- III -
ĐÃ CÓ LẦN CORRIGAN NÓI VỚI TÔI rằng Chúa thực ra không khó hiểu. Người đi đến nơi phải đến thế thôi. Và nán lại nơi cần Người. Người chẳng đem gì theo mấy, một đôi dép, một manh áo, thêm vài thứ đồ lặt vặt để chống chọi với nỗi cô đơn. Người không khi nào quay mặt với nhân gian. Nếu làm thế thì đồng thời người cũng từ bỏ nhiệm màu. Mà nếu từ bỏ những điều nhiệm màu, coi như Người đã từ bỏ niềm tin.
Điều mà Corrigan mong đợi là một đức Chúa có thể tin cậy tuyệt đối, người mà ta có thể tìm thấy giữa lầm than đời thường. Niềm an ủi mà nó rút ra từ những thực tế lạnh lùng và tàn khốc - rác rưởi, chiến tranh, nghèo đói - chính là cuộc sống còn chứa đựng những vẻ đẹp giản dị. Nó không hứng thú với những câu chuyện về kiếp sau rực rỡ hay cõi thiên đường ướp mật. Đối với nó đó chỉ là phòng thay đồ trước khi vào địa ngục. Nó thích tự an ủi rằng ở thế giới hiện thực này, nếu nó chịu nhìn thật gần vào bóng tối, thì nó có thể tìm được ánh sáng, dẫu bị hủy hoại hay bị làm méo mó nhưng vẫn tồn tại. Điều nó muốn khá đơn giản, chỉ là một thế giới tốt đẹp hơn bây giờ, và hy vọng về điều đó đã thành nếp quen trong nó. Điều đó đem đến cảm giác vui sướng vượt ngoài khuôn khổ lý giải kiểu thần học, một nguyên do để lạc quan bất chấp tất cả.
Một ngày nào đó những người hiền lành tử tế có lẽ sẽ thực sự mong muốn điều đó, nó nói vậy.
Sau khi mẹ mất, chúng tôi bán ngôi nhà đi. Bố lấy một nửa số tiền. Corrigan quyên tặng phần của nó. Nó sống bằng khoản cứu tế của những người xung quanh và bắt đầu nghiền ngẫm tác phẩm của thánh Francis thành Assisi. Nó có thể lang thang khắp thành phố và đọc sách trong nhiều tiếng đồng hồ liên tục. Nó tự làm cho mình một đôi dép từ da vụn và tròng vào những đôi tất chẳng ăn nhập gì với nhau. Nó gây chú ý trên các nẻo đường Dublin vào giữa thập niên sáu mươi với tóc tai xõa xượi và chiếc quần rộng thùng thình, mấy cuốn sách kẹp dưới cánh tay. Nó có cái kiểu bước dài mà không dứt khoát. Nó đi khắp nơi không một xu dính túi, không áo khoác, không cả áo sơ-mi. Tháng tám hàng năm, vào lễ kỷ niệm sự kiện ở Hiroshima, nó lẩn vào giữa những vòm cổng của tòa nhà Quốc hội trên đường Kildare, trải một đêm vọng âm thầm, không chụp ảnh, không phóng viên, chỉ mình nó và vỏ thùng các-tông trải trên nền đất.
Khi em tôi mười chín tuổi nó bắt đầu theo học các thầy thuộc dòng Tên ở trường Emo. Tinh mơ dậy làm lễ Mi-xa. Sau đó là nhiều giờ liền cho môn thần học. Chiều chiều đi dạo trên đồng. Tối tối đi dọc sông Barrow, khẩu cầu thiên Chúa hiển thân dưới những vì sao. Buổi kinh sáng, buổi kinh trưa, buổi kinh chiều, khóa vãn cuối ngày. Kinh tụng, thánh thi, phúc âm. Những thứ ấy khép niềm tin của nó vào khuôn khổ nghiêm ngặt, buộc nó vào một mục đích. Nhưng những ngọn đồi của hạt Laois không giữ được chân nó. Nó không thể chỉ là một tu sĩ bình thường - đó không phải cuộc sống dành cho nó; chính nó cũng không nói rõ ra được, nhưng nó biết mình cần nhiều không gian hơn cho để xác tín những mối hoài nghi còn ôm ấp. Nó rời Nhà Tập và tới Brussels, gia nhập một nhóm những thầy tu trẻ nguyện sống trinh bạch, kham khổ và vâng phục. Nó sống trong một căn phòng nhỏ ở trung tâm thành phố. Nuôi tóc dài thêm. Vùi đầu vào những cuốn sách của Augustine, Eckhart, Massignon, Charles de Foucauld. Đó là cuộc sống của những người lao động bình dị, tràn đầy tình thân hữu và đoàn kết. Nó nhận lái một xe tải chuyên chở hoa quả cho một hợp tác xã địa phương và thành lập công đoàn cho một nhóm công nhân nhỏ ở đó. Trong khi làm việc nó không mặc áo quần của thầy tu, không đeo tràng hạt, không mang theo Kinh Thánh, và thường chỉ thích ngồi im lặng, dù là khi giữa những đạo hữu của nó.
Chẳng mấy ai quen nó được biết về tín ngưỡng nó theo, kể cả ở những nơi nó ở lại lâu nhất cũng vậy, mọi người thường dành cho nó sự cảm mến như khi nhớ về một kỷ nguyên nào khác, khi thời thế chừng như chậm rãi, ít phức tạp như bây giờ. Niềm tin của Corrigan không lay chuyển dù có phải chứng kiến những cách đối xử tồi tệ nhất giữa người với người. Có lẽ nó quá ngây thơ, nhưng cả điều đó cũng chẳng khiến nó bận tâm; nó nói thà chết với niềm tin còn hơn lĩnh kết cục của một kẻ yếm thế.
Đồ đạc duy nhất mà nó mang theo là chiếc bục quỳ cầu nguyện bằng gỗ sồi và giá sách. Trên giá xếp nhiều tập thơ mang màu sắc tôn giáo, tác giả đa phần khá cấp tiến, và sách của mấy nhà thần học giải phóng. Nó mong mỏi được đến nước nào đó thuộc Thế giới thứ ba nhưng chưa có dịp. Brussels đã trở nên quá quen thuộc. Nó muốn một nơi khắc nghiệt hơn. Nó đã tới những khu nhà ổ chuột ở Naples, làm việc với những người nghèo ở khu dành cho dân Tây Ban Nha, nhưng rồi lại được cử tới New York vào đầu thập niên bảy mươi. Nó không thích quyết định này, thậm chí đã từ chối vì cho rằng New York quá kiểu cách và sạch sẽ, nhưng không cách nào cãi được các bậc bề trên, nó được cử đi đâu thì phải đến đúng chỗ ấy.
Nó lên máy bay với một chiếc va li đựng đầy sách, bục cầu nguyện và một quyển Kinh Thánh.