đoảng, mỗi chiều nó lễ mễ bưng cái bếp trấu xuống nền đất trước nhà, lên xách tiếp bao trấu và cái chai, đóng bếp rất kỹ trước mắt tất cả lũ trẻ trong khu, đút bếp xuống dưới sàn nhà gỗ. Rồi nó quét dọn trước sân khi có mặt bạn, bạn về mới quét trong nhà. Nó còn nói khoác rằng đã thạo làm bếp chẳng thua ai. Còn cái khẩu trang mẹ nó bắt đeo, nó chỉ đeo ở cổ chứ không chịu bịt mũi mồm.
Trong nhũng ngày ấy, Cam vẫn trầm ngâm kéo dài, rất ít nói cười. Lan đoán chồng vướng chuyện rối rắm gì ở trường, hay được tin xấu từ miền Nam gửi ra. Lan coi chồng là “con người thủy tinh” như đã thấy trong triển lãm y tế, chứa gì trong đầu trong bụng là trông rõ cả, dù anh thốt ra dịu hay xẵng, thô lỗ hay lịch thiệp. Đợi lâu quá, Lan phải hỏi:
- Anh gặp chuyện buồn phải không?
Cam giật mình:
- Không, không... gọi là vui đúng hơn... nhưng kèm một mối lo...
- Anh hay nói thẳng kia mà!
- Ừ thì thẳng. Anh đang cân nhắc. Trường anh được Liên Xô cấp mười học bổng nghiên cứu sinh trong ba năm, ở Lô-mô-nô-xốp. Khoa anh được chia hai suất, những chín người muốn đi, chẳng ai chịu nhường ai. Anh sẵn sàng nhường, tập thể không chịu. Cụ chủ nhiệm khoa cho bỏ phiếu kín để thăm dò, anh được nhiều phiếu nhất. Sáng hôm sau, cụ gọi anh lên khoa xát xà-phòng một trận:
“Đưa người đi học để lo cho dân cho nước, cho khoa học. Anh chị em bỏ phiếu thế là tinh đời đấy. Mình biết, lắm cậu đi để sống khá hơn, có thùng quà gửi về nhà, học tại chỗ thì bảo vệ luận án tại chỗ, còn mong được điểm hữu nghị, chiếu cố. Học ở Việt Nam, đi thi ở các nước xa lắc, trước một hội đồng chưa hề đến nước ta... Mà thôi, mình chỉ muốn cậu đừng từ chối bai bải như tối qua nữa. Cả chục thư gửi gắm ký tên từ thứ trưởng trở xuống, đây này!
Cụ đập tay vào một tập giấy viết nhiều nét chữ trên bàn. Anh xin một tuần để cân nhắc thêm, cụ bằng lòng...
Lan bật kêu:
- Muộn mất còn gì!
- Không. Học sinh phổ thông sang học Liên Xô phải học tiếng Nga một năm. Nghiên cứu sinh thì tùy người, vào học sau vài ba tháng hay năm sáu tháng cũng được, chỉ cần kiểm tra đủ điểm.
- Vậy đó... anh còn lo gì nữa?
- Anh lo cho Lan, cho nhà mình. Em có thai ba tháng. Thằng Nhứt ngoan đấy nhưng còn nhỏ. Đời sống ngày càng khó, em thồ hàng như tối nay trong tháng thứ ba, dễ sẩy lắm...
Lan cố nén mình mỏi không lao vào ôm ghì chồng, chỉ nói bông đùa:
- Hơi đâu lo con bò trắng răng hả anh? Em đẻ trong bệnh viện, bạn bè xúm xít, nhờ một tiếng là hai ba người chạy giúp. Anh quên em là y tá, đã một lần sanh rồi mà. Chị cấp dưỡng góa chồng, một mình nuôi năm đứa thì sao!
Cam đăm đăm nhìn khuôn mặt gầy của vợ, càng gầy thêm khi mang thai, đôi má từ màu hồng của gái một con chuyển đần sang tai tái, mấy chiếc áo đo may trước đây nay rộng hẳn ra. Cam biết vợ kín đáo nhường miếng ngon trong bữa cho chồng con, dùng đồng lương của Cam cho mình và con rất dè xẻn, giấm giúi gửi tiết kiệm mỗi tháng năm bảy đồng phòng khi cơ nhỡ.
Có lần Cam nhận nhuận bút được những hai chục, độ nửa tháng lương y tá, cao hứng đưa vợ con đi ăn một chầu phở tái và sủi cảo, cửa hàng tư. Nửa chừng Lan sực nhớ, đi xem bảng giá, quay lại hốt hoảng:
- Họ chém quá anh ạ. Sủi cảo nước là nước tính bảy hào, phở tái bò dai như quai guốc cũng tám hào!
- Ồ, ta bảo vệ sức kéo, chỉ cho thịt lứa bò già phế thải. Ăn mậu dịch thì rẻ, mà chỉ có phở lợn, phở ếch, phở cá.
- Lần sau anh muốn ăn gì, đưa tiền em làm ở nhà. Bảo đảm ngon, sạch, rẻ.
Trả tiền xong, Lan còn kéo chồng đến cửa nhìn xuống bếp: vì thiếu nước máy, cô rửa bát chỉ có bên mình một xô nước lều bều những thứ vét chưa hết trong bát, nhúng bát vào lắc một làn, đưa lên lau bằng một cái khăn đen bẩn hơn khăn lau bàn, xếp vào chồng bát sạch. Cả hai đang xem tiếp, bỗng bị một cánh cửa mở vào bên trong giập đánh sầm, suýt đập vào mặt, kèm một câu chửi tục.
Từ hôm ấy Cam không một lần khen các cửa hàng tư là nấu ngon và niềm nở nữa. Muốn khao cả bộ ba-trung bình mỗi tháng một lần-Cam đưa tiền cho vợ, thường là tí nhuận bút còm của một bài đăng báo. Cam đóng lò, bổ củi, gánh nước, nhặt rau, đi xếp hàng mua một bi-đông bia hơi, pha nước chanh cho con. Lan cố nhớ lại những cách nấu rất tuyệt đã được bà mẹ dạy cho hai chị em khi bà còn sống, nay Lan chỉ còn nhớ mang máng sau bao nhiêu năm ăn cơm bộ đội và tập thể.
Trong giới cán bộ công nhân viên, có con đi học Liên Xô hay Đông Âu coi như tăng ít nhất hai bậc lương, đi nghiên cứu sinh còn cao hơn nữa. Lan nghĩ ngay đến chuyện ấy, nhưng không dám nói. Từ khi rời giường hai tầng ở bãi Phúc Xá về ở với mẹ con Cam, anh phải lo cơm áo gạo tiền và chạy việc vặt nhiều gấp bội. Xa vợ con mấy năm, chắc anh sẽ dồn thì giờ vào nghiên cứu, dồn tiền rúp mua sách, khác xa một số sinh viên lo buôn nhiều hơn học, bóc lột cả những người rất ngại đi lùng hàng như anh Cam, đến bữa ăn chỉ gặm vài lát bánh mì kẹp dồi, mắt vẫn dán vào trang sách.
Đã lên phòng nằm, Cam vẫn vắt tay trên trán quên tắt đèn. Lan chờ mấy phút, Cam mới nói ngập ngừng:
- Trong Nam thiếu cán bộ quá chừng. Anh hy vọng họ khám lại sức khỏe... cho đi...
- Tay trái anh chỉ còn năm chục phần trăm, ai cho đi?
- Năm kia họ khám theo tiêu chuẩn lính chiến. Bây giờ anh vô có thể dạy văn hóa, viết báo, sưu tầm văn học dân gian để làm luận án... làm được chút gì đó phụ giúp với đồng chí trong Nam. Đang khi nước sôi lửa bỏng, mình ở đây mà còn thao thức “ngày Bắc đêm Nam”, huống chi bỏ đi tới chỗ yên ổn, khá giả...
- Thôi, anh ngủ đi. Còn ngày rộng tháng dài, thả sức mà đắn đo. Riêng phần em, đẻ nuôi thằng Nhứt một mình còn lóng ngóng, tới đứa em nó thì thạo nghề làm mẹ lắm rồi. Bạn em hay nói được ưu tiên số một so với chúng nó. Ngủ đi, chóng ngoan!
Lan thức dậy lúc một giờ sáng như lệ thường, ra buồng ngoài đánh thức con dậy đái vào bô, nó thỉnh thoảng vẫn còn đái dầm. Cam cũng lồm ngồm ngồi dậy, châm một điếu thuốc, đêm nay anh hút đến điếu thứ ba rồi.
Không muốn nhắc nhở chuyện hút thuốc, Lan chỉ chêm thêm một ý mới nảy ra trước khi ngủ thiếp:
- Anh tính thêm coi. Sau ngày giải phóng, ai sẽ giảng văn học kháng chiến trong các trường miền Nam? Chắc phải nhờ các vị học ở Âu Mỹ về, nói tiếng Việt như “ông Tây An Nam” trong vở kịch xưa anh cho mượn đọc đó, nhắc tới văn học cách mạng là bĩu môi hay tròn mắt: “Cách mạng mà cũng có văn học à?”. Tới đó anh mới cáp sách trở về trường, lo học ôn chưa kịp, nói chi đến luận văn luận án!
Hết một tuần, Cam mới trả lời chủ nhiệm khoa, nhận đi nghiên cứu sinh. Ông chủ nhiệm bộ môn tham công tiếc việc muốn giữ Cam lại nhưng chỉ có thể than thở bóng gió và đi tìm trợ lý khác thay Cam. Thay rất khó, vì số cán bộ và bộ đội tập kết tốt nghiệp ngành Ngữ văn đã ít lại không thích về trường, nơi vừa nghèo vừa hay rối.
Lớp bổ túc tiếng Nga mở trên đường vào Hà Đông, gần khu Cao-xà-lá, gọi tắt ba xí nghiệp cao-su, xà-phòng, thuốc lá cùng các nhà ở kèm theo. Cam chỉ đến học mấy buổi đầu rồi xin học tại chức, vì trình độ cao hơn nhiều so với học sinh phổ thông rất kém ngoại ngữ, dẫm chân tại chỗ mãi với xát là vườn, đom là nhà. Thầy giáo đọc lá đơn viết bằng tiếng Nga của Cam, chỉ sửa hai chỗ sai biến cách (nỗi khiếp sợ của người học tiếng Nga), ghi dưới: Ya xô-gla-xen (tôi đồng ý). Anh này trẻ hơn Cam ba tuổi và đã biết tiếng Cam từ trước.
Cam vẫn đến trường, giúp thầy chủ nhiệm bộ môn một ít trong khi chưa có người thay, thường tìm chỗ vắng mở bộ đĩa kèm sách dạy tiếng Nga ra tập phát âm, các bạn dạy Nga văn ở trường cũng đến tập cho đối thoại. Cam dần dà bỏ thói quen nghĩ bằng tiếng Việt rồi tự dịch trong đầu ra tiếng Nga, luyện cho mình nghĩ bằng tiếng Nga, cho các ý hiện hình trong đầu với thân hình và áo quần Nga trước khi tuôn ra ngoài.
Mỗi lần kiểm tra định kỳ nửa tháng, có dịch xuôi, dịch ngược, hỏi ngữ pháp, đối thoại thầy trò, Cam lại khiến cả lớp ngạc nhiên và thích thú. Kiểm tra viết quy định hai tiếng, thường phải kéo dài ra hai tiếng rưỡi hay ba tiếng, riêng Cam chỉ cần vài chục phút đã nộp bài và nhận điểm cao nhất. Giờ đối thoại hơi buồn cười: thầy cao hứng hỏi những điều rất xa chương trình, Cam trả lời vẫn lưu loát và khá chuẩn. Lứa trẻ từ phổ thông lên kính phục đã đành, các bạn nghiên cứu sinh khác cũng sửng sốt: “Cậu ta học bao giờ mà tài thế!” Rất nhiều lần các em trẻ đứng lên đề nghị hai thầy đối thoại thật lâu để chúng em quen nghe nhiều giọng. Cam đùa luôn bằng tiếng Nga: “Và để rút ngắn số phút kiểm tra miệng của các bạn chứ gì?”. Chỉ có vài nghiên cứu sinh hiểu và bật cười, còn cả lớp ngơ ngác.
Bởi phải tốn rất ít thì giờ cho tiếng Nga nhưng vẫn phải đợi cùng đi chung đợt, bộ môn đã có trợ lý khác thay Cam, Cam lao vào săn lùng văn học dân gian miền Nam, kiếm tư liệu cho luận án sẽ viết tại Liên Xô. Trường đại học không chi tiền sau khi chuyển lương sang chế độ lưu học sinh, Cam phải tự xoay xở lấy. Ông Mạnh Thường Quân của Cam là anh Năm Chò đã vào Nam, Cam phải tự túc khoản này, đi tìm gặp anh chị em tập kết. Cụ chủ nhiệm khoa tốt bụng chỉ có thể giúp Cam bàng giấy giới thiệu, mặc cho ông phó can mãi là sai nguyên tắc. Các cụ hưu giúp được rất ít: nói chính trị mãi rồi cũng bị méo mó nghề nghiệp, rất ít cụ còn nhớ tục ngữ, cao dao, dân ca. Cam phải đạp xe đi rất nhiều nơi chung quanh Hà Nội, tìm cho ra những ông bà sống gân suốt đời ở nông thôn, góp nhóp mỗi nơi một tí. Được nhiều nhất là khi gặp các bà ít chữ, cấy hái ở làng và tập kết theo chồng con làm cán bộ. Hết gần đến xa, Cam tìm về các nông trường miền Nam, ghi đêm này qua đêm khác bên các ông bà từ trung niên đến phụ lão. Tiền tiết kiệm vơi dần trong những chuyến đi xa ấy, trong khi số vở ghi tăng lên mãi.
Lan nắm tất cả tiền lương của hai vợ chồng, chỉ đưa lại ruột ít cho chồng tiêu vặt. Rất may là được ở trong khu tập thể, tiền nhà, tiền điện, nước trừ vào lương rất nhẹ, nên Lan chắt bóp gửi tiết kiệm mỗi tháng được năm bảy đồng. Số bạn gần xa, hay chỉ người quen sơ sài thôi, suốt mấy năm thường vay Cam rồi chày bửa không trả, đều bị Lan chặn lại không cho vay tiếp, nói nhẹ nhưng dứt khoát thay cho ông chồng rất cả nể và đãng trí khi cho vay hay cho mượn sách vở, đồ dùng.
Khi tiền tiết kiệm từ một trăm sáu tụt xuống tới dưới năm chục, Lan mới báo cho chồng biết. Cam lâu nay chỉ biết chìa tay hỏi tiền, lúc này trố mắt, gãi bộ râu quai nón tua tủa chung quanh cái cằm chẻ đôi, bật cười:
- Mất khá tiền, nhưng được mấy trăm trang tư liệu mang theo làm vốn đây. Qua mấy chuyến đi, anh khai thác về Liên khu Năm với Nam Bộ đã tàm tạm. Tạp chí Nghiên cứu văn học mới đăng bài của anh về ca dao Quảng Nam, chắc cũng được vài chục. Để anh đi lấy.
Cam bơm xe, đạp xe Thống Nhất cọc cạch ra đi. Trưa Lan về, thấy Cam đang ngồi viết với xấp giấy bạc năm đồng chặn hòn cuội trên bàn. Cam hí hửng rất trẻ con:
- Họ chi rất khá, bốn chục đấy, ông tổng biên tập còn gạ anh viết luôn một xê-ri bài nữa, anh chưa dám hứa. Ông nói bài mới ra đã được giới nghiên cứu đánh giá cao, nhuận bút tăng thêm một chục nữa cho xứng công sức tác giả.
- Anh viết ba ngày đêm bàng em làm cả tháng...
- Ba ngày cộng với hàng chục năm chiến đấu, học hành, moi tiền tiết kiệm đi ngao du tứ xứ...
Cam không nói tiếp được vì Lan đã cúi xuống ôm ghì chồng, ép má mình bịt miệng chồng, thì thào:
- Chào thua ông quỷ sứ từ lâu rồi mà.
Cam vòng tay qua vai vợ, hôn thật kêu như khi thơm thằng Nhứt. Cũng chính lúc ấy thằng Nhứt từ lớp vỡ lòng về, xô cửa vào, bật cười rúc rích:
- Ô kìa, ba cũng thơm cả mẹ nữa!
Vợ chồng luống cuống rời nhau. Lan đi thu xếp cơm trưa với mặt đỏ bừng, mắt lóng lánh ướt. Cam chìa hai tay đón con, nó trịnh trọng nói theo lệ thường: “Con chào ba, con chào mẹ”. Cam đáp: “Ba chào con”. Lệ ấy do Cam đặt ra, thay cho những câu phủ đầu đốp chát mà Lan cũng quen nói như các bà mẹ khác đợi con về để kể tội đánh bạn hay hỗn với cô giáo.
Thơm nhau mỗi bên đủ hai bên má, Nhứt lại vặn:
- Mẹ lớn thế mà ba cũng thơm như trẻ con à?
- Ờ, ờ… mẹ bảo ba thơm con chưa to, ba phải tập...
- Tại mẹ chủ quan... Ba xem sổ liên lạc. Các điểm học tập đều trên trung bình. Khuyết điểm hay chòng bạn giảm một phần. Tật nói chuyện trong giờ học chưa sửa chữa được mấy.
Cơm xong, thằng bé không ngủ trưa, chạy xuống sân chơi với lũ bạn, thường là bi hay đánh quay. Cam chỉ giữ lại mười đồng, còn đưa hết cho Lan:
- Anh đi Phủ Lý chuyến nữa thôi, gặp một đơn vị Trị Thiên-Huế, nhiều nhất ba ngày. Sau đó là chúi vào thư viện quốc gia lùng sách cũ, phòng sách tham khảo mới có. Số vốn tư liệu trực tiếp đã hòm hòm rồi đấy.
- Anh định mua gì mang sang Liên Xô?
- Mua gì? Áo quần ấm được cấp, va-li cũng thế. Sang bên kia có học bổng rồi.
- Mấy chị ở đây bày cho em mua các thứ đồ mỹ nghệ, sang đấy bán kiếm ngoại tệ được khá lắm, mua hàng công nghiệp gửi về lại lãi thêm lần thứ hai.
- Quái, anh đi nghiên cứu chứ có đi buôn đâu! Hay là anh ngồi xổm trên vỉa hè Mátxcơva, đặt một chồng giỏ mây giỏ cói, bày một mớ rèm tre với sơn mài Đồng Xuân, mời chào khách qua đường dẻo như kẹo kéo?
Lan biết lặng im đúng lúc. Mình sẽ gửi tất cả cho vài cô bạn ở Mátxcơva, nhờ tiêu thụ hộ, bảo anh Cam là quà biếu nhiều nơi nhờ bạn phân phối, ảnh mới chịu mang theo. Khó, người đâu mà thiếu đầu óc thực tế đến thế!