← Quay lại trang sách

- V -

HÀNG GIỜ, HÀNG GIỜ ĐỒNG HỒ trong bấn loạn và trốn chạy. Dãy nhà ổ chuột là nạn nhân của trộm cắp và gió. Những luồng gió hun hút đã tự tạo ra một thứ thời tiết riêng. Những chiếc túi bóng bay lồng trong gió bụi mùa hè. Những người già ngồi chơi cờ đô-mi-nô trong sân nhỏ, giữa mớ rác rưởi xoay lượn chung quanh. Tiếng túi táp gió roàn roạt nghe như súng nổ. Chỉ cần quan sát đám rác rưởi trong giây lát là có thể biết chính xác dáng hình của gió. Nói cách nào đó cảnh tượng này cũng có vẻ lôi cuốn của nó, như vài thứ hiếm hoi khác quanh đây: những hình xoáy tròn, xoắn ốc, hình số tám thật lớn đủ màu trên tường. Thi thoảng cạnh túi bị cuốn ép vào đường ống hay khẽ chạm đỉnh rào kẽm gai bèn điên cuồng giật ngược lại như đã biết sợ. Quai túi bạt gió chập dính lại, cái túi liền rơi xuống. Ở đây không có cành cây nào để mà cản đường rơi của nó. Một thằng nhóc trong căn hộ hàng xóm chọc chiếc cần câu cong quẹo qua cửa sổ nhưng chẳng khều được gì. Thường thấy những chiếc túi đủ màu ép dồn lại một chỗ như yên lặng ngắm nhìn quang cảnh xám xịt xung quanh, rồi bất ngờ tà tà rơi xuống trong một vũ điệu lãng đãng tao nhã.

Hồi còn ở Dublin tôi vẫn tự lừa phỉnh bản thân là trong mình có chất thi sĩ. Nghĩ thế chẳng khác nào mang đồ cũ ra khoe. Mọi người ở Dublin đều là nhà thơ, có lẽ bao gồm cả mấy tên cho chúng tôi ăn bom làm vui trong buổi chiều hôm đó.

Tôi đã ở khu Nam Bronx này được một tuần, không khí thật ẩm ướt, có đêm phải kê cửa cho thật chặt. Bọn trẻ trên tầng mười ôm ti vi ném vào đầu đám tuần tra khu nhà đang đi rảo bên dưới. Hết ti vi thì một loạt thứ linh tinh khác nữa. Cảnh sát ập đến nện dùi cui. Tiếng súng nổ vẳng xuống từ nóc nhà. Trên đài phát một bài hát về cuộc cách mạng bị cô lập. Cảnh đốt phá ngoài đường. Cái thành phố này ngập trong rác rưởi, sống nhoi nhóc trên bẩn thỉu. Tôi phải thoát khỏi nơi này. Tôi dự định tìm một công việc, kiếm một chốn đi về nho nhỏ, có lẽ tôi sẽ viết kịch hoặc kiếm một công việc giấy tờ đâu đó. Trên báo thấy có mấy nơi đăng tìm người pha rượu và bồi bàn, nhưng tôi không thích những công việc kiểu vậy, trong đó toàn mấy tay mặc sơ-mi trần đội mũ dẹt. Tôi kiếm được chân nhân viên chào hàng thời vụ qua điện thoại nhưng muốn làm thì phải mắc đường dây điện thoại riêng trong căn hộ của Corrigan, biết kiếm đâu ra kỹ thuật viên chịu đến khu ổ chuột này cơ chứ. Đây không phải nước Mỹ trong tưởng tượng của tôi.

Corrigan viết ra cả một danh sách công việc tiềm năng cho tôi lựa chọn, quán Chumley’s ở khu Village, ban ngày thì có mấy việc ở cầu Brooklyn và công viên Trung Tâm. Tôi chẳng còn mấy đồng để mà kén cá chọn canh. Tôi ra chỗ cửa sổ và ngắm nhìn quang cảnh hàng ngày tuần tự phơi bày trước mắt. Rác rưởi đầy đọa tôi. Mùi hôi thối xông lên tới tận cửa sổ tầng năm.

Corrigan làm việc bởi đó cũng là một quy định trong luật dòng tu của nó. Nó lái xe tải chở những người già trong nhà dưỡng lão địa phương, cũng kiếm được ít đồng. Cái hãm xung xe nó được buộc lại bằng sợi dây cũng đã rỉ. Cửa sổ xe dán đề-can hòa bình. Đèn pha xe hơi treo lỏng lẻo trong lưới sắt bảo vệ. Nó đi biền biệt cả ngày, chăm lo cho những người ốm yếu. Chuyện khó nhọc của người khác lại như ơn tứ với nó. Sáng sáng nó ghé đón các cụ ở nhà dưỡng lão trên đại lộ Cypress, hầu hết là người Ireland, người Ý, thêm một ông già người Do Thái, được đặt biệt hiệu là Albee, thường mặc bộ com-lê màu ghi, đầu đội mũ tròn. “Ấy là gọi tắt tên Albert,” ông ta giải thích, “nhưng chú mày mà gọi ta là Albert thì ta sẽ đá đít chú mày đấy.” Nhiều buổi chiều tôi cũng ra ngồi cùng các cụ, nhóm ấy có cả đàn ông lẫn phụ nữ, đa phần là da trắng, đã bị gánh thời gian đè gập xuống như chiếc xe lăn họ ngồi. Corrigan lái xe hết sức chậm rãi để họ không bị nảy khỏi ghế. “Chú mày lái xe ẽo ợt thế hả,” Albee sốt ruột kêu lên từ ghế sau. Corrigan gập người gục đầu vào bánh lái mà cười nhưng chân vẫn đạp trên phanh.

Những chiếc xe con nối đuôi phía sau chúng tôi bắt đầu bấm còi. Thật là om sòm như chốn địa ngục. Không khí thật ngột ngạt. “Trời ơi chạy đi chứ, chạy đi nhóc!” Albee hét lên. “Đạp ga mẹ nó đi!”

Corrigan rời chân khỏi phanh rồi từ từ hướng chiếc xe tải về phía sân chơi ở công viên St. Mary’s, đoạn nó đẩy xe lăn các cụ đến dưới mấy bóng râm hiếm hoi. “Không khí thật trong lành quá,” nó nói. Các ông ngồi im lìm ngập sâu vào suy tưởng như những bài thơ của Larkin. Các bà ngồi run run gật gù trong làn gió nhẹ, ngắm nhìn sân chơi. Hầu hết lũ trẻ đang chơi là da đen hay gốc Tây Ban Nha, bọn chúng thi nhau nhảy xuống cầu trượt hay đu mình trên mấy thanh xà.

Albee tự lăn xe tới góc sân, rút túi lấy ra mấy tờ giấy. Ông ta gập chúng lại rồi không nói lời nào, viết nguệch ngoạc lên đó giấy bằng một cây bút chì. Tôi ngồi xổm xuống cạnh ông ta.

— Ông bạn già đang làm gì vậy?

— Cóc phải việc của chú mày.

— Cờ vua, phải không?

— Chú mày cũng chơi à?

— Chính thế.

— Thế chú mày có được xếp hạng không?

— Xếp hạng gì?

— Thôi, biến đi, chú mày cũng ẽo ợt nốt.

Corrigan nháy mắt với tôi từ mép sân. Đây là thế giới của nó, và nó không che đậy tình yêu mộc mạc dành cho tất cả.

Bữa trưa đã được chuẩn bị sẵn sàng ở nhà dưỡng lão nhưng Corrigan vẫn băng qua đường ghé tiệm bán rượu mua thêm cho họ ít khoai tây chiên, thuốc lá và một lon bia lạnh cho Albee. Tiệm có mái hiên màu vàng. Một máy bán kẹo cao su tự động đặt cạnh cửa chớp quấn ba vòng xích khóa. Một thùng rác bị lật úp ở góc tường. Hồi đầu mùa xuân này ở đây có vụ đình công của cánh công nhân vệ sinh, mãi tới giờ rác ứ đọng vẫn chưa được dọn sạch. Lũ chuột chạy dọc những rãnh nước. Chỗ lối vào cửa hàng có mấy tay thanh niên mặc áo không tay tướng tá bất hảo. Bọn họ quen Corrigan, có vẻ vậy, bởi trước khi mất hút vào bên trong nó nhiệt tình bắt tay cả loạt. Nó ở trong đó rất lâu, khi quay ra ôm theo một đống túi giấy lớn màu nâu. Một trong mấy gã lưu manh khi nãy lại vỗ vào lưng, nắm tay kéo sát nó vào người ra chiều thân thiết.

— Bằng cách nào vậy? - tôi hỏi. - Sao chú khiến mấy tay đó chịu nói chuyện với chú?

— Nhưng sao lại không chứ?

— Ừ thì, kiểu như mấy tay đó đâu có vẻ gì dễ gần.

— Đối với họ em chỉ là một tay cổ lỗ ít chịu chơi thế thôi.

— Chú không sợ à? Lỡ như đám ấy có súng, dao bấm hay gì gì đó thì sao?

— Sao em phải sợ chứ?

Chúng tôi lại cùng nhau đưa các ông bà cụ vào xe trở lại. Xong xuôi, Corrigan khởi động xe lái tới nhà thờ. Lúc trên xe các ông bà có tranh cãi tí đỉnh xem nên ghé nhà thờ Thiên Chúa hay giáo đường Do Thái. Nhà thờ phủ đầy hình vẽ grafiti đủ màu trắng, đỏ, bạc. TAG 173. GRACO 76. Những ô cửa sổ bằng kính màu đốm bẩn bị đá ném thủng. Cả cây thánh giá bên trên cùng cũng vấy sơn vẽ. “Thánh đường sống,” Corrigan bình luận. Ông già người Do Thái không muốn ra ngoài. Ông ngồi lại trong xe, đầu cúi xuống, im lặng chăm chú vào quyển sách. Corrigan mở thùng xe và lẳng thêm một lon bia qua ghế cho ông ta.

— Ông Albee không sao đâu, - Corrigan nói khi đi vòng ra trước. - Suốt ngày ông ấy chỉ quan tâm tới những ván cờ thôi. Ông từng đạt danh hiệu kiện tướng hay gì gì đấy. Trước ông ở Hungary, giờ lưu lạc đến Bronx. Lâu lâu ông gửi mấy trang thế cờ qua bưu điện đi đâu đó. Ông chơi được tận hai mươi ván cùng một lúc. Bịt mắt mà chơi cũng được. Cờ là thứ duy nhất khiến ông ấy tiếp tục sống.

Nó giúp những người còn lại ra khỏi xe rồi chúng tôi đẩy từng người tới cổng. “Để kê ván đã.” Bậc thềm dài dẫn vào nhà thờ nứt vỡ khắp chỗ, may là Corrigan cất sẵn hai thanh ván dài cạnh phòng cất đồ thờ. Nó đặt những tấm ván song song với nhau và đẩy xe lăn lên. Đầu kia của những tấm ván kênh lên cao do trọng lượng của xe lăn, trong giây lát gây cảm tưởng chúng dẫn thẳng lên trời. Corrigan đẩy xe về phía trước, đầu tấm ván từ từ hạ xuống. Trông em tôi thật thanh thản. Một thứ ánh sáng lấp lánh đọng nơi khóe mắt nó. Chừng như tôi thấy lại đứa bé trai chín tuổi ở Sandymount ngày xưa.

Nó lần lượt đẩy mọi người vào bên giá để nước thánh cho đến khi tất cả đã xếp thành hàng đầy đủ.

— Đây là khoảng thời gian em thích nhất trong ngày, - nó nói. Nó bước nhà thờ râm mát, đẩy xe lăn cho các cụ tới chỗ ngồi tùy thích, có người chọn ngồi dãy ghế sau, có người thích ngồi mé bên.

Một bà già người Ireland được đẩy tới dãy ghế đầu. Bà cứ quấn vào lại tháo ra chuỗi hạt. Tóc bà bạc mà còn phồng lên dày dặn, khóe mắt đỏ, và cái nhìn trừng trừng lơ đãng như hướng về cõi xa xăm nào. “Làm quen với bà Sheila nào,” Corrigan nói. Bà hầu như chẳng nói gì, phát ra âm nào cũng khó. Trước bà hát trong quán rượu, sau tắt cả tiếng bởi căn bệnh ung thư vòm họng. Bà quê gốc ở Galway[5] nhưng ngay sau Thế chiến I đã nhập cư vào Mỹ. Corrigan rất quý bà, nó lại ngồi cạnh bà, cùng đọc những lời kinh chính thống: trọn một bộ kinh Mân Côi. Tôi nghĩ bà chẳng hay biết về tín ngưỡng của nó, nhưng hễ cứ vào nhà thờ là bà như tỏa ra một thứ năng lượng chưa từng thấy ở nơi nào khác. Bà và Corrigan như đang cùng cầu Chúa ban một trận mưa lành.

Khi chúng tôi trở ra, Albee đang ngủ gà ngủ gật trong xe tải, nước dãi chảy cả xuống cằm. “Bực cả mình,” ông ta làu bàu khi động cơ nổ máy. “Ẽo ợt tuốt, cả hai đứa mày.”

Corrigan tấp xe vào nhà dưỡng lão khi đã xế chiều rồi thả tôi ngay trước khu nhà. Nó còn việc khác phải làm, nó nói vậy, đâu như phải đi gặp ai đó.

— Em đang tham gia một dự án nhỏ, - nó ngoái lại nói thêm. - Đừng lo. Lát em về.

Nó leo lên xe và với lấy vật gì trong ngăn để đồ vặt trước khi khởi động. “Khỏi thức đợi cửa,” nó nói to. Tôi đứng nhìn theo, cánh tay nó thò ra cửa sổ xe, vẫy vẫy. Nó đang giấu chuyện gì đó, tôi biết.

Trời đã tối đen như mực khi tôi thấy nó cuối cùng cũng trở lại, giữa những ả gái điếm đứng dọc đường Major Deegan. Nó rót café đá từ cái bình bạc lớn đặt trong thùng xe. Mấy cô ả xúm xít lại quanh nó chờ tới lượt. Jazzlyn mặc cái áo tắm một mảnh màu sắc chói chang. Cô ta túm căng phần lưng áo, kéo thả phần dây thun bật vào da bem bép, sán lại gần uốn éo sát hông nó. Cô ta cao, có nét con lai, và trẻ đến xốn xang. Cô tinh nghịch giơ tay đẩy lưng Corrigan. Nó chạy đùa một vòng quanh cô nàng, chân nhấc cao. Một tràng cười thét lên. Rồi cô ta chạy biến mất khi nghe tiếng còi xe. Dưới chân Corrigan lổn nhổn những chiếc cốc café giấy rỗng không.

Sau đó nó về phòng, trông hốc hác, mắt thâm quầng, kiệt sức.

— Buổi gặp mặt thế nào?

— À, tuyệt vời. - Nó qua loa. - Không có gì.

— Đi xem múa thoát y chứ gì?

— À, ờ, hộp đêm Copacabana, anh biết rồi còn gì.

Nó đổ sập xuống giường nhưng vừa sáng sớm đã lại vội vã dậy uống cốc trà trước khi đi. Trong nhà không có đồ ăn. Chỉ có trà, đường và sữa. Nó cầu nguyện rồi chạm vào cây thánh giá trước khi lại đi ra cửa.

— Lại xuống với mấy cô hả?

Nó nhìn xuống chân.

— Định là thế.

— Chú nghĩ đám đó thực sự cần chú hả Corr?

— Em không biết, - nó nói. - Em hy vọng thế.

Cánh cửa đung đưa trên bản lề.

Tôi chẳng bao giờ có hứng thú với mấy nhóm hội đạo đức kiểu thế. Không phải nơi dành cho tôi. Không phải việc của tôi. Ai có phận nấy. Gieo nhân gì thì gặt quả đó. Corrigan có lý do của nó. Nhưng những ả gái điếm này cứ làm tôi phải bận lòng. Bọn họ thật khác xa với những gì tôi biết. Ánh mắt phê cuồng. Say heroin ngất ngư. Mặc mỗi đồ tắm. Một số còn có vết kim tiêm ở sau đầu gối. Đối với tôi họ còn hơn cả xa lạ.

Tôi bỏ xuống sân, chọn đường vòng đi bọc quanh khu nhà, dò dẫm theo những bậc bê tông gồ ghề, cốt để tránh bọn họ.

Vài ngày sau, có một tiếng gõ cửa nhẹ. Một người đàn ông lớn tuổi cầm theo mỗi một chiếc va li. Là đạo hữu cùng dòng tu. Corrigan vội chạy tới ôm ông ta. “Kìa đạo hữu Nobert.” Ông này đến từ Thụy Sĩ. Đôi mắt nâu buồn buồn của Nobert làm tôi cảm tình. Ông ta nhìn quanh căn hộ, tỏ vẻ ái ngại, nói gì đó về chuyện Jesus và nơi lánh mình dưới hầm sâu. Ngay ngày hôm sau Nobert đã bị người ta dí súng cướp trong thang máy. Ông ta kể đã không do dự đưa cho họ tất cả, kể cả hộ chiếu. Mắt ông ta ánh lên như thể tự hào. Rồi anh chàng Thụy Sĩ này ngồi nghiêm chỉnh cầu nguyện suốt hai ngày liền, không rời khỏi căn hộ.

Corrigan hầu như ở ngoài đường suốt. Đối với nó, Nobert quá sức hình thức và chỉn chu. “Làm như ông ấy bị đau răng và muốn tìm Chúa nhờ chữa lành vậy,” Corrigan nhận xét.

Nobert từ chối ngủ trên ghế dài và nằm luôn dưới sàn nhà. Người ông ta cứng lại mỗi lần cánh cửa mở ra và những ả gái điếm bước vào. Jazzlyn ngồi luôn vào lòng ông, đưa ngón tay mơn trớn trên vành tai ông ta, làm xệch xạc đôi giày chỉnh tề của ông ta rồi giấu chúng phía sau ghế. Cô bảo nếu muốn cô sẽ thành bà hoàng của ông. Ông ta đỏ nhừ mặt mũi đến suýt khóc. Lúc sau, khi cô ta đi rồi, giọng cầu kinh của ông ta trở nên cao vút và điên cuồng. “Cuộc đời có Chúa mến yêu được xoa dịu, ngoại trừ nỗi đau. Cuộc đời có Chúa mến yêu được xoa dịu, ngoại trừ nỗi đau.” Ông ta vỡ òa trong nước mắt. Corrigan đã lấy lại được hộ chiếu cho Nobert và lái chiếc xe tải màu nâu đưa ông ta tới sân bay để đi Geneva. Họ cùng nhau cầu nguyện rồi Corrigan tiễn ông ta lên đường. Nó nhìn tôi như thể cầu mong tôi cũng sớm đi.

— Em không sao hiểu nổi những con người này, - nó nói. Họ là đạo hữu của em thật, nhưng em lại không thực sự hiểu họ. Hẳn em đã khiến họ thất vọng.

— Chú nên rời bỏ cái nơi không tiền đồ này đi Corr.

— Sao em lại rời bỏ? Cuộc sống của em là ở đây.

— Hãy tìm chỗ nào sáng sủa hơn. Hai anh em cùng đi. Anh có nhắm đến California hoặc một nơi nào tương tự thế.

— Ở đây em được cần đến.

— Bất kỳ nơi đâu chú cũng có thể được cần đến mà.

— Đây là nơi dành cho em.

— Chú lấy lại hộ chiếu cho ông ta bằng cách nào vậy?

— À, em chỉ đi hỏi thăm lòng vòng đây thôi.

— Nhưng ông ta đã bị chĩa súng cướp đấy Corr.

— Em biết.

— Cứ thế này có ngày chú bị thương thì sao.

— Thôi nào, tha cho em chút đi.

Tôi ngồi bên cửa sổ, nhìn chiếc xe đầu kéo lớn tấp vào gầm đường cao tốc. Mấy cô ả chen nhau chạy đến. Một hộp đèn quảng cáo đơn độc nhấp nháy phía xa, trên là quảng cáo bột yến mạch.

— Nơi đây đã là tận cùng thế giới, - Corrigan nói.

— Em vẫn có thể làm mấy chuyện này ở quê nhà. Ở miền Bắc Ireland lại chẳng cần sao. Belfast đó. Giúp đỡ cho dân ở đó. Giúp cho người mình.

— Em có thể, đúng vậy.

— Hoặc đi khai sáng cho nông dân vùng châu Mỹ Latin, đại loại thế.

— Ừm.

Vậy tại sao cứ ở nơi này?

Nó mỉm cười. Mắt nó thoáng dại đi. Tôi không hiểu thế nào nữa. Nó giơ tay lên cao phía quạt trần, như thể nó chuẩn bị đẩy đôi bàn tay vào những cánh quạt quay, mặc cho chúng bị xé nát.

Tờ mờ sáng, các cô gái đứng rải rác thành dãy dài dọc tòa nhà, ánh sáng của buổi sớm khiến họ như gầy đi. Sau lễ cầu kinh buổi sáng, Corrigan đi tới cửa hàng bán đồ ăn ở góc phố mua tờ The Catholic Worker. Xuyên đường hầm, qua đường, dưới mái hiên. Những ông già mặc mỗi áo lót ngồi bên cửa, đàn chim câu mổ những mảnh vụn bánh mì dưới chân họ. Corrigan bước ra ngoài với tờ báo gập dưới cánh tay. Từ đầu bên này tôi nhìn thấy nó đang quay trở lại, bóng nó đóng khung trong con mắt bê tông của đường hầm. Ra khỏi đoạn hầm tối, nó đi qua những ả gái điếm, bọn họ cất tiếng véo von gọi tên nó. Nghe ra ba cung bậc khác nhau. Corr-i-gan. Cor-rig-gan. Caw-rig-gun.

Nó qua hàng người nắm níu. Jazzlyn đứng nói chuyện với nó, ngón tay cái của cô ta móc vào dây áo bơi. Trông cô giống như viên cảnh sát thời xưa bị đặt vào nhầm cơ thể, cứ liên tục bật tanh tách dây áo mỏng màu vàng chanh trên ngực. Cô ta ngả người thật gần em trai tôi, làn da trần gần chạm vào ve áo nó. Nó không lùi lại. Dám chắc cô ả kiếm được tiền từ tất cả những trò mèo đó. Cơ thể trẻ trung nghiêng tới trước. Bật mạnh dây quai áo. Ưỡn núm vú sau lần vải. Đầu cô ta mỗi lúc một nghiêng gần hơn về phía em tôi.

Khi những chiếc xe hơi vụt qua, cô ta ngoảnh nhìn theo, bóng đổ dài trong buổi sớm. Chừng như cô ta muốn hiện diện ở mọi nơi, cùng một lúc. Cô ta ngả sát hơn về phía em trai tôi và thì thầm điều gì bên tai nó. Nó gật đầu, quay đi, trở lại cửa hàng bán đồ ăn mang về một lon Coca. Jazzlyn hoan hỉ vỗ tay, giật lấy lon coca, bật nắp lon rồi thong dong bước đi. Một dãy xe mười tám bánh đậu dọc xa lộ. Cô ta chống chân lên tấm lưới sắt màu bạc và nhấm nháp lon nước, rồi đột ngột ném lon nước xuống đất và leo lên xe.

Vừa tới cửa xe cô ta đã cởi xong mảnh áo tắm. Corrigan quay đi. Lon coca nằm gọn trong rãnh nước nhỏ đen ngòm dưới chân cô ta.

Việc đó cứ lặp đi lặp lại, Jazzlyn đòi một lon coca, rồi lại ném xuống đất khi khách vẫy.

Tôi tự nhiên muốn đi lại chỗ cô ta, ngã giá rồi tha hồ bắt cô ta làm đủ trò, túm tóc cô kéo sát vào mặt, cho tới khi ngửi thấy hơi thở dụ hoặc đó mà chửi rủa cô, khạc nhổ vào cô vì đã dám giày vò lòng tốt của em tôi như vậy.

— Này, anh nhớ để cửa mở cho mấy cô nhé? - Corrigan nói với tôi khi trở lên phòng. Tôi đã khóa cửa suốt buổi chiều, mặc cho bọn họ đấm cửa thùm thụp.

—Corrigan, sao bọn họ không về nhà mà đi vệ sinh?

— Vì họ làm gì có nhà. Ai cũng sống trong phòng chung cư thôi.

— Vậy sao không về chỗ đó đi?

— Vì họ còn có gia đình. Bố mẹ, anh chị em rồi con cái. Họ không muốn người thân nhìn thấy mình ăn mặc như vậy.

— Họ cũng có con sao?

— Có chứ.

— Thế Jazz, cô ta có con không?

— Hai đứa, - nó đáp.

— Trời đất.

— Tillie là mẹ Jazz.

Tôi ngoảnh lại nhìn nó. Tôi hiểu cái cảm giác này. Một khi đã dấn thân vào dòng là không sao trở lui được nữa. Như dòng thác lũ ào ạt vô tình, đám người ghê tởm bâu lại hút máu, khiến nó thành ra gầy mòn, khô kiệt và vô vọng như thế; bọn họ cướp đi cả cuộc sống của nó như những con đỉa, không, còn độc địa hơn cả đỉa, chúng là những con rệp trườn ra từ lớp giấy dán tường. Mà thằng em tôi cũng quá ngây ngốc đi, lòng mộ đạo của nó, những trò tử tế đạo đức của nó thì được gì? Cuộc đời này vốn đồi bại như nó vốn thế, và rốt cục thì chỉ có thể đặt hy vọng vào những thứ nhìn tận mắt sờ tận tay được thôi.

Nó cúi đầu kéo một sợi chỉ nhỏ thò ra trên tay áo, tôi nắm lấy khuỷu tay nó.

— Đừng có nói với anh những lời nhảm nhí về đấng tối cao sẽ đỡ lấy những gì suy sụp và nâng đỡ những ai khiêm tốn cúi mình nữa đi. Ngài vĩ đại lắm, chui không vừa mấy cái váy ngắn của bọn họ đâu. Chú biết nên thế nào không? Hãy mở mắt ra mà nhìn cho kỹ bọn họ đi. Nhìn ra ngoài cửa sổ kia. Không có sự cảm thông nào có thể khiến họ thay đổi đâu. Tại sao chú vẫn không chịu hiểu? Mấy chuyện chú làm là để tự xoa dịu lương tâm đấy thôi. Chúa dõi theo và biện hộ cho tội lỗi của chú.

Môi nó hé mở. Tôi chờ đợi nhưng nó chẳng nói lời nào. Chúng tôi ở gần tới mức tôi có thể nhìn thấy lưỡi nó chuyển động sau những chiếc răng, lập cập như con thú nhỏ. Mắt nó trừng trừng chăm chú.

— Đứng dậy đi. Chuẩn bị đồ đạc và đi tới nơi nào chú muốn. Bọn họ chẳng đáng được gì cả đâu. Họ không phải nữ thánh Magdalene. Chú chỉ là thằng bung xung lẵng nhẵng theo bọn họ. Chú kiếm tìm những kẻ nghèo hèn trong đám đó ư? Sao chú không thử một lần nhún nhường dưới chân những người giàu xem? Hay Chúa của chú chỉ yêu mến những kẻ vô dụng?

Tôi có thể thấy ảnh phản chiếu khung cửa trắng hình chữ nhật nhỏ xíu trong mắt em tôi, giờ nếu có cô ả nào mở cửa bước vào, nếu một trong những nỗ lực mộ đạo bất thành của nó xuất hiện, hẳn tôi cũng thấy được bóng chiếu của cô ta lướt qua.

— Sao chú không làm đám nhà giàu hổ thẹn trước tấm lòng nhân đức của chú đi? Hãy đến bên một quý bà và mang bà ấy đến gần Chúa thử xem? Chú nói thử anh nghe, nếu kẻ nghèo là biểu tượng sống của Chúa chịu nạn, thì tại sao họ lại sống cùng cực thê thảm nhường vậy? Nói đi, Corrigan. Sao họ lại đứng ngoài kia, phơi bày nỗi khổ sở của họ cho cả thế giới biết? Anh muốn biết. Thật vô nghĩa phải không? Hãy yêu những người xung quanh như yêu chính bản thân mình. Thật nhảm nhí. Chú có đang nghe không đấy? Sao chú không tập hợp tất cả những ả gái điếm ngoài kia lại rồi đưa vào dàn hợp ca đi? Ở nhà thờ Ảo Vọng Cao Vời ấy? Sao không xếp họ ngồi ở dãy ghế đầu đi? Chú hết lòng hết dạ với tất cả đám lang thang què quặt nghiện ngập ai ai cũng tránh xa đó. Thế sao họ chẳng buồn làm gì cả? Bởi vì họ chỉ muốn hút máu chú tới cùng kiệt, nói cho chú biết.

Kiệt sức, tôi tựa đầu vào bậu cửa sổ.

Tôi chờ đợi cậu em phải buông ra một câu đồng tình cay đắng, kiểu như ta yếu lòng trước kẻ yếu, ta mạnh mẽ trước uy quyền, rằng bình yên nào có được hứa hẹn nơi Jesus, rằng tự do được trao đi, chứ không phải nhận lấy, một điều gì đó nhằm xoa dịu tôi, nhưng em tôi đơn giản để những lời của tôi trôi chuội đi như nước đổ lá môn. Khuôn mặt nó không biểu lộ điều gì. Nó gãi gãi má trong cánh tay rồi gật đầu.

— Nhớ để cửa mở, - nó dặn.

Nó đi xuống cầu thang, tiếng bước chân vọng lại, vòng quanh cái sân nhỏ rồi biến mất trong u ám.

Tôi chạy xuống những bậc thang trơn trượt của dãy nhà. Những hình xoắn graffiti khổng lồ trên tường. Khói hút “cỏ” trôi lờ lững. Những mảnh kính vỡ lăn lóc ở những bậc thang cuối cùng. Mùi nước tiểu và những bãi nôn mửa xông lên. Tôi chạy qua mảnh sân. Một người đàn ông cầm đầu dây dạy con chó bun tập cắn. Con chó đớp vào cánh tay ông ta, cổ tay người này quấn nhiều vòng kim loại lớn. Tiếng gầm gừ rền khắp sân. Corrigan đã ra tới chiếc xe tải màu nâu đang đậu bên đường của nó. Tôi đập vào cửa xe. Nó không ngoảnh ra. Tôi cho là mình đã khiến nó tỉnh ra đôi chút, nhưng chỉ thoáng sau chiếc xe đã khuất dạng.

Đằng sau tôi con chó vẫn đang đớp vào tay chủ, nhưng ông ta lại đang nhìn tôi chằm chằm, như thể tôi mới là kẻ đang cố xé toạc cổ tay ông ta. Một nụ cười nửa chừng hiện trên khuôn mặt ông ta vừa dữ dằn lại vừa trong trẻo. Tôi thầm nghĩ: Thằng mọi đen. Tôi không làm sao ngăn cái chữ đó bật ra trong óc: Thằng mọi đen.

Nơi này sớm muộn cũng sẽ hủy hoại tôi, sao Corrigan lại chịu đựng nổi chứ?

Tôi đi lang thang gần đó, tay thọc sâu vào túi, không đi trên vỉa hè mà men sát những chiếc xe hơi đang đậu, cảm giác khác hẳn. Những chiếc xe taxi phóng qua ngay sát hông tôi. Gió đưa mùi từ trạm tàu điện ngầm lên mặt đường, Một thứ mùi ẩm mốc nặng nề lan trong không khí. Tôi tới nhà thờ trên đường St. Ann’s. Đi lên những bậc thang nứt vỡ, vào cổng, đi qua bình đựng nước thánh, dấn sâu vào lòng nhà thờ râm mát. Tôi hơi mong sẽ gặp Corrigan cúi đầu cầu nguyện trong đó, nhưng nó không ở đó.

Những cây nến điện nhỏ màu đỏ có lẽ được thắp phía sau nhà thờ. Tôi thả đồng hai mươi lăm xu vào thùng quyên góp, nghe tiếng nó lạch cạch lăn giữa rỗng không. Giọng nói xa xưa của bố tôi vẳng bên tai: Nếu con không muốn nghe sự thật thì đừng gặng hỏi.

Đêm đó khi đã khuya Corrigan mới trở lại căn hộ. Tôi không khóa cửa nhưng nó cầm theo một chiếc tua-vít, tháo những hết đinh vít ra khỏi xích cửa lẫn mấy cái khóa. “Việc cần làm.” Trông nó đờ đẫn, mắt cứ đảo lơ láo. Lúc đó lẽ ra tôi phải nhận ra biểu hiện đó là gì, nhưng không. Nó quỳ xuống sàn nhà, mắt ngang tầm với núm cửa. Mặt dưới đôi xăng-đan lật ngửa lên. Đế giày đã bị mòn, mặt cao su lỗ chỗ bọt tăm. Chiếc quần nhiều túi thùng thình có đoạn dây buộc quanh thắt lưng, nếu không chắc sẽ tụt quá hông. Cái áo sơ-mi dài tay nó mặc bó chặt vào cơ thể làm nổi hằn mấy rẻ xương sườn nom như một loại nhạc cụ kỳ quái.

Nó vẫn chăm chú vào công việc nhưng lại dùng tuavít đầu dẹt để tháo ốc vít rãnh chữ thập, thế là nó phải nghiêng vít để lách vào đúng rãnh ốc. Tôi đã đóng gói xong đồ đạc và sẵn sàng đi, tìm một căn phòng, nhận việc pha chế rượu, gì cũng được, miễn là ra khỏi nơi này. Tôi kéo chiếc ghế ra giữa căn phòng, ngay dưới quạt trần, khoanh tay ngồi đợi. Những cánh quạt không làm dịu được sự oi nóng. Lần đầu tiên tôi nhận thấy sau đầu Corrigan đã xuất hiện vệt hói. Tôi định đùa là giờ bộ dạng nó giống cha đạo đích thực rồi, nhưng giờ giữa hai anh em đã chẳng còn gì, không một lời nói, không một ánh nhìn. Nó vẫn miệt mài với những chiếc khóa. Hai chiếc đinh vít rơi xuống sàn. Tôi nhìn những giọt mồ hôi lăn trên gáy nó.

Nó lơ đãng xắn tay áo lên, ngay lúc đó tôi chợt nhận ra.