← Quay lại trang sách

Chương VI PÔN VERICƠN

Pôn Vericơn quả là một người không biết mệt mỏi trên con đường đi tìm kiếm người đàn bà lý tưởng của mình. Giống chàng Đông Ki-sốt đi tìm nàng Đuynxinê ở xứ Tôbôđô, Pôn đã đi khắp các khách sạn ở Hà Nội, thậm chí cả một vài khách sạn lớn ở thành phố Hồ Chí Minh để tìm Hoàng Dạ Nguyệt. Đáng phục thay là những kẻ si tình, ở họ có một sự đam mê gần như là bệnh hoạn. Đam mê tới mức nhiều khi họ bị căn bệnh tư tưởng bắt hết hồn vía, bị ảo vọng dẫn dắt, tha thẩn như một kẻ mộng du.

Có những chiều Pôn tha thẩn bên Hồ Tây. Cái hồ nước tuyệt vời nằm giữa thủ đô Hà Nội này, với Pôn, thân quen tới mức anh đã thuộc từng gốc cây, từng ngôi chùa cổ, từng con đường làng dẫn tới mép hồ. Không biết bao nhiêu lần chiếc máy ảnh Minolta của anh đã ghi lại những khoảnh khắc kỳ thú, những hình ảnh độc đáo của cảnh vật và con người ở đây: Một dáng thiếu nữ bên hàng liễu, đàn sâm cầm bay sà trên mặt hồ, ánh hoàng hôn cháy đỏ và sương la đà như khói toả… Tất thảy những cái đó, càng gợi cho anh nỗi nhớ Nguyệt, tựa hồ như chúng chỉ là một cái nền, một không gian gợi mở để chờ đón nhân vật của anh xuất hiện, giống như trong bức tranh Mùa Thu Vàng của Lêvitan, chỉ có thiên nhiên Nga thôi, chưa đủ, nhà danh hoạ dường như vẫn giành quyền cho mỗi người xem hãy tự mường tượng lấy một bóng hình.

Sự tìm kiếm của Pôn, cuối cùng đã không uổng. Anh gặp Nguyệt hoàn toàn tình cờ, như trong giấc mơ vậy. Đó là một buổi đại tiệc nhân dịp quốc khánh, tổ chức tại khách sạn Thắng Lợi. Đang giữa cuộc vui, Pôn Vericơn bỗng thoáng thấy một tà áo dài màu hoàng yến giữa đám quan khách. Sau này, trong suốt cuộc đời, Pôn sẽ không bao giờ quên được cái giây phút ấy. Tim anh đập hoảng loạn một cách bất thường. Anh sững sờ một hồi lâu như không tin vào mắt mình. Ba năm rồi mà Nguyệt hầu như vẫn không thay đổi. Dường như nàng đẹp hơn, duyên dáng hơn rất nhiều và trẻ hơn cả những lần anh gặp trước đây.

- Đêm trăng vàng! Ồ, không biết tôi có lầm không, hay đây là một diễm phúc? - Pôn gần như chạy đến bên Nguyệt. Anh cố trấn tĩnh mà giọng nói vẫn hào hển, xúc động.

- Xin chào ngài Pôn. Ngài không lầm đâu. Nhưng diễm phúc thì tôi không tin chắc. - Nguyệt nói và nhìn Pôn với vẻ ngỡ ngàng. - Tôi cứ tưởng ngài đã quên đất nước chúng tôi rồi.

- Không quên được. Không thể nào quên, thưa bà. Tôi luôn hy vọng, nói đúng hơn là tôi luôn khao khát được gặp bà. Quả tình bà xinh đẹp hơn cả ngày xưa… Không hiểu sao, mỗi lần nghĩ đến Hà Nội tôi lại nhớ…

Pôn buông lửng câu nói. Anh thoáng nhận ra một nét thẹn thùng trong mắt Nguyệt và cử chỉ khẽ quay mặt giấu nụ cười thật cổ điển và tế nhị đậm tính cách phương Đông.

Dàn nhạc bắt đầu chơi bản Eluyt côngxe của Franz Lizt. Mọi người rời bàn tiệc đi vào phòng nhảy.

- Hôm nay sẽ là một ngày hạnh phúc của tôi, nếu như được nhảy cùng bà. - Pôn mở bàn tay trái và nghiêng người vẻ lịch thiệp mời Nguyệt.

Điệu vanxơ vang lên dìu dặt. Nguyệt hơi một thoáng lưỡng lự, rồi chị đặt nhẹ bàn tay mình lên bàn tay Pôn.

Những bước chân tuyệt vời. Pôn thầm nhận xét khi Nguyệt đưa những bước nhảy đầu tiên. Anh có cảm giác Nguyệt đang bay trên mặt sàn, tà áo hoàng yến chập chờn như cánh bướm. Anh không dám nhìn Nguyệt, không nỡ phá vỡ cái giây phút yên lặng thần tiên giữa hai người. Nàng đang rất gần bên anh, trong tầm tay anh. Ngay kề bên vai anh là gương mặt dịu dàng với đôi mắt đen huyền như nhung, chiếc mũi nhỏ thanh tú và vầng trán mịn như cẩm thạch. Bàn tay anh đặt nhẹ bên eo lưng của nàng, qua làn áo mỏng, nhưng anh có cảm giác như mình được hưởng một ân huệ lớn. Ồ, kì lạ. Những sàn nhảy mờ tối ở Băng-cốc, những vũ trường rực ánh đèn màu ở Hồng Công, Đài Loan với những điệu nhạc rốc, nhạc jaz quay cuồng, với những vũ nữ gần như trần truồng, mông, đùi, vú, cọ xát mời mọc… chỉ gây cho anh cái ham muốn nhục dục, sự phá phách và nỗi chán chường, chứ chưa bao giờ tạo cho anh cảm giác kỳ lạ này. Thần tiên quá, thánh thiện quá, mà cũng say đắm quá. Anh nhận ra rằng hình như chỉ có ở xứ xở này, chỉ có người đàn bà với bản sắc Á Đông đậm đà kết hợp nhuần nhuyễn với văn minh Châu Âu được tinh lọc này, mới tạo được cảm giác kì diệu mà anh đang được hưởng. Bí quyết của người đàn bà tuyệt vời, từ ngàn xưa, ở khắp các châu lục vẫn là sự dịu dàng, khiêm nhường và kín đáo. Con gái Việt Nam dường như còn bảo tồn lâu dài được những đức tính đó. Và Nguyệt là một cô gái tiêu biểu. Đó chính là cái duyên cớ níu kéo Pôn trở lại Hà Nội., là niềm đam mê dường như không bao giờ được thoả mãn, và cũng không nhất thiết phải được thoả mãn. Hãy cứ để cho ta tôn thờ, như một thần tượng, như một tôn giáo. Chúa tồn tại là vì ông ta không có thực. Người đàn bà tuyệt vời mà ta khao khát suốt đời chính vì ta chưa bao giờ khám phá hết vẻ đẹp…

Những ý nghĩ làm Pôn ngây ngất.

- Ngài đang nghĩ gì vậy?- Nguyệt đột ngột phá vỡ khoảng yên lặng giữa hai người.

- Tôi đang nghĩ tới niềm hạnh phúc của mình. Ôi, bà không thể biết được mấy tháng nay tôi đã cất công tìm kiếm bà như thế nào? Thật là vô nghĩa nếu trở lại Hà Nội mà không gặp lại “Đêm trăng vàng”. Những ngày ở khách sạn Hà Thành để chờ ngài đại sứ Ramuncátxen trình Quốc thư, tôi tìm kiếm và chờ đợi đến vô vọng. Ôi, cái khách sạn hỗn tạp và nhếch nhác như một quán trọ…

- Trời ơi, ngài đã ở khách sạn Hà Thành? - Nguyệt thốt kêu lên. - Ngài chính là thành viên trong đoàn ngoại giao của nước cộng hoà Scăngđi?

Ông khách nước ngoài nhếch miệng cười. Nguyệt như đọc trong nụ cười ấy một sự giễu cợt.

- Thôi, ta ra ngoài hành lang nói chuyện. - Nguyệt buông tay bỏ dở điệu nhảy giữa chừng.

Họ ngồi bên ban-công nhìn ra mặt hồ.

- Thay mặt khách sạn Hà Thành tôi nhờ ngài chuyển lời xin lỗi tới ngài Đại sứ… Chúng tôi còn có nhiều khiếm khuyết với khách. Tôi mới được chuyển về khách sạn này sau cái sự kiện buổi lễ trình Quốc thư ấy.

- Ồ, xin chúc mừng bà. Không sao, không sao. Một sự cố vặt. Tôi tin, sự có mặt của bà ở khách sạn Hà Thành sẽ làm cho khách sạn trở nên hấp dẫn. Riêng tôi, tôi sẽ đăng ký một căn phòng ở đó. Bà có còn nhớ những ngày tôi ở khách sạn Hoa Sen hơn ba năm trước đây không? Có lần tôi đã làm nũng như một đứa trẻ. Tôi không thể ăn ngon miệng được nếu mỗi ngày không được nhìn thấy “Đêm trăng vàng” - Pôn nói và nhìn Nguyệt chăm chú đến mức Nguyệt phải quay nhìn ra mặt hồ.

- Xin hỏi thật ngài. - Nguyệt nói một cách nghiêm trang - ngài có cảm nghĩ gì về ngành du lịch của chúng tôi?

- Nó không hề có ý niệm gì đối với tôi, ngoài bà. - Pôn nhún vai.

- Xin ngài hãy coi cuộc nói chuyện này như một cuộc đối thoại nghiêm túc giữa một người làm dịch vụ du lịch và khách. Ngài là người quen biết cũ nên tôi hy vọng rằng câu chuyện của chúng ta sẽ không khách sáo, vô bổ…

Một biện pháp nghề nghiệp thật tế nhị, - Pôn nghĩ. - Nàng sẽ thất vọng nếu như ta chỉ nói những điều chung chung vô thưởng vô phạt. Nhưng liệu nàng có vượt qua được sự tự ái dân tộc, nếu ta nói sự thật?

- Ngài ngại ngùng chăng?

- Ồ, thưa bà. Tôi chỉ không muốn phá vỡ một đêm tuyệt vời… Nhưng nếu bà muốn nghe sự thật thì… Yôi rất lấy làm phiền lồng phải nói với bà rằng, ở Việt Nam chưa có ngành du lịch, hay nói đúng hơn là đất nước này mới đang bắt đầu tập làm du lịch. Có một nguyên nhân khách quan là Việt Nam mới trải qua một cuộc chiến tranh khốc liệt. Nhưng mười lăm năm rồi, thưa bà, kể từ năm 1975 ấy. Một thập kỷ đủ làm cho một quốc gia tạo nên một bước nhảy vọt. Huống chi Việt Nam là một đất nước anh hùng. Con người Việt Nam thông minh, rất thông minh… Chắc bà hiểu hơn tôi, rằng nhiều nước trên thế giới hiện nay tỷ trọng thu nhập của ngành du lịch trong toàn bộ ngân sách quốc gia lớn đến mức nào. Thuỵ sĩ chỉ có hơn một triệu dân mà mỗi năm đón tới hơn mười triệu khách du nlịch. Thái Lan đang là một nước ở Châu Á thu hút nhiều khách du lich. Châu Á đang là tâm điểm thu hút khách du lịch thế giới… Tôi không hiểu nổi vì sao ở Việt, một đất nước có tiềm năng thiên nhiên phong phú, có con người tuyệt vời mà lại không thu hút được khách du lich. Vì cái mà người ta gọi là cơ chế chăng? Nói vậy chung chung quá. Phải chỉ ra một cái gì cụ thể. Đó là những con người thực thi công việc này. Các bạn sợ bỏ vốn đầu tư. Các bạn không có những người làm du lịch giỏi. Các bạn vừa muốn người nước ngoài vào nhiều lại vừa muốn cản họ. Làm sao mà khách muốn đến đất nước này khi mà tất cả các cửa khẩu đều bị khám xét hết sức phiền hà? Khi mà một sân bay quốc tế như Nội Bài hoang dã như một trại nuôi bò, một khách sạn như Hà Thành thiếu từ chậu nước tắm rửa. Người đã đi du lịch, tức là họ không tiếc tiền. Có thể chi cho một chuyến đi bằng cả một năm lao động, dành dụm. Đi hai trăm ki-lô-mét đến một danh thắng tuyệt vời như Hạ Long sẽ là một chuyến đi tuyệt vời, nếu du khách chỉ mất hai giờ đồng hồ và con đường êm ru đến mức không gây một sự mệt mỏi nào, nhưng sẽ là một cuộc tra tấn nếu như phải qua một đoạn đường như ra mặt trận và rất có thể phải ngủ lại dọc đường vì tắc xe, nhỡ phà. Tiện đây cũng xin nói với bà rằng, ngay ở Hà Nội này, có một điểm du lịch lý tưởng là Hồ Tây, mà suốt bao nhiêu năm qua đã bị bỏ phí hết sức đáng tiếc. Tại sao không thể làm một bãi tắm nhân tạo ở đây? Tại sao không xây dựng xung quanh hồ những ngôi biệt thự cho du khách, không đóng hàng chục du thuyền, không xây dựng những bến cảng? Hồ Baltông, hồ Giơnevơ hàng năm đón hàng triệu du khách là vì người ta đã khai thác triệt để tiềm năng của chúng… Tôi thật tiếc cho Hồ Tây của Hà Nội. Một cô gái tuyệt đẹp mà không mấy ai biết đến….

Trong đầu Pôn vụt thoáng một ý nghĩ: giá như Nguyệt là của anh, giá như nàng yêu anh, anh sẽ xin với chính phủ Việt Nam bỏ tiền ra xây một khách sạn năm sao hiện đại ngay bên mép hồ kia. Và Nguyệt sẽ trở thành một bà chủ giàu có, một niềm hãnh diện của xứ sở này. Ý nghĩ ấy Pôn đã kịp kìm giữ lại, khi thấy Nguyệt thở dài, đôi mắt nhìn xa xăm ra khoảng trời đêm.

Ông ấy đã nói đúng. Nguyệt thầm nói với mình. Chị buồn bã nghĩ lại những sự việc ở khách sạn Hà Thành trong những ngày vừa qua. Ông Lẫm có lý chăng khi nói rằng Nguyệt là một con thiêu thân? “Tôi khuyên cô nên rút đơn lại. Chi bộ chúng tôi sẽ xử lý nội bộ. Cô Kim Thanh có làm sai nguyên tắc tài chính kinh tế, nhưng thực ra cũng là xuất phát từ quyền lợi tập thể, muốn tìm cách cải thiện thêm cho anh em. Phải nghĩ đến tình trước khi nghĩ đến lý. Đảng uỷ và lãnh đạo hãng đã cho ý kiến về xử lý việc này. Cô cứ để chúng tôi lo. Đừng làm rắc rối vấn đề, sẽ ảnh hưởng đến uy tín của ngành”. Nguyệt thấy thương hại cho ông già. Mấy hôm trước còn hăng hái gợi ý Nguyệt hãy dũng cảm đấu tranh, giờ cấp trên vừa chỉ thị đã vội xun ngay lại. “Nếu bác sợ phải liên luỵ thì cứ để mặc tôi. Cả chị Bích San nữa, chi bộ hãy cứ đứng ngoài. Chỉ cần các vị trung thực, đừng đổi trắng thay đen sự việc”. “Nhưng cô sẽ được cái gì trong cuộc đấu tranh này? không chừng mà cô sẽ bị mang tiếng là người chuyên môn đấu đá, gây mất đoàn kết”. “ Đoàn kết theo cái kiểu bao che cho bọn người lợi dụng khách sạn để kiếm chác ư? Xin lỗi bác, tôi không quen sống theo cái kiểu đó. Nói bác đừng giận, bác nên nghỉ hưu đi. Không muốn làm việc nữa thì nghỉ, chứ đừng ngồi lì gây cản trở cho người khác. Cái khách sạn này bê trễ như bây giờ chính là do bác một phần”. Nguyệt không kìm giữ được mình. Lời nói thật của Nguyệt đã đẩy ông già tội nghiệp ấy sang phía đối lập với chị. Ngày hôm sau cả khách sạn ồn lên những lời hậm hực: “ Chỉ tại bà Nguyệt mà tháng này mỗi người mất một chỉ vàng”. Những người tích cực ủng hộ Nguyệt, hoặc là im lặng, hoặc là lảng xa chị. Riêng nhóm Kim Thanh, Mỹ Lệ vênh váo và hằn học ra mặt. Họ xầm xì lôi kéo mọi người. Liền trong một tuần lễ họ phát ba lần tiền thưởng và bồi dưỡng cho tất cả cán bộ công nhân viên trong cơ quan để mua chuộc. Chỉ cần mỗi tháng thêm một trăm ngàn, vài lạng len, dăm gói mì chính thì quỷ xa- tăng cũng biến thành đức thánh tông đồ, kẻ biển lận và tham nhũng bỗng hoá thành người thánh thiện hết lòng vì tập thể. Nguyệt chua chát khi biết mình đã thành kẻ đơn độc. Đấu tranh cho sự đổi mới của khách sạn đã khó như thế, huống chi cả một ngành du lịch - cái túi mấy chục năm nay dành để chứa đựng những người có lý lịch trong sạch ba đời, những kẻ con ông cháu cha dốt nát và vô nghề nghiệp mà năng lực và phẩm cách không đáng để phục vụ một đám cưới ở nhà quê…

- Xin lỗi, hình như tôi đã làm cho bà buồn, - Pônvericơn khoanh hai tay trước ngực như một kẻ có lỗi.

- Không sao, - Nguyệt vội vã lắc đầu,- Ngài rất chân thành. Dường như ngài có một điểm gì đó giống tôi về mặt tính cách. Đó là nhu cầu nói ra sự thật. Ở đất nước tôi có câu tục ngữ: “ Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng".

Còn một câu tục ngữ khác, thưa bà: “ Đóng cửa trong nhà bảo nhau”. Hình như tính cách người Việt Nam thích hợp với câu tục ngữ này hơn. Tiếp xúc với đồng bào của bà, tôi thấy họ kín đáo tới mức khó hiểu. Họ ngại nói ra sự thật. Tính cách này là sản phẩm của nền văn hoá Á Đông mà mỗi làng quê là một ốc đảo, bị đóng kín bởi những tập tục truyền thống. Những người cộng sản Việt Nam khi nắm chính quyền cũng không thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục ấy. Mọi chính sách ngoại giao, thương mại, du lịch dù cởi mở đến đâu cũng vẫn luôn ở tư thế sẵn sàng đóng cửa. Thú thực với bà, tôi rất quý mến đất nước của bà, và nhất là riêng bà, nhưng tôi e ngại rằng, trong thời đại thông tin và khoa học kỹ thuật bùng nổ này, sự đóng cửa, về mọi phương diện, chỉ dẫn tới một hiệu quả đáng buồn là biến đất nước tươi đẹp này thành một bảo tàng của thế giới văn minh…

- Hình như chúng ta đi quá xa câu chuyện… - Nguyệt e ngại nhìn quanh. Cái thói quen đề phòng của một thời cấm kỵ giao tiếp với người nước ngoài vẫn luôn ám ảnh chị. - Xin ngài thứ lỗi. Tôi có việc phải về. Mong sẽ gặp được ngài như một người bạn…

- Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ gặp nhau thường xuyên hơn - Pôn đứng dậy đưa tiễn Nguyệt ra cửa. Anh định nói với Nguyệt cái quyết định vừa chợt loé của mình, nhưng anh vội dừng lại. Hãy để cho nàng bất ngờ. Pôn muốn như vậy.

Hai ngày sau, khách sạn Hà Thành đón một người khách mới. Đó là Pôn Vericơn.

- Tôi đã đăng ký trước với bà Hoàng Dạ Nguyệt, - Pôn nói với Thuý, người phụ trách lễ tân, và đưa cho cô tấm danh thiếp kèm theo một bó hoa cúc vàng thắm. - Xin phiền cô chuyển giúp tới bà Hoàng Dạ Nguyệt.

Nguyệt bất ngờ và có phần hốt hoảng vì sự xuất hiện của người khách quen này. Toà đại sứ Seăngđi đã sửa xong lâu rồi, sao ông ta lại thuê một phòng ở đây? Khó có thể từ chối, nhưng tiếp nhận tức là sẽ chuốc lấy bao sự phiền toái… Bằng kinh nghiệm và linh cảm của một người quen tiếp khách nước ngoài, Nguyệt đã mường tượng ra mọi điều.

- Em báo cáo với bác Phạm Lẫm và xếp cho ông ta một buồng ở tầng hai. - Nguyệt nói với Thuý. - Nhờ em chuyển lời cảm ơn của chị tới ông ta. Nói rằng chị đang bận việc, chưa thể tiếp ông ta được.

Vậy là Pôn có một căn phòng ở khách sạn Hà Thành. Anh thuê dài hạn, và tỏ ra một người khách hết sức hào phóng, có ý định tổ chức một chỗ ở lâu dài.

Người quan tâm đến sự có mặt của Pôn ở khách sạn Hà thành đầu tiên là bà Bích San, bí thư chi bộ. Trong tủ tài liệu ở phòng làm việc của bà ở khách sạn có thêm một cuốn sổ mới, bia đỏ.

Trang đầu tiên:

“Hết sức nưu ý - người khách ở phòng số 23- Pônvericơn. Đã có phòng ở trong toà đại sứ nước Cộng hoà Scăngđan, tại phố X. Tại sao anh ta nại đến đây? Vụ đại sứ Scăngđan bị chậm giờ, chính anh ta đã báo cáo với Vụ lễ tân Bộ ngoại giao về việc mất nước khi đại sứ đang tắm ở khách sạn Hà Thành. Với mục đích gì? Phải chăng muốn bêu xấu ngành du lịch?

“Ba năm trước Pôn vericơn đã từng là thành viên UNESCO ở Việt Nam. Anh ta hay tới các di tích nịch sử, các đền chùa cổ, thích sưu tập các đồ cổ. Với dụng ý gì? Phe đồ cổ hay tìm những tài niệu do Pháp để lại?

“Những năm trước, tại khách sạn Hoa Sen, anh ta đã quen thân với Hoàng Dạ Nguyệt. Cuộc nói chuyện tại khách sạn Thắng Lợi đêm quốc khánh, phải chăng là một sự móc lối? Nưu ý cô Nguyệt có hai người chị bên Pháp, di tản từ trước năm 1954. Nưu ý ý kiến của anh Bùi Sùng về trường hợp có bàn tay địch phá hoại ngầm. Việc Nguyệt mời Pôn vericơn trở lại khách sạn Hà Thành có nằm trong âm mưu này không? Cần báo cáo với bên công an.

“Thống nhất với anh Lẫm và chị Kim Thanh tạm thời để cô Mỹ Lệ người bán bar lên phụ trách phòng 23. Cô Mỹ Lệ có trách nhiệm theo dõi mọi hoạt động của Pôn vericơn. Phát hiện dấu hiệu gì phải báo cáo ngay với tổ chức.

“ Nưu ý động cơ của cô Nguyệt trong vụ đấu tranh với cô Kim Thanh. Pôn đến khách sạn đúng vào thời điểm Nguyệt kiên quyết đòi ban thanh tra của hãng xuống làm việc với khách sạn. Rất có thể anh ta sẽ khai thác những tư niệu để phục vụ cho ý đồ xuyên tạc chủ nghĩa xã hội”.

Cuốn sổ và những dòng ghi chép hàng ngày làm cho Bích San phấn chấn hẳn lên. Khác với những ngày trước đây, những ngày bà đến cơ quan như một cái bóng, chẳng có công việc gì cụ thể, chẳng ai cần thỉnh thị, báo cáo, hoặc trao đổi ý kiến gì, bây giờ bà đã có một công việc cụ thể, đúng với chức năng và nhiệm vụ của mình, một công việc quan trọng, hoàn toàn thuộc lĩnh vực tư tưởng chính trị đúng với cương vị của người làm công tác Đảng.

Nhãn quan chính trị của bà Bích San phải nói rằng hết sức tinh nhạy và đã ngấm vào máu thịt của bà như một tín điều. Ngày cải cách ruộng đất, mới là một cô gái mười bảy tuổi, San đã ngồi trên ghế thẩm phán đấu tố địa chủ. Sự kiện chính trị đầu tiên khiến San từ một cô gái nông thôn mới qua lớp một trở thành một cán bộ cốt cán được đội cải cách tin cậy là cô đã tự dựng lên câu chuyện ông chú ruột hãm hiếp cô ở chuồng trâu trong thời gian ông ta nuôi cô khi bố mẹ cô chết. Trường đấu hôm ấy đông nghịt người. Quần chúng lặng phắc khi San sa sả xỉa xói vào mặt ông chú ruột, rồi vỡ bung ra hàng nghìn tiếng thét đòi tử hình tên địa chủ gian ác. Lão chú ruột đê tiện nhìn cô cháu gái trừng trừng, rồi bất ngờ cắn lưỡi định tự sát, Nhưng lão không chết. Đội đã kịp thời cứu lão và dựng lão dậy để quần chúng đấu tố tiếp. Sau sự kiện ấy, San hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ, đoạn tuyệt luôn cả họ hàng thân thích. Cô theo một anh cán bộ đội cải cách đến làm cấp dưỡng ở một cơ quan huyện. Rồi cô được kết nạp Đảng, được đi học bổ túc, được đề bạt làm cán bộ tuyên huấn của hội phụ nữ huyện. Nếu có năng lực và trình độ văn hoá, chắc chắn Bích San còn tiến xa, bởi chồng cô liên tiếp được đề bạt từ huyện lên tỉnh, từ tỉnh về Trung ương, bởi cô thuộc thành phần cơ bản, có mối thù xương máu với phong kiến đế quốc, lại là phụ nữ, thuộc diện ưu tiên số một khi cất nhắc vào cơ cấu. Nhưng Bích San mắn đẻ quá, sáu năm đẻ liền bốn đứa lại không giỏi ăn nói và giao thiệp. Bài tuyên huấn duy nhất của San là “ Xin nưu ý”, “ Phải đề phòng…” thành thử tổ chức không thể chiếu cố mãi được. Rời hội phụ nữ huyện, Bích San theo chồng lên tỉnh, làm công đoàn ở một công ty rau quả. Khi ông chồng về Trung ương, Bích San về Hà Nội, tiếp tục làm công tác công đoàn ở Công ty du lịch, và gần đây, được sự gợi ý của cấp trên, San được cử về làm bí thư chi bộ của khách sạn Hà Thành.

Ở khách sạn Hà Thành, bà Bích San hầu như không có việc gì để làm. Bắt đầu thời xoá bao cấp, khách sạn chuyển dần sang hạch toán, ban chủ nhiệm chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ quản về mọi chỉ tiêu kế hoạch, thu chi hàng tháng, nên việc động viên tư tưởng chung chung trước đây cùng mọi hoạt động thi đua hình thức dần dần bị loại bỏ. Làm bí thư chi bộ mà bị vô hiệu hoá, bị coi như người thừa, thì thật buồn. Mà ức nữa chứ. Ông Lẫm chủ nhiệm vừa kém năng lực, vừa nhu nhược. Cô Kim Thanh thoả sức hoành hành. Đề nghị họp chi bộ, cô ta bảo: “ Thư thư đã chị ạ. Họp mà ra tiền ra bạc, thì khách sạn mình đã giàu to rồi. Đang lo tháng này kiếm đâu ra tiền để chi lương cho anh chị em đây”. Trao đổi về việc chấn chỉnh lại bộ tứ, cô ta gạt phắt: “Bây giờ còn tam tứ cái gì nữa. Không đảm bảo doanh số tháng này, công đoàn, chi đoàn có chịu trách nhiệm trước hãng không?” Mọi ý định bị gạt ở hãng mà bà Bích San đành cắn răng chịu. Thời buổi nó thế biết làm sao. Đành hàng ngày đến cơ quan đọc mấy tờ báo, thỉnh thoảng họp nghe phổ biến nghị quyết, thời sự để rồi... để đấy. Lâu dần rồi cũng quen. Mặc cô Kim Thanh thao túng, mặc ông Phạm Lẫm nhu nhược. Cái chức bí thư kể cũng nhàn.

Nhưng rồi Nguyệt về khách sạn. Bà bí thư đảng quen yên phận bỗng bị dựng dậy. “Chị là bí thư chi bộ mà để khách sạn như thế này sao? Quần chúng biết tin vào ai?” Thế là bà Bích San lại ý thức được vai trò của mình, sồn sồn lên: “Đúng, cô nưu ý tới tôi như thế là rất đúng. Không để một cá nhân lộng hành coi thường sự lãnh đạo của Đảng được. Một năm nay cô Kim Thanh đã vô hiệu hoá bộ tứ, vô hiệu hoá cán bộ. Một cơ quan hàng ngày tiếp xúc với khách nước ngoài mà Đảng không lắm được tư tưởng, không điều hành đuợc tổ chức thì hỏng đến nơi”. Như một cỗ máy được lên dây cót, bà Bích San bắt đầu khởi động một cách quyết liệt. Vụ Nguyệt phát hiện nhóm Kim Thanh bán hàng ăn chênh lệch giá và lập quỹ đen trái phép khiến bà mở cờ trong bụng. Cơ hội giành lại quyền lực đã kéo bà xích vào Nguyệt, suốt ngày thầm thì chị chị em em hơn cả ruột thịt. Nhưng buồn thay, cỗ máy vừa được lên dây cót ấy đã đứng sựng lại, rồi chuyển động ngoắt một trăm tám mươi độ ngược lại khi Bùi Sùng thay vào đó một thứ dây cót khác.

Bây giờ, giống như cái cô San hồi cải cách ruộng đất, bà Bích San lại sôi sục trong từng mạch máu cái ý chí bảo vệ uy tín của tổ chức, đề cao cảnh giác cách mạng. Thật hú vía, suýt nữa thì theo đuôi quần chúng, phản lại ngót ba mươi năm đi theo cách mạng của mình. Dù trong tình huống nào cũng phải bảo vệ lấy tổ chức. Một cá nhân mắc khuyết điểm, nhưng tổ chức thì bao giờ cũng sáng suốt, trong sạch. Chủ nghĩa xã hội đã kéo mình từ bùn đen lên thành một người cán bộ cách mạng. Dù chết cũng phải bảo vệ thành quả của cách mạng. Anh Sùng nói rất thấm thía.

Phải vạch trần bộ mặt anh chàng Pôn Vericơn này. Bà Bích San gấp quyển sổ bìa đỏ lại, thầm hạ một quyết tâm. Vừa lúc đó cánh cửa phòng bật mở.

A, cô Kim Thanh. Vào đây. Này, cái tay Pôn ấy, cô phải bảo cô Mỹ Lệ theo dõi nó chặt chẽ vào nhé. Tay này dứt khoát là có vấn đề đấy.

- Hôm vừa rồi tiếc là không chụp được bô ảnh cô nàng nhảy đầm với lão ta ở khách sạn Thắng Lợi. Em đã báo cáo việc này với anh Bùi Sùng rồi. Bộ nội vụ người ta đang theo dõi mối quan hệ này đấy, chị ạ. Chính trị một trăm phần trăm. Cái sự việc của em mà cô nàng dựng lên cũng nằm trong âm mưu này. Theo ý kiến chỉ đạo của chị, em đã thôi không để Mỹ Lệ bán bar nữa, chuyển lên phục vụ phòng 23 để theo dõi hắn.

- Phải hết sức bí mật đừng để cô Nguyệt biết ý đồ của chúng ta.

- Dạ vâng, em đã dặn Mỹ Lệ rồi…

Kim Thanh ngọt ngào và lễ phép như một cô dâu hiền trước mặt mẹ chồng, khiến bà Bích San nở từng khúc ruột. Tính bà rõ thật dễ chiều. Dường như bà đã quên hết những lần gặp gỡ trước đây với Kim Thanh khi mà cô ta một mình thâu tóm mọi quyền hành và kinh tế ở khách sạn.

- Nhân đây em cũng xin ý kiến chị, - Thanh thẽ thọt - Trong kho của mình còn sáu mươi cân len và tám tạ mì chính. Đợt chia tiền thưởng này, em định kết hợp chia cho anh chị em, gọi là bồi duỡng làm thêm giờ. Như vậy mỗi cán bộ từ tổ trưởng trở lên sẽ được hai trăm ngàn, cán bộ nhân viên khác một trăm ngàn, cộng với năm lạng len và sáu gói mì chính. Số còn lại bốn mươi suất sẽ dành làm quà tặng các đồng chí trên tổng cục, công ty và hãng.

- Tôi thì thế nào cũng xong, - Bích San cười dễ dãi. - Nên thống nhất chung với anh Lẫm và cô Nguyệt nữa…

- Anh Lẫm cũng đồng ý rồi. Riêng cô Nguyệt thì em không cần phải trao đổi. Bởi đây là số lãi của khách sạn có trước ngày cô ấy được điều về, - Đang nói Kim Thanh bỗng chau mày xì ra một tiếng. - Rõ là đạo đức giả. Ba lần trước chia tiền cô ta không nhận. Em bảo tài vụ nhập vào quỹ… đã có tiền lão Pôn nó tống cho rồi mà. Cái nhẫn cô ta mới đeo chị có để ý không? Quà súvơnia đó. Hôm qua, mới có người cho em biết, hồi làm ở khách sạn Hoa Sen, có người bắt hai người ngủ với nhau trong phòng lão Pôn.

- Thật vậy sao? Thế thì phải nưu ý…

- Em giao cho Mỹ Lệ phải bắt được quả tang trong dịp tới này. Lão Tuấn rồi chỉ có chui đầu xuống đất. Báo bổ, hung hăng cho lắm vào.

Kim Thanh vừa ra khỏi, bà Bích San đã vội giở ngay quyển sổ bìa đỏ. Hãy nưu ý. Vừa viết bà vừa mường tượng ra cái cảnh bắt quả tang hai người trần như nhộng trong phòng.