Chương 13
Cả Chanh vẫn chưa nhận ra giờ này là sáng hay chiều. Anh chỉ thấy một lớp sương mù đậm đặc trắng pha vàng, với những quả bóng đỏ xanh tím bay nhởn nhơ gượng đưa tay lên dụi mắt, vẫn nguyên những màu sắc cũ. Chống cả hai tay xuống sạp tre mục, cố ngồi lên, anh không nhấc nổi cái đầu, nó quá nặng.
Dường như khối thủy ngân nằm im trong đầu anh bắt đầu rung rinh sau những cố gắng ấy. Anh nhỏ dần từ gần đến xa, hẹp đến rộng.
Cô Tơ-bon, em đồng chí Tơ-rin, tìm thấy Chanh nằm mê man bên bờ suối, đã dìu anh đến cái chòi cũ này, nấu cho anh một ống tre nước lá mâm xôi, một nồi sắn, trước khi đi bắt liên lạc với đội du kích và những ai sống sót sau trận tập kích vào cơ quan huyện ủy. Cô đi đã ba ngày chưa thấy về. Có thể bị bắt đâu đó. Đội du kích làng Blam và Blin cũng chẳng thấy đâu.
Xuân năm ngoái, trận càn lớn “tát nước bắt cá” đã lùa dân các làng Thượng mé trên sông Linh xuống làng định cư Linh Sơn kẹp giữa các đồn bót và các thôn xóm di cư. Đội du kích làng Blam còn 12 người, chỉ sau mấy ngày đã móc nối được với bà con đang dựng ấp chiến lược, mượn cớ vào rừng lấy tre gỗ để đem gạo muối cho du kích. Lảng vảng quanh các làng rút vào bí mật mà địch với tay không tới, chỉ khổ vì thiếu muối, sắt, vải. Hai cán bộ thôn bỏ cuộc, đem vợ con nhập vào làng nào có họ hàng nhiều, dựng lều phát rẫy, coi như mãn mùa cách mạng.
Cái chòi bí mật này là của du kích làng Blin, nằm kín trong những lùm mua và sim gần con suối nhỏ. Họ chỉ dám xuống “trung châu” tới đó, cách thôn Linh Sơn chừng bốn giờ leo dốc và lội ngược suối. Nồi, củi, gạo giấu trong một hốc đá còn kín hơn. Cô Tơ-bon biết chỗ vì nhiều lần tới liên lạc, lần này không gặp ai, không tìm ra gạo, chỉ hối hả mót trong một rẫy cũ được một ít sắn lưu niên đầy xơ để nấu cho anh bí thư tỉnh ủy.
Những bước vùn vụt đi lên sau ngày Diệm đổ đã gây một cơn bốc đồng mới. Các rào ấp chiến lược cháy suốt đêm, dân phá đồn trở về ngày càng nhiều, tề điệp co lại, ác ôn mới xế chiều đã lên đồn ngủ nhờ. Tiếp tới cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh nữa, cán bộ và du kích Tây Quảng đã bốc lại càng bốc. “Quyết chống chần chừ do dự, không bỏ lỡ thời cơ”. Các chỉ thị của liên khu nhắc mãi “tiến công mặt trước, giữ vững mặt sau”, bị quên vế thứ hai. Kéo hết xuống đồng bằng, đánh rốc một chiến dịch lấy hết nông thôn đồng bằng, chỗ nào chưa đánh trốc được thì vây đồn bắn tỉa, giam đói giam khát, buộc ra hàng.
Huyện ủy Tây Quảng đã thông qua một nghị quyết giống lời Hịch tổng phản công như thế trong cuộc họp say sưa. Đồng chí Tơ-rin cũng tán thành. Thọc sâu xuống đồng bằng là giải vây cho miền núi đang khốn đốn vì địch cố chặn nguồn tiếp tế, một con gà mái ấp chỉ đổi được hai thìa muối, một heo choai mới được một lưỡi rựa sắt non.
Các đồng chí trong huyện ủy đều kéo xuống đồng bằng, dù tự nguyện hay miễn cưỡng, dù đi cuối hay đi đầu các đội võ trang công tác. Cả đám y tá, thư ký, in li-tô, liên trinh, bảo vệ đều đi tiến công mở ra. Chỉ còn lại ở cơ quan huyện ủy Tây Quảng một phó bí thư đang sốt rét nặng, chị nấu ăn, cậu tiếp phẩm khỏe mạnh chuyên đi cõng lúa “đảm phụ giải phóng” và xay giã rất khuya, xong lại xuống trạm tiếp tế mật cõng muối về, đôi khi được thêm vài hộp vị tinh hay một bình mắm cô.
Tháng ba năm nay, 1964, bùng ra trận càn lớn gấp bội năm ngoái vào “mật khu Đỗ Xá” của liên khu 5, kèm theo cuộc càn ác liệt vào miền Tây của các huyện Tây Quảng, Trà Mi, Tam Kỳ. Địch chặn dưới, khóa trên, cho Việt Cộng hết chỗ chạy, quyết bắt trụm cả các bộ máy của khu và tỉnh. Bắt về khai thác được là tốt nhất, chặt đầu mang về là nhì, cùng lắm là xua vào chỗ chết bệnh, chết đói, chết vì chất độc hóa học rải khắp nơi.
Cả Chanh về Tây Quảng mươi ngày sau khi địch đánh lớn, thọc sâu. Cơ quan huyện dời xuống ở hẳn trong làng Linh Trung được giải phóng mùa thu năm ngoái, bị bom mảnh bom lửa rất nặng, phải bật lên rừng cách vài cây số, chỉ để lại vài giao liên bám làng, giữ các mối dây dưới lên và trên xuống.
Các thôn xã giải phóng xa chỗ trọng điểm càn không bị hại nhiều, còn nhân lúc địch gom quân mà lấn tới làm chủ nhiều nơi. Cộng cả vùng đồng bằng và ven biển của ba huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình, có mười bảy xã liên tiếp khởi nghĩa “hoa nở trong lòng”, áng chừng địch chỉ líp lại được một nửa. Tam Kỳ giữ được vùng giải phóng nhưng tiến công chậm. Tiên Phước dựa vào bộ đội tỉnh hơi nặng, du kích và bộ đội huyện yếu, dù sao cũng giữ nổi phần lớn bốn xã trung du bị lấn chiếm cuối năm ngoái. Tây Quảng đang là cái lá chắn cản địch từ đồng bằng cố lên hợp quân với các tiểu đoàn lính dù và biệt động được vô số trực thăng trút xuống Đỗ Xá, sục khắp núi rừng tìm diệt các cơ quan thuộc liên khu.
“Bí thư phải có mặt chỗ gay go nhứt”. Anh Tô Xáng hay nhắc vậy, Chanh cũng ghi nhớ vậy. Giao công việc của tỉnh ủy cho phó bí thư và các đồng chí khác xong, anh ra đi theo thứ tự nối đuôi xưa nay: con Dồ trước xa, cậu giao liên Thượng cầm ná và đeo lựu đạn, cậu bảo vệ mang tiểu liên Tuyn cải tiến đã rút báng và đựng băng kèm ba lựu đạn chày từ miền Bắc đưa vào-thứ này ném được xa hơn nhiều so với các loại da láng da khía của Mỹ. Đến Cả Chanh, đã cạo râu và tạm trút lớp vỏ cụ Thượng từ khi cách mạng tràn xuống đồng bằng. Anh len lỏi giữa các ấp chiến lược, các đồn và cánh quân phục kích, lách qua các trận càn, và gặp may hơn anh Tô Xáng là chưa hề dính đạn, dù xuống tận mép, sóng biển hay luồn tới ngoại ô các thị xã.
Đến huyện ủy Tây Quảng, Chanh không bằng lòng ngay từ đầu. Cơ quan đóng trong một trại huấn luyện tân binh khá rộng, có cả sân bóng chuyền, đường ra vào băng qua đồi tranh rất lộ liễu. Lúc này có tới gần hai chục đội viên võ trang công tác và cán bộ các ngành các xã bị bật lên núi. Đã chạy tránh giặc mà còn làm phách, họ cứ đốt lửa thả giàn, vãi súng đạn đồ đạc lung tung, mở đài oang oang tỏ ý chẳng biết sợ là gì. Ai nhắc cảnh giác thì họ xì xịt, bĩu môi, cười khẩy. Ở đâu cũng có những người như thế: cán bộ bỏ dân mà chạy vẫn làm bộ coi giặc rất xoàng, bộ đội mất tinh thần rút lui vẫn cố đánh thằng tù binh vài cái tát để tỏ ra căm thù đế quốc, tất cả đều theo kiểu rẻ tiền nhất. Ngay trong tỉnh ủy cũng có vài người như thế: hò hét tiến công và tiến công, tiếp đó ép tay trên ngực ho khan để các đồng chí hiểu cho mình ốm yếu, rất tiếc không lao vào khói lửa được.
Chanh khuyên họ làm như bộ đội đánh đồn hay phục kích: giấu mình thì giấu hết sức kín, “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, khi nổ súng thì long trời lở đất. Vây vo như nơi này, ích gì?
Anh phó bí thư ốm khặc khừ. Cậu chánh văn phòng, chỉ quen nếp bàn giấy, cho giao liên cõng tài liệu mật ra giấu kho mật. Số tản cư lên núi được lệnh về bám dân, chỉ bám từ nửa đêm đến một hai giờ sáng, đủ thì giờ để ăn đẫy và xin gạo muối cõng về.
Đồng chí bảo vệ có mang theo một bộ câu cắm, vài chục que tre già vót nhỏ và mềm, nối nhau bằng sợi cước dài phồng cá to đớp lôi bật cần câu. Cậu ta đi mốc mồi cắm câu lúc sẩm tối, trong đêm đi gỡ cá thay mồi hai lần, Chanh nhận gỡ cá lúc mờ sáng vì quen dậy theo vượn hú. Mỗi đêm được vài cân cá, nấu với rau ranh hay măng cũng đỡ háo.
Sáng hôm thứ ba Chanh đến, anh ra suối với con Dồ, đến chỗ vũng suối dài cách cơ quan nửa cây số. Hôm nay trúng khá, phần lớn các cần câu đều trĩu ngọn, rung rinh.
Trời mới hưng hửng sáng, anh đã lấy được nửa giỏ, chừng hai cân, còn lấy tiếp. Tiếng súng đủ loại chợt nổ rầm rầm phía cơ quan, chen rất nhiều tiếng lựu đạn và tiếng súng phóng lựu M.79 nhỏ hơn. Mươi phút sau, tiếng súng thưa bớt và tản rộng hơn: địch lùng những người sống sót. Rồi dậy to dần tiếng trực thăng bay tới. Chanh nép gốc cây, ngửng xem: bốn tốp H.34 đến rời nhau, mười hai chiếc. Nhiều luồng khói xanh chỗ đồi tranh phụt lên đón. Từng hai tốp một, các H.34 xuống đứng, trong khi hai chiếc trực thăng phản lực vòng ra xa, xối đạn chung quanh đám cháy khu trại cơ quan, bắn dai như trâu đái cuối buổi cày. Một loạt đạn quét trúng chỗ anh núp, nhưng thân cây to che đỡ được, vẫn nghi gì đấy, cặp HU.1A còn phóng thêm vài chục rốc-két vào những chỗ cây rậm. Cánh quân rằn ri nối nhau lên trực thăng.
Một giờ sau, đợi tiếng súng và trực thăng hết hẳn, Chanh mới lò dò trở về cơ quan huyện. Con Dồ chạy trước, ngửi mùi nước đái mà nó chuyên ghếch chân són mỗi quãng một tí dù đi đường quen.
Nó bỗng thụp bốn chân, gừ gừ rất khẽ trước một mớ lá khô bốc mùi địch. Chanh luồn tới quét lá, tìm thấy một quả mìn Gíp vỏ nhựa, nổ đủ phá chân. Địch càn, thường để đi cuối một nhóm công binh gài mìn: một tên cầm vồ nện xuống đất, để lại một lỗ vừa khít quả mìn xanh lá giống một lát bánh tày hay bánh tét nhỏ, hất một ít lá phủ trên là xong. Địch đã khám phá ra: một Việt Cộng chết ít gây bối rối vì chỉ cần đồng đội khiêng đi chôn và truy điệu, một VC toác chân đến gối sẽ phải khiêng leo núi khá xa đến bệnh xá-ba người thay nhau khiêng, bốn người mans súng và ba-lô gấp đôi, sau đó, phải cưa cắt và điều trị lâu, phải được khiêng ra tận miền Bắc để làm chân giả vì không thể chống nạng trèo dốc. Chúng biết nghiêm lệnh của VC là không được bỏ thương binh liệt sĩ.
Xem dấu giày, Chanh đoán bọn biệt động này chừng một đại đội, luồn trong rừng rậm mé sau khu trại đánh úp. Anh chị em ngủ không gác, chạy túa ra mặt trước, vượt rèm cây mỏng là gặp đồi tranh còi, tha hồ hứng đạn vào gáy vào lưng. Nếu con Dồ rất tỉnh ngủ không bám theo anh đi gỡ cá, hẳn nó nghe tiếng và ngửi mùi lạ, đã sủa báo động đủ cho một số kịp chạy hay bắn trả.
Địch đã thu hết xác và giải sổ bị thương, bị bắt về làm triển lãm trong “lễ chiến thắng”. Rất nhiều dấu máu rải từ bãi tro bốc khối ra đồi. Chanh vẫn kiên nhẫn quét chổi lá dò mìn, tìm xem có ai bị thương lọt vào bụi rậm khuất mát địch chăng.
- Giơ tay lên!
- Bắt sống Việt Cộng... bắt sống...
- Biệt động, sááát!
Khẩu súng ngắn ba nòng vẫn cầm trên tay, Chanh nhào xuống khúc hào vài chục thước mà trường tân binh đào để tránh máy bay, cũng để tập đánh địch dưới hào luôn, cỏ và tranh mọc hai bên rủ xuống che gần kín miệng. Anh cúi thật thấp, chạy luồn dưới lớp che khuất.
- Báo cáo thượng sĩ, có hầm bí mật!
- Nó độn thổ rồi...
- Dở như cứt! Lựu đạn, Em-bảy-chín, cả trái khói nữa, dộng hết xuống!
Một loạt tiếng nổ to nhỏ bùng sau lưng Chanh. Con hào chạy chữ chi, các thứ mảnh không đến lưng anh được. Nhưng hào chỉ dài hơn hai chục thước. Anh thở vài hơi đỡ mệt, rướn đầu lên thật êm tìm đường thoát. Con Dồ hổn hển sau lưng anh, rên khẽ. Nó không nhảy cao được một thước sáu để lên mặt đất, trong khi anh có thể dùng cả tay chân để vượt con hào hẹp. Nhân khi bọn lính ném lựu đạn và trái khói xối xả xuống chỗ anh nhảy xuống khiến chúng cũng bị khói khó thở và che mắt, anh rút dao găm đeo dưới áo bà ba ra, khoét vội hai hàm ếch để đạp chân nhảy.
Anh xốc con Dồ ném gọn lên mặt đất, vọt theo lập tức. Mấy tên đứng ngoài rìa chỗ khói kêu hoảng trong khi kéo khóa nòng tiểu liên:
- Nó, nó kia, nó chạy! Báo cáo...
- Bắn, bắn gấp! Đồ chó, nổ đi chớ!
Chỉ hai tên kịp nổ súng, bọn ở chỗ “hầm bí mật”. Sợ trúng số này, cũng chưa kịp thấy gì, chỉ xách súng chạy nhào tới. Chanh và con Dồ đã kịp nép sau bạnh vè một cây to. Chanh đủ bình tĩnh để quỳ bắn trả hết cả ba phát trước khi chạy tiếp trong chỗ rậm. Sau lưng anh súng vẫn quét tơi bời sau những tiếng kêu thét của bọn trúng đạn. Lâu nay vẫn thế, hễ biết Việt Cộng có thể bắn trả là chẳng đứa nào vọt lên trước: dại gì chết uổng cho đứa khác lãnh thưởng!
Chạy chừng trăm thước, Chanh thấy nóng rát ở đùi, ống quần bết vào chân. Anh dừng, cúi xem, thấy máu chảy xuống khá nhiều. Có tiếng trực thăng, hai chiếc chở quân H.34 và một chiếc võ trang, quần một vòng rồi đáp xuống đồi tranh. Anh đã quên bẵng thói quân ngụy: càn đường bộ hay đường không, chúng quen gài lại một bộ phận về sau, để diệt những VC đến cứu hay chạy lạc trở về chỗ cũ, và các loại mìn sẽ thanh toán những kẻ sống sót. Thỉnh thoảng có bộ phận gài như thế bị lộ, bị diệt, nhưng đấy là số ít, vài ba chục đứa thôi, thường không được nhắc tới nữa. Số cố vấn Mỹ tăng đến trên hai chục ngàn, cả một đạo quân cố vấn, có vô vàn thứ chiến cụ mới đi kèm, tha hồ mà nghĩ ra lắm trò trong cuộc “chiến tranh thí nghiệm” dùng bọn gook làm súc vật mổ xẻ. Chanh được một đồng chí địch vận cho biết từ khinh miệt ấy chỉ người Việt ta, chẳng trừ ai.
Chanh đi chừng vài trăm bước nữa thì chân phải bị chuột rút đau buốt, đầu bung bung, mắt hoa. Anh nép vào bụi sim to, nghỉ và băng. Trong túi tài liệu của anh luôn có bốn thứ phòng thân: một cuộn bông băng có ống thuốc sát trùng của Mỹ, vài chục viên clô-rô-kin Mỹ chặn sốt rét, một túi muối hầm để ăn kiêng khi đau dạ dày, một ve cao lôông tơ-uyn có tính kháng sinh do bệnh xá biếu.
Phải rửa trước đã. Đây vắng nước. Chanh nhắm hướng bò xuống chỗ thấp, kéo theo cái chân bị chuột rút co quắp. Đầu thấp chân cao, tuột dài từng lúc chỗ đất chài, Chanh đến một quãng suối còn nước ri rỉ. Choáng váng quá mất. Anh chỉ đủ sức mở túi muối, xát một nhúm vào chỗ quân bà ba rách che vết đạn xé thịt, ngất lịm luôn. Hình như lúc ấy gần trưa tròn bóng.
Anh được cô Tơ-bon dìu về căn lều bên suối Blin, nửa tỉnh nửa mê sau đợt mất máu. Hình như anh có bảo Tơ-bon xắn ống quần lên cao, hòa nước muối rửa vết thương, bôi cao lôông tơ-uyn, băng lại, đi báo cho anh Tơ-rin và cho chị Thùy vợ anh. Suốt mấy ngày qua Tơ-bon không quay lại.
Vết thương tấy ít nhưng vẫn gây sốt. Nhân đó, các chứng cũ cùng một lần “đồng khởi”. Sốt rét, dạ dày, thấp khớp xúm quật nhào Chanh đến độ cùng kiệt, hấp hối. Giữa hai cơn sốt, anh chỉ đủ sức gượng dậy, lật bật uống chút nước nồng mùi ống tre, lại nằm vật xuống sạp tre đã mục ngả đen và nổi mốc. Nước hết, anh định xuống suối, nhưng xương ống chân như đâm lút vào bàn chân, nhức đến kêu trời. Anh đeo ống tre ngang cổ, bò bốn chân đi kiếm nước.
“Phen này mình chết. Chắc chết. Hãy đốt tài liệu mật, vùi súng, gượng viết mấy chữ cài trên ngực trước khi quá muộn, để đơn vị biết tên và nơi báo tử. Hãy làm như rất nhiều đồng chí khác đã lặng lẽ trút hơi thở trên khắp chiến trường Đông Dương mấy chục năm qua, chôn khắp các rùng núi trước ngày toàn thắng.
Từ chỗ nằm xuống suối chỉ ba chục thước. Chanh bò xuống mất chừng hai chục phút, vục mặt xuống uống mãi không muốn ngừng. Anh vỗ vào miệng viên clô-rô-kin cuối cùng, lại uống. Rồi anh vội vã lật ngửa người, đưa tay bịt miệng bóp mũi, nuốt khan dồn dập, cố chặn cơn buồn nôn đang đẩy viên thuốc chòi lên tận mồm. Hình như sốt rét đã bị đẩy lùi, trưa nay không thấy lên cơn.
Con Dồ đói nhưng không rời chủ. Chỉ khi Chanh nằm thiếp, nó mới rón rén dạo kiếm ăn chung quanh lều, cũng để gác luôn thể. Là chó săn nòi lai chó giữ làng Thượng, nó quen tự kiếm ăn trong rừng. Tuy bom đạn đã xua chim thú dạt lên núi cao hơn, nó vẫn chộp được chuột rừng, sóc từ các cành xơ xác mò xuống đất kiếm ăn. Nó vồ được cả bìm bịp nâu đen, những con chim đớp muỗi lông xám đốm trắng ngủ suốt ngày trong chỗ rậm gai chờ mặt trời lặn. Một lần bí mồi, nó ăn cả những con cuốn chiếu to tướng. Được con gì, nó tha ngay về ăn trước lều để trông chừng. Mỗi lúc tỉnh, ông chủ gọi nó vào bên chỗ nằm, chậm chạp sờ nhổ cho nó những cây gai cắm từ đầu đến mông mà nó không tự nhổ được, bôi cho nó tí cồn i-ốt vào chỗ sây sát chảy máu khiến nó rát đến phát rên.
Bò được đến lều với ống nước kéo lê theo, Chanh trườn lên sạp nằm thở, nghĩ dài dài, soát lại ý định chống giặc.
Dứt khoát chưa đốt tài liệu, chôn súng. Đội du kích Blin để lại trong lều cả một bó cây thông nhựa-vùng này gọi là cây ngo-chẻ ra thanh nhỏ và dài, dùng đi đêm. Chanh đã tháo cả bó ra lót dưới túi dết tài liệu, đặt cái bật lửa và hộp diêm tình cờ sót túi lên trên. Thứ ngo này bén lửa rất nhậy. Cây súng ngắn ba nòng để đầu sạp, qườ tay phải là đụng. Đạn dự trữ đặt trong cái soong thủng, đậy vung. Hễ có động, Chanh sẽ chụp súng lăn xuống đất, bắn trả ngay, đủ thì giờ thì lắp đạn bắn tiếp. Dùng toàn đạn ria hột tấm cho vãi rộng, nòng dưới bắn đạn trường Anh sẽ cố nhằm vào thằng chỉ huy, nếu có thể. Gặp bước đường cùng thì quẹt cả nắm diêm ném vào đống ngo, thả súng vào đấy. Tờ giấy cài ngực đã viết xong, nét qườ quạng: “Nhờ liên lạc trạm H.27 báo tin N.14 đã chiến đấu và hy sinh”. Nếu anh chết luôn trong một cơn sốt ác tính và địch lấy được xác cùng tài liệu thì sao? Anh tính kỹ, thấy mình không thể sốt ác tính đến chết được, vì đã nuôi ký sinh trùng ma-la-ria trong máu những hai giáp, hăm bốn năm, kể từ ngày bị Pháp bắt đưa lên căng và nhà tù trên Kon-tum, chẳng phải như số trẻ từ đồng bằng lên hay miền Bắc mới vào.
Chanh nghĩ dông dài trong những ngày đêm bị các bệnh và đói khát hành hạ, để xua luôn đi nỗi ám ảnh muốn tự sát.
Nạn đầu thú đi kèm nạn tự sát của các đồng chí trung kiên mất lòng tin ở thắng lợi. Nghị quyết chống tự sát của tỉnh ủy có ngăn cản phần nào nhưng không chấm dứt hẳn được những bi kịch như thế. Những đồng chí quá kiệt quệ về sức khỏe và tinh thần được đưa ra miền Bắc theo đường núi, lúc này còn được gọi lẫn lộn là đường Thống Nhứt, đường Hồ Chí Minh, đường 559. Người khỏe đi dưới hai tháng, người yếu chống gậy leo dốc xấp xỉ ba tháng tuy giao liên đã mang hộ gạo và bao lưng. Người cụt chân phải khiêng thì xuống chống nạng đi bộ khi gặp quãng đường bằng, được khiêng chỗ khó trèo. Qua khỏi đường Chín, họ thường được thồ bằng xe đạp của các đội vận tải, khi ra không chở hàng, đến Quảng Bình sẽ được ô-tô đón. Số vụ tự sát xuống còn rất ít, rồi hết hẳn. Nạn đào ngũ giảm nhiều nhưng vẫn còn. Trong đám cán bộ đã từng đánh Pháp, chai sạn với những đợt lên xuống tiến lùi của phong trào, chỉ lâu lâu mới có một người ra hàng, thường là sau khi bị kỷ luật nặng. Hầu hết số bỏ trốn, có hay không có súng, là những anh em trẻ “nhảy núi” trong một cơn bốc đồng, sau đó thấy theo cách mạng là quá cực khổ, quá dễ chết, thêm bị gia đình lôi kéo vì sợ mất con, mất chồng, bèn đánh bài chuồn.
Theo lệ thường, họ được địch đưa về một nơi rất kín đáo. không báo cho gia đình biết, để công an ngụy cho hưởng một trận tra tấn xem có phải Việt Cộng gài người vào vùng quốc gia hay chăng. Ai chịu đòn không nổi và trót nghe lời mớm cung, nhận là VC trá hàng, sẽ được đưa đi “an dưỡng đường” để nghỉ mát, tức là qua nhà lao để nằm xà-lim biệt giam, ăn cơm sạn mắm giòi và chịu mỗi đêm một lần tàu bay, tàu lặn, tàu điện, kết thúc bằng mò tôm trong bao tải buộc đá. Ai ham sống lâu hơn thì được địch giải về khui hầm bí mật hay đánh úp đồng đội cũ. Khui hầm rỗng hay cất vó hụt thì rồi đời luôn, bị bắn sau lưng và cắt tai lấy thưởng. Trận tập kích vào cơ quan huyện vừa rồi chắc chắn có đứa nào đó dẫn. Các đội võ trang công tác mắc kẹt tít dưới sâu kia, hẳn nhiều người biết cơ quan ở đâu, ở ra sao.
Phải đợi cơ sở trong quân ngụy và các ấp chiến lược báo lên cho trạm H.27 mới biết được ai chết ai sống. Nhưng trạm ấy có bị đánh úp không, nếu không bị thì cũng chẳng biết đồng chí bí thư kiệt sức nằm đây như người bán thân bất toại.
Bên ngoài lều, trời đã chạng vạng. Tiếng chim xao xác về tổ bớt đi nhiều nhưng vẫn còn. Đất dưới rừng ngả màu sẫm trước, nền trời vẫn sáng trong buổi hoàng hôn kéo dài của vùng núi. Con Dồ vừa ăn xong một rắn nước khá to, nuốt hết xương, bỗng đứng thẳng bốn chân, gừ gừ chạy xuống suối thật êm. Rõ ra nó chưa biết là bạn hay thù.
Mươi phút sau, nó chạy lên thong thả, không sủa. Tiếng chân bước và tiếng thì thào đến gần. Chanh không lăn sấp xuống đất, chỉ nằm nghiêng và cầm súng sẵn.
Cả một tốp người kéo tới. Cô Tơ-bon dẫn đầu. Còn đủ sáng để Chanh nhận ra Hai Thùy và giật thót mình. Tới Út Thanh Yên cõng con Thanh Bình. Chanh chống tay ngồi dậy, lập cập đánh bật lửa châm vào thanh ngo gài sẵn chỗ chân sạp.
Chỉ có Tơ-bon mở miệng được: “Anh Tơ-rin gác chỗ khe, em xuống thay ảnh”. Lúc này Chanh mới thấy Tơ-bon cầm lựu đạn, cõng một gùi tre nặng. Cô ngồi xệp đặt gùi, cầm lựu đạn đi ra. Út Thanh Yên chợt nhớ, cũng ngồi xuống thả đứng con Bình, nói với nó bằng giọng ngủ mớ, lùng bùng không rõ tiếng:
- Hừ, đòi đi, mới leo dốc sơ sơ đã bắt cõng... mười ba rồi chớ ít đâu...
Thùy bỏ cái bao lưng xuống, lại đứng nhìn chồng trân trân, nước mắt chảy xuống chầm chậm. Chanh tỉnh lại, gượng cười:
- Nhà không ghế, bà con chịu khó lót dép ngồi... lạ lắm sao mà ngó hoài vậy ta?
Châm thêm một cây ngo nữa, Chanh được Thanh Yên đưa cho cái gương chữ nhật nhỏ. Anh soi xem mặt mình: một đống râu tóc bù xù bết đầy đất cát, bao quanh khuôn mặt chỉ còn da bọc xương. Anh nhìn xuống bộ bà ba rách như lá chuối khô và cũng đầy đất cát, chắc sau lưng cũng thế. Đồng chí Tơ-rin bước vào lều, chỉ đứng nhìn Chanh như một người đến dự truy điệu bị muộn giờ.
Tiếng khóc chợt nổi hu hu cùa Thùy đánh thức mọi người. Chanh cười phá lên, rất không tự nhiên:
- Gì mà như đám tang vậy hè? Chanh xe lửa đúc bằng sắt, trầy truột hay hư máy chút đỉnh, ăn thua gì!
Tới đó, từng người mới lo một việc, tíu tít cả lên. Anh Tơ-rin xách ống và soong xuống suối trong khi Thanh Yên nhen bếp lửa, lấy trong gùi ra túi bột huỳnh tinh, hộp thịt nạc chà bông, muối hầm và vị tinh. Yên nói rất ra vẻ thầy thuốc:
- Có gói xôi đậu xanh đó, mà anh ăn sợ thương thực. Em quấy bột nhiều, anh ăn mỗi lần một chén, nhiều lần cũng khỏe.
Thùy bắt anh cởi quần bà ba bết máu ra, hòa nước muối giội vào cuộn băng đã dính cứng vào vết thương, nhẹ tay gỡ dần nó ra. Chanh buốt tận óc nhưng cố nằm im. Điều lạ là chỗ thịt bị xé dài hơn ngón tay không làm mủ, không thối.
- Anh... ai làm thuốc cho anh?
- Tự làm thôi.
- Anh có trụ sinh hả?
- Trụ sinh của người Thượng, là cao lôông tơ-uyn. Hễ ngốt cơn sốt rét, anh tự bôi. Lát anh cho coi.
Nước trong soong đã sôi già. Thùy pha thêm nước muối trong cái ca Mỹ, soạn các thứ rửa và thay băng. Hồi Chanh làm xe lửa, sau về ở Linh Lâm, Thùy học mót được tí nghề y tá để giúp anh em trúng pháo, bà con trong làng cần cấp cứu bước đầu, trẻ con ốm vặt. Nhưng học thuốc nam kỹ như chồng thì không đủ thì giờ.
Trong khi chờ nước nguội, Thùy cùng Tơ-rin thay nhau kể chuyện những ngày qua. Cô Tơ-bon rời Chanh đã thốc thẳng xuống Linh Lâm báo động cho gia đình Thùy, rồi trở về làng Thượng định cư Linh Sơn. Bọn dân vệ chụp bắt Tơ-bon lúc mờ sáng, đem về bót nện khá đau, Tơ-bon không nhận đi tiếp tế Việt Cộng mà chỉ đi tìm con heo sẩy chuồng: “Hắn ủi khoai sắn họ, tui lấy chi tui đền?”. Vẫn cứ bị giam ba ngày. Các ông lão làng Blam cho con cháu đi báo với tỉnh ủy viên Tơ-rin, cùng kéo lên bót kêu kiện.
Trong mấy ngày ấy, Hai Thùy và Thanh Yên đi gặp Cửu Áng, phó đại diện kiêm kinh tài của xã, xin giấy vào Quy Nhơn ở với bà con phía má Thùy. Ở chỗ cậu sơn này quốc gia với cộng sản giành giật nhau liên miên, bom đạn dầm dề chịu không thấu. Cửu Áng đoán những gì chẳng hiểu, nhưng lão chỉ cấp giấy cho mẹ con Thùy được đi với cái giá lót tay năm trăm, còn Thanh Yên thì “để đó cứu xét”?.
Trong trận càn lớn ở Tây Quảng phối hợp với cuộc hành quân “tiêu diệt Đỗ Xá” trên núi thăm thẳm kia, giữ Hai Thùy lại làm con mồi gọi hàng vẫn lợi hơn, nhưng lão hiểu Cả Chanh không biết hàng là gì. Y hệt ông Tô Xáng tức Bát Đập, vợ con bị đưa đi dinh điền trên Cao nguyên trung phần, ông vẫn cứ nhởn nhơ làm bí thư tỉnh ủy phớt đời, cho đến khi chết-mà đố biết ổng đã chết hay chưa? Biết đâu ổng ra Bắc nhận quân, về riềng cổ hết tụi này! Bài học từ năm Ất Dậu Việt Minh nổi dậy lật nhào mọi ông chủ cũ vẫn đọng sâu trong lão như cái nhọt bọc chữa không lành. Gây thù kết oán thì mình bị thí trước, quá rõ rồi. Lão tính đủ các lý lẽ khi ký tên và cộp dấu vào giấy phép của Hai Thùy.
- Bác không thắt ngặt với Út Yên làm gì. Ác nghiệt là trên quận tư giấy về hoài hoài, cấm không cấp giấy cho đám trai gái trẻ đi làm ăn xa. Tụi nó nói vô Sài Gòn, Bình Tuy, Cao nguyên Trung phần, lục tỉnh Nam phần, thiệt ra không phải. Đứa chưa bị nghi thì đi liên lạc cho Giải Phóng, trốn quân dịch. Mối lộ sơ sơ thì “chạy trong”, đổi vùng, thay tên. Bí nữa là nhảy núi, lên xanh, vô bưng. Quốc gia biết hết mới lịnh xuống vậy. Cháu đi họ ít nghi, bên Giải Phóng ít nhận gái lớn tuổi đem theo con nhỏ... À, Cả Chanh mạnh giỏi luôn chớ?
- Ôi bác, làm sao cháu biết được!
- Bác kín miệng lắm, nói nhỏ với cháu thôi nghen: mấy đứa ra hàng tả “cụ thượng” tỉ mỉ lắm, ngó xa cũng biết. Cháu nhắn ảnh đổi hình dạng đi, mặc áo dài đen đội khăn đóng làm thầy bói thầy cúng, bới tóc củ tỏi mặc áo trắng như chức sắc Cao Đài, thiếu gì cách... Cháu cặp Cả Chanh, cứ nói bác quý trượng cả nhà cháu. Bác cầm năm trăm để trám miệng thằng Ba Mít thôi, phải người khác thì ba bốn tạ gạo còn thiếu. Không, không, ơn nghĩa gì đâu Hai! Cháu xuống quận xin tiếp ký, nhớ kẹp năm trăm nữa trong đơn, nó mới đóng mộc cho.
Thanh Yên ngồi lì lì chỗ góc lều trong khi Chanh ăn chén bột huỳnh tinh ngon không thể tả, vào đến đâu tỉnh người đến đấy, tiếp uống thêm clô-rô-kin và các sinh tố. Thứ cao lôông tơ-uyn tốt thật, Thùy chỉ rửa vết thương, bôi cao mới, băng sạch lại.
- Lão Áng không cho giấy, em cũng vù, anh Cả à.
- Nó hốt cả nhà đi quy khu...
- Mai mốt nó bắt em vô lính nhà thổ... Em bị thí à?
Thùy chen vào đánh trống lảng:
- Con Bình ngủ ngồi kìa. Út lấy võng trong bao chị, cột đâu đó cho nó nằm. Để anh Cả tính lợi hại ra sao đã chớ.
Anh Tơ-rin giữ ý, chỉ lặng lẽ thắp liên tiếp từng cặp thanh ngo. Địch sợ chông thò không dám lùng đêm, co về ngủ hai bên sông Linh, ở đây đốt lửa và chuyện trò thoải mái. Chanh chợt nhớ ra con Dồ mấy ngày nay chỉ lo gác và ăn những thứ sống sít kiếm được, nhắc Thanh Yên cho nó nắm xôi. Cô Út không nói giọng hờn dỗi nữa, mà gắt to tiếng:
- Đang bàn việc em, anh chỉ nhớ tới con chó! Ừ, con Dồ bám riết bên chân anh, còn cả nhà em ăn no ngủ kỹ cho mập!
- Ơ, nói gì tầm bậy vậy út?
Thanh Yên vùng vằng lấy gói xôi đậu xanh trong mo cau lột, xắn một góc, dùng đũa hất ra cho con Dồ. Nó vẫn nằm ngoài cửa lều, dỏng tai nghe chừng. Nó nhìn miếng xôi rơi gần, nhìn người cho ăn có giọng nói và cử chỉ khác thường, lại ngoái đầu nhìn ông chủ. Chanh vẫy tay gọi nó vào. Nó chỉ ngậm miếng xôi chạy đến bên sạp, nhìn chủ, ngước mắt, vẫy đuôi. Ông chủ nói rất dịu: “Dồ, ăn đi!”. Nó quỳ ép bụng xuống, ăn ngấu nghiến.
- Út à, con Dồ cứu anh nhiều lần, cứu cơ quan nữa, được bằng khen rồi đó... Nó nhịn đói canh chừng anh ngày đêm... Cho nó nữa đi em.
Thanh Yên đã nguôi cơn tức, bắt đầu xấu hổ. Ông Tư Rèn nuôi và luyện con Dồ cha đến cả nhà phàn nàn là ông chỉ chơi với chó. Nhưng khi Dồ cha dám lao vào cắn cổ cả trăn, rắn hổ mang, vừa sủa vừa đấu tay đôi với beo gấm về bắt heo, những lời kêu ca dứt hẳn. Hai Dồ con về với Tư Quýt và lò rèn ông Chua, yên phận làm chó giữ nhà. Con này được anh em luyện nhiều, khôn nổi tiếng cả vùng Tây Quảng Nam và Quảng Tín (tỉnh này mới thành lập), đám dân vệ nhắc nhau nhớ bắn con chó trinh sát ấy.
Chanh lấy mo xôi, xé một mảnh lá chuối rừng mà anh cố mang về để gài vào mái lều khi mưa dột, ép dẹt xôi xuống, rắc lên tí muối đậu phụng, lại gọi con Dồ vào ăn thêm. Nó liếm tay cảm ơn chủ, ăn thong thả như khi hưởng suất ăn khá ở cơ quan tỉnh ủy.
Đồng chí Tơ-rin tới đó mới kể chuyện chống càn. Chỉ tiếc anh biết quá ít vì chỉ bám các làng Thượng, nắm các ủy ban và đội du kích Thượng. Anh vào ấp chiến lược Linh Sơn một đêm sau đảo chính Diệm đổi gọi là “ấp tân sanh”, nghe xuôi tai nhưng tất cả đều y như cũ.
Thùy và Thanh Yên nói rõ hơn. Số chết và bị thương trong vố tập kích vào huyện ủy Tây Quảng được ghi trong một chuỗi tên rất dài từ tỉnh Quảng Tín đưa xuống, đứng đầu sổ là Cả Chanh, tức Thanh Trà, bí thư tỉnh ủy Quảng Nam, tiếp là mười tám VC bắt tại trận, bảy xác, cả mớ đồ súng ống trang bị của Nga Xô, Trung Cộng, Cộng Bắc Việt. Cả nhà ông Tư Rèn nhao nhác. Địch phao tin giết được tên cộng sản nòi Phan Chanh đã đến lần thứ năm thứ sáu gì rồi, nhưng lần này anh em chết nhiều quá, bị bắt cũng quá nhiều. Năm Bưởi đánh liều đút tiền đi xuống thị xã Tam Kỳ, tỉnh lỵ mới của Quảng Tín, về nói: chẳng có ai là anh Cả hết. Lần này nó triển lãm xác còn nguyên, chở trực thăng mà, không như hồi cột chân anh Xáng kéo nát mặt mũi. Đám bị bắt ngồi một dãy, mặt lạ hoắc, có anh hộc máu ngã lăn ra, nó cũng xốc dậy cho nhà báo chụp hình.
Việc Thùy giả vào Quy Nhơn để đem con lên với chồng được ông bà Tư và Năm Bưởi bàn kỹ và ưng bụng. Tất nhiên phải giấu Bảy Bòng và Tư Quýt, hai người con chống cộng hăng nhất và tham lam bòn rút nhất.
Tơ-ron bị giam ba ngày, địch phải thả khi dân làng Blam vây bót đòi người, càng về sau càng đông, càng kéo dài. Vừa về đến Linh Sơn, cô cho ngay hai bạn đoàn viên mật xuống đón mẹ con Thùy, với Thanh Yên nằng nặc đi theo. Anh Tơ-rin đi coi bố phòng ở các làng Thượng rút sâu trong núi, cũng về kịp...
Chanh ăn tiếp bát bột thứ hai, thổi nhấp từng thìa, ngẫm nghĩ. Thùy với con lên xanh là phải, giấy tờ hộp pháp của xã có rồi, bọn thư ký quận chỉ ăn tiền cộp dấu, không mấy khi vào sổ. Thanh Yên khác. Hội đồng xã không cho đi chỉ là việc vặt, cha mẹ sẽ hớt hải đến báo: “Con út tôi theo trai trốn mất. Chắc lỡ dại với anh trung sĩ biệt động hay tới nhà”. Dân lành Linh Lâm đã quá quen với những vụ lỡ dại như thế, đều giấu cho nhau. Nhưng…
- Anh nghĩ vầy út ơi. Em chưa bị nghi. Bên ta gài được một trung kiên trong ấp tân sanh rất khó, xây dựng cơ sở càng khó. Có người là cơ sở hai ba năm, chỉ làm được một việc là mua muối, pin, ni-lông cho các đội tới lấy, còn ăn lời quá quắt nữa. Hễ ta phá rào ấp hay đồng khởi là họ chạy lánh thiệt xa, em bám trụ bám ít lâu nữa... trong lòng địch...
- Ờ, làm con gà luộc trên mâm cúng chớ gì?
Cái giọng mỉa mai của Thanh Yên khiến Chanh nóng mũi:
- Anh nghe nói chi bộ xã Tây Giang tính kết nạp em, đã cho học lớp cảm tình Đảng... Đúng không, đồng chí Tơ-rin?
Tỉnh ủy viên Tơ-rin gật đầu, nhồi thêm thuốc rời vào cái ống điếu bằng khúc vỏ đạn 12 ly 7 cắm đoạn ống trúc.
- Có lẽ chi bộ xã xét lầm sao đó... Đảng viên mà ương bướng lựa việc, chỉ làm cái gì mình thích, còn thua xa đoàn viên. Anh Tơ-rin nghe hết đó, tùy ảnh quyết định, cần bàn kỹ với chi bộ nghen. Huyện ủy duyệt là đủ, không cần báo lên tỉnh.
Thanh Yên điếng người, ngồi cúi đầu lặng cá. Cô tưởng chỉ hờn lẫy với một người anh, đâu nhớ ảnh là bí thư tỉnh ủy!
Tơ-rin chen vào cho đỡ căng:
- Tui sắp đạt ri đây. Mờ sáng mai, tui đưa anh chị với con nhỏ lên cái hang kín nhứt, để anh Chanh nghỉ thêm vài ngày cho cứng chưn. Rồi cho hai du kích theo cõng đồ dùm, đi vài trạm thì bàn giao cho giao liên đưa về tỉnh ủy. Mai sớm, à không chừng giữa cái đêm, Tơ-bon đưa cô Út về làng mờ sáng tới sông, đợi tụi lính bỏ chỗ núp rình về đồn, lội qua luôn.
Chanh bùi ngùi nhìn hai cô gái chưa chồng.
Tơ-bon thấp nhỏ, hơi gầy, da nâu sẫm, không nhớ tuổi mình tuy biết đọc và viết tiếng Kinh. Ngay cha mẹ cũng không nhớ con đã ăn bao nhiêu mùa rẫy, chỉ nói hú họa: “Chừng mười hai, mười ba mùa chi đó... Hắn lo đi cách mạng theo anh hắn, chưa chịu bắt chồng cho rồi”. Thanh Yên đã mười chín, xinh gái hơn, người đầy đặn, da trắng, tất nhiên không thể so với hoa khôi Linh Lâm là chị Hai Thùy.
Lính bảo an và đám dân vệ thôn vệ không dám quấy rầy nhà ông Tư vì sợ cả hai phía, phía Giải phóng và phía Bảy Bòng cảnh sát trưởng. Nhưng mỗi lần càn lớn, có tụi lính ác ôn đổ về như kiến-biệt động, dù, Nùng di cư, cả lính Re sót lại sau vụ bạo loạn Sơn Hà-hai chị em phải thay mặc đồ rách, xoa nước nghệ lên mặt, cố làm đầu bù tóc rối, khiêng máy may vào buồng kín, ra ngồi lò rèn. Năm Bưởi sẵn nước da còn xanh bủng, nhai một miếng trầu để đóng vai ho lao ho tổn, ngồi gian trước trông nhà. Bót dân vệ là con Cửu Áng, được cha dạy cho cái đạo vét tiền nhiều hơn bỏ tù, nhu hơn cương, ân hơn uy, ăn ở sao cho khỏi bị kẹp chết giữa hai thớt cối xay đá.
Thanh Yên kéo Thùy xuống suối, thủ thỉ khá lâu. Khi về lều, mắt Thùy ướt, mắt Yên sưng đỏ. Yên kéo Tơ-bon ra đi ngay không chờ nửa đêm, chỉ cầm theo một mớ cây ngo soi đường.
Chừng hai giờ sáng, con Dồ lại sủa khẽ: có mùi lạ, nhưng không phải mùi ka-ki dày và ủng da, giày rừng ngấm đẫm mồ hôi nhiều ngày đến thối khắm của địch đi càn. Hai cây đuốc sặt cháy to đi tới, nhiều tiếng chân êm hơn giày địch. Anh Tơ-rin cầm cây Tom-xơn hờm sẵn, nhận ra người bên ta cả.
Trạm giao liên H.27 không bị đánh úp, đã đón anh bí thư huyện ủy, hai ủy viên thường vụ từ vùng dưới tức tốc chạy về. Tổ du kích do anh Tơ-rin chọn trong đội làng Blam dò theo dấu chân đã tìm thấy anh chánh văn phòng bị thương nhẹ ở tay, hai đội viên Võ trang công tác bật lên núi, một chị nấu ăn bị xóc chông, dìu và khiêng về giao cho trạm.
Một anh trong thường vụ đã cải trang vào xem triển lãm xác và tù Việt Cộng, cùng mấy chục súng to nhỏ bảo là thu được của VC, đủ dùng cho hai trung đội là ít. Anh điểm mặt rất kỹ, nhớ các tên. Về H.27, ghép các nguồn lại, thấy còn thiếu bốn người. Chạy lạc trong rừng núi lạ, đầy chông thò, số phận họ ra sao?
Anh bí thư Tây Quảng cao lớn, tóc cắt ca-rê, hai răng vàng, trông giống một tay lơ xe chuyên vùng ma-ni-ven giành khách. Vốn nóng như lửa, anh càng tức điên khi nghe cả mấy chục người có võ khí mà chạy như thỏ. Gặp anh chánh văn phòng ở trạm, anh đã rút súng ngắn đòi bắn, mọi người can kịp. Bây giờ anh sừng sộ với Cả Chanh và Tơ-rin, chẳng để ý chút nào đến thân thể phờ phạc héo hắt của bí thư tỉnh ủy:
- Tôi hỏi nè. Anh là bí thơ tỉnh, tới cơ quan thấy cả một lũ trốn giặc bỏ dân, lại làm bộ yêng hùng rơm, sao anh không can thiệp gắt vô? Anh cũng chạy trốn như họ, rồi rước vợ con lên nữa chớ! Trách nhiệm anh ném cho chó rồi hả?
Anh chánh văn phòng rụt rè nhận một điều chưa dám nói:
- Dạ, anh Chanh nhắc nhiều lần, anh em cứ chủ quan...
- Chủ, chủ cái củ c.tao đây nè! Không phải nhắc, mà ra lệnh, không phục tòng thì trói vô gốc cây bắt nhịn đói!
Anh thường vụ cũng làm chứng:
- Tụi lính càn về kể chuyện, cơ sở nghe được vầy. Khi bị úp sau lưng, có mấy VC bắn lại hai băng súng máy, mươi phát súng trường, lính chết một bị thương ba. Trực thăng bốc quân đi, ém lại một trung gài bẫy. Chừng mươi phút sau gặp một trinh sát VC với một con chó. Nó nhảy xuống hầm bí mật, luồn ra xa lắm, nhảy lên đánh một mình. Nó bắn thứ súng gì của Nga Xô hay nước nào chẳng biết, đạn vãi như trấu, bị thương bốn lính nữa, có đứa đui cả hai mắt... Thêm một chỗ cho ly kỳ: con chó ấy lớn xác mà dữ lắm, nhảy vô móc mắt, cắn họng chết một đứa nữa, đem về phải chôn lén vì coi kinh quá. Thứ đó là chó chiến đấu, nòi chó sói, biết tránh đạn.
Những người tìm thấy trong rừng cũng nghe súng và lựu đạn nổ đợt sau, còn dữ hơn đợt trước, nay mới biết địch dùng trái nổ ném phá “hầm bí mật”.
Anh bí thư quay sang hục hặc với Tơ-rin:
- Ừ thì anh Chanh dám đánh địch một mình, giỏi, vậy chớ ảnh còn hữu khuynh, không dám ra lệnh... Còn anh Tơ-rin?
Mặt Chanh nóng nhưng giọng rất lạnh:
- Tôi không thể qua mặt phó bí thư và hai huyện ủy viên để ra lệnh cho đội viên được. Chính đồng chí đã trách tôi mấy lần là quá dài tay, nhớ không?
- Thì thôi... Anh Tơ-rin là tỉnh ủy viên, ngó thấy cũng phớt lờ là sao? Hay là lên tới rừng xanh núi đỏ lánh càn?
Tơ-rin bắt chước giọng giá ngắt của Chanh:
- Tui được cử theo rõi vùng núi bốn huyện để nó ý kiến với tỉnh chỉ huy họ. Tui không vô huyện ủy các anh.
- Cơ quan từ Linh Trung lên núi, ở vùng núi, anh không bước tới à?
- Không bước tới. Tới làm chi?... Mà thôi, miệng anh như con sông, miệng tôi như khe cạn hơi sức đâu tui cãi. Hừ, làm cái nghị quyết tiến công thiệt là sướng cái lỗ tai, rồi để cả mớ người trốn dân tránh địch, vác súng rúc núi, giữ cái mạng thôi mà giữ không nổi, bây giờ bắt đền tỉnh ủy sao không xúm vô bồng ẵm cơ quan huyện! Tồi.
Anh bí thư tắc họng, ngồi câm như hến. Trong lều chật quá, Thùy giẹp võng con Bình ngủ say vào cuối sạp ba nó, moi túi gạo trong gùi tre, xách hai cái nồi đi xuống suối. Nồi của đội Blin vừa cho sáu người ăn, nồi của Thùy bốn người, đủ rồi. Nơi xa này đốt lửa được. Hai cậu rảnh việc giúp Thùy kê bếp, kiếm củi. Trên miệng mỗi nồi cơm Thùy lót lá chuối hấp vài con cá chuồn muối thính, rắc ớt bột. Nhờ một tiếng váng mặt ấy mà Thùy không phải nghe lời trách rất ác về Chanh “rước vợ con” lên trong trận càn rất dai dẳng này.
Cơm được giỡ ra trên lá chuối trải nền lều, Thùy lại đem nồi xuống suối đun hai nồi nước sôi nữa. Cậu giao liên đã gạt than hồng ra, đặt ngửa cái nắp vung, rang cháy một nắm gạo để thay chè. Anh em chia nhau số nắp và ngăn ăng-gô, thìa, đũa mới bẻ bằng cành sim, không phải ăn bốc.
Bưng nước lên, Thùy mới múc chén bột huỳnh tinh vét soong cho chồng. Anh bí thư đã qua cơn nóng, vừa ăn nghiến ngấu vừa hỏi:
- Anh Cả không ăn cơm được à?
Tơ-rin nói thay, đủng đỉnh:
- Ảnh đánh giặc giữ cho cơ quan anh, trúng đạn bắp vế, không nổi đi, nằm chết giấc, máu chảy ra cả cái vũng. Con Tơ-bon xốc ảnh tới đây, sau bị bắt, ảnh đói, sốt rét, hết máu, sưng chỗ đạn. Ăn cơm liền cho mau chết hả? Cho bứt ruột hả?
Anh bí thư buông thìa, ngẩn ra nhìn Chanh: một cái xác biết đi.
- Ôi anh Cả, tôi quá bậy rồi, ruột gan lộn ngược hết. Anh bỏ qua cho nghen. Tôi sẽ tự xin kỷ luật sau, bây giờ lo dựng lại huyện ủy mới đã...
Chanh chỉ khoát nhẹ cái thìa, ăn tiếp hết bột, uống nước. Đợi dọn dẹp xong, anh em xuống bãi cát bên suối căng võng hay trải lá ngủ, Chanh mới nói với ba đồng chí huyện ủy:
- Tôi còn mệt, ta bàn sơ qua thôi. Trước hết, tôi thông báo về việc vợ con tôi lên đây (Chanh giữ lối nói mười phần chính quy). Hậu cần tỉnh bị bom, có hai thợ may thì chết một cụt tay một, máy hư. Tỉnh giao cho tôi kiếm thợ và máy về thay. Hai Thùy là cơ sở lâu năm, bảo đảm không đào ngũ, làm thợ may trên hai chục năm, có máy riêng, tôi sẽ đưa về tỉnh nhận việc. Nếu được, các đồng chí bố trí cho một chuyến võ trang công tác, đưa lệnh cách mạng trưng mua máy may ở nhà tôi, tôi đã dặn người nhà đóng bao các thứ kèm theo máy, đợi đó. Thứ hai, tôi được bổ sung làm ủy viên dự khuyết Liên khu ủy kiêm bí thư Quảng Đà, Tây Quảng thuộc ranh giới Quảng Nam, địch gọi là Quảng Tín. Tỉnh ủy còn được hai tháng nữa để tách làm đôi, bên bộ đội cũng vậy... Trong khi chưa chia tỉnh, tôi chỉ thị cho huyện ủy Tây Quảng gọi hết các huyện ủy viên về để kiểm điểm vụ tổn thất này, phê bình lãnh đạo tỉnh mặc sức. Tôi bị thương bị bệnh chưa đi nổi, sẽ ở lại dự cuộc họp.
Anh bí thư cầm bản sao quyết định của Chanh, không đọc, trao qua hai đồng chí kia. Anh nói rụt rè:
- Dạ... anh chị em nắm các cánh nghe tin ta bị... chắc đổ xô về, nay mai thôi.
- Đồng chí quên rồi. Trong nghị quyết huyện ủy “Tất cả để tiến công mặt trước”, có ghi cắn cưa là các huyện ủy viên đi mặt trước, các đội trưởng đội phó võ trang công tác không được tự ý về huyện nếu thường vụ chưa triệu tập, đúng không?
Chanh ngả lưng xuống sạp, còn dịu giọng nhắc:
- Cái chính bây giờ là đừng hốt hoảng, đừng chán nản, đừng đấu nhau quá găng. Anh em mình vậy, phong trào lên thì hỉnh mũi vênh râu, địch quật lại thì vù lên núi cột võng nằm than dài. Để tôi nghỉ chút nghen.
*
Cả Chanh được khiêng về căn cứ Hai của trạm giao liên H.27, cách trạm chính nửa giờ ngược suối, nơi để tài liệu, gạo muối, đồ dùng. Thùy và con cũng đến đấy. Các anh từ đồng bằng lên chia của cho Chanh người một ít, anh được mặc đồ mới, cạo râu, cắt tóc bằng kéo. Thùy ở vùng ven núi, quen học lỏm mỗi nghề một tí, đã tiêm trụ sinh cho chồng hằng ngày. Con Bình quấn quýt với ba nhiều hơn, chơi đủ trò với con Dồ khôn gần bằng người, không nhớ nhà nhiều như Thùy ngại.
Năm ngày sau, huyện ủy họp bất thường. Còn lại chín, một đồng chí dưới sâu mắc kẹt không báo được. Chanh, Tơ-rin, thêm anh phó bí thư tỉnh ủy nghe tin xảy tai nạn và địch rải truyền đơn với Phan Chanh đứng đầu chuỗi tên VC bị giết và bắt, đã tức tốc đi vượt trạm vào Tây Quảng.
Anh chị em đã kịp rỉ tai nhau: phen này tỉnh ủy cạo cho trắng máu, kỷ luật hàng loạt cho coi. Khi Chanh không chịu nói lời khai mạc, nỗi sợ ấy càng tăng.
Chanh để mặc các đồng chí đấu đá nhau mỗi lúc một bốc, văng tục, chửi nhau thẳng cánh, dọa đủ thứ hình phạt. Anh chỉ ngồi trong góc, nghe khẩu khí và ngắm mặt từng người như coi tướng. Đếm lại, trong huyện chỉ có bốn thôn bị lấn chiếm và bắt rào ấp, một thôn bị bom lửa bom nổ cháy nửa số nhà, hai thôn bị dồn xuống dưới chợ Huề Bình, bị đốt nhà nhưng ít mất của chìm giấu trong núi và của nổi gánh theo, dắt theo. Bù lại, các cánh mặt trước đã mở ra làm chủ ngày đêm hai mươi mốt thôn, phá ấp tân sanh và làm chủ từ chiều đến sáng sau được hơn ba chục thôn. Trừ hao cái phần thổi phồng, thành tích vẫn còn nhiều.
Đầu buổi họp chiều, Chanh mở miệng:
- Dự đây có ba tỉnh ủy viên. Chúng tôi nhứt trí đánh giá đợt tiến công vừa qua là rất tốt, thắng lớn, giành dân phá ấp được nhiều hơn một số huyện khác dẫm chân tại chỗ. Đó là ưu. Phần khuyết cũng nặng, nhưng ít hơn ưu. Tôi nhắc một điều ta đã biết: đồng chí phó bí thư, hai huyện ủy, ba đội trưởng đều chết tại trận, sổ giơ tay hàng chỉ có một đội trưởng, còn lại là số mới thoát ly… Trách nhiệm thuộc về ai, phải làm rõ. Trước hết là thuộc tất cả huyện ủy đã giơ tay thông qua nghị quyết tiến công mà quên phần “giữ vững mặt sau”. Xông xáo đánh địch, tốt lắm, đừng nhụt chí, đừng nhao nhác lên, đừng gây hoang mang trong các đội. Tỉnh ủy tạm nhứt trí gác lại các đề nghị kỷ luật. Sau khi chia tỉnh, các đồng chí cũng đến kỳ họp đại hội Đảng bộ, công và tội sẽ được xét kỹ.
Chanh ngồi xuống, bỗng nghe tiếng vỗ tay dội lên rào rào, nơi xa địch này anh chị em vỗ hết mức. Anh bí thư chồm lên:
- Anh Cả bẻ lái vậy đó, tụi mình sao nè?
- Đồng ýýý!
Lại một loạt vỗ tay nữa. Chanh sững sờ và hơi ngượng: mình chỉ nói ý kiến của tỉnh ủy, đâu có bẻ lái?
Trong thời đánh Pháp và nay đánh Mỹ, vai trò một người lắm khi rất lớn. Dân bị địch giả VC lừa mãi, đòi phải ngó thấy ông Kèo ông Cột-chớp nhoáng thôi cũng được-mới chịu tin ở lá cờ xanh đỏ sao vàng treo trong mít-tinh, không giống cờ Cụ Hồ. Cho đến các đội viên, cấp ủy xã cũng tin rất ít ở những bản nghị quyết phải đánh vần của một chi ủy viên. Phải có mấy ông “hột gạo trên sàng” tự nói ra mới chắc là ý Đảng, ý Bác, mới làm theo. Anh Tô Xáng, Cả Chanh, vài ông nữa được xếp loại ấy, không kể những ông được tin cậy trong một huyện, một xã.
Trong chiều ấy có thêm hai nhóm kéo tới trạm H.27. Nhóm đầu là du kích làng Blam cõng tới một con trâu xẻ, bắn trong số trâu chạy hoảng thành trâu rừng, sợ người như cọp. Nhóm sau là phần còn lại của đội Tây Giang xuống đưa lệnh “trưng mua” của huyện, cõng tất cả máy may, phụ tùng và các thứ Bưởi và Yên đã vay tiền mua, hầu hết là hàng quốc cấm: ni-lông dài ba thước làm tăng, nhựa choàng thước rưỡi, vi-ni-lông dầu xanh lá may võng, thuốc tây, pin, vải ka-ki may quân phục và vải mỏng may bà ba, đủ thứ. Chẳng cần đi đâu xa, đến nhà Cửu Áng phó đại diện xã là mua được phần lớn, thiếu món gì thì tới chị Ba Song, chị ăn lãi chẳng thua Cửu Áng. Số tiền “trưng mua” chỉ vừa đủ trả nợ tiếp tế cho anh Cả, cái máy may coi như không tính tiền với cách mạng. Hai Thùy lập tức lắp máy, may mọi thứ cho chồng, chỉ ngừng khi xuống bếp nấu cơm cho hội nghị.
Mãi tới mười giờ đêm, Thùy mới kịp tắm qua loa ở chỗ suối vắng-chị cấp dưỡng xóc chông dặn mãi là phải tắm mé dưới xa, đàn ông lên tới huyện ủy cũng còn người đặc sệt phong kiến, khinh đàn bà con gái-Thùy lên chỗ căng hai võng, dưới hai tấm tăng nhựa ghép. Anh chị em ngủ say cả sau nhiều ngày đêm đói ngủ.
Chanh chợt gọi rất khẽ:
- Thùy ơi, anh hỏi chút.
Thùy vừa cúi xuống, Chanh đã vòng tay ôm ghì cổ vợ, hôn dồn dập từ mặt xuống cổ, lên tóc. Thùy rủn người, quỳ thụp xuống ép nửa người trên ngực chồng. Hồi anh tỏ tình ở Quy Nhơn cũng y vậy, em chỉ biết cắn anh trên vai đau điếng. Trong vòng tay gầy yếu của chồng, Thùy lịm đi nhanh. Gần hai chục năm rồi, anh vẫn thường yêu em tới vậy sao? Lắm người chê anh là hẹp hòi, máy móc, quá nguyên tắc, nhưng không một ai chê anh bậy bạ với đàn bà. Anh chung thủy với em, em cũng đền đáp bằng thủy chung.
Hơi thỏ của Chanh nóng hổi bên tai Thùy:
- Thùy ơi, em... em có khi nào hối tiếc đã lấy anh không?
Thùy nhấc mặt. Chanh hỏi câu ấy mới lần đầu.
- Sao lại hối?
- Anh đi tứ xứ, mình em lo nuôi con, nuôi cả nhà địch gây sự miết… nay lên núi cực khổ đủ đường...
- Hối lắm chớ. Nè thì hối, nè trả thù!
Thùy cắn vào vai chồng như năm xưa, đúng chỗ đã nhớ.
- Anh đang yếu, thôi để sau sau đã nghen. Lên núi, em không ngán có bầu nữa đâu, cứ sanh được hai đứa cho chắc. Gần anh, em đỡ sợ rồi. Tụi nó cứ phao tin anh chết hay bị bắt, không tin mà cứ hoảng vía, ăn ngủ chẳng yên... Ngủ đi anh. Mà quên, anh ăn thêm gì nữa em làm?
- Không. Em thả mùng cho con Bình, nó hay đạp tấm đắp, lăn ngoài mùng...
Tiếng chim dủ dỉ dù dì, cớ trót thì bóp, chen những tiếng rúc của giống trùn núi to như lươn có khoang cổ, những tiếng ó-ààà của con ó ma bay ngang, đưa vợ chồng Chanh chìm vào giấc lịm mệt nhọc. Chỉ còn con chó Dồ dỏng tai lim dim.