← Quay lại trang sách

- IX - MIRÓ[10] NGỰ Ở TRÊN TƯỜNG

BÊN NGOÀI PHÒNG, NHỮNG ÂM THANH vọng lại từ đại lộ Park. Yên ắng. Ngăn nắp. Trật tự. Vậy mà đầu óc bà vẫn cứ nhói lên. Bà sắp tiếp đón mấy bà khách. Cứ nghĩ tới cuộc gặp sắp tới là bà đứng ngồi không yên. Bà gập tay ôm lấy mình. Gió thổi tung những tấm rèm mỏng trên cửa sổ. Đăng-ten Alencon. Hàng thủ công, thêu ren, điểm thêm những rẻo lụa. Đăng-ten Pháp giá bao nhiêu cũng không phải là quá đắt. Khi xưa bà thích loại vải thường hơn, loại voan mỏng. Rèm đăng-ten là ý tưởng của Solomon, rất lâu rồi. Đồ cưới. chất keo kết dính tuyệt vời hai người. Sáng nay ông ấy đã mang bữa sáng tới tận giường bà, trên chiếc khay ba quai. Có bánh sừng bò láng bơ. Trà Chamomile. Một lát chanh nhỏ bên cạnh. Ông mặc nguyên com-lê nằm hẳn xuống giường, vuốt tóc bà. Rồi hôn tạm biệt.

Solomon, ôi Solomon thông thái, cặp táp sẵn sàng trong tay, chuẩn bị đến khu trung tâm. Bước đi của ông ấy đã có phần lạch bạch. Đôi giày bóng loáng kêu lọc cọc trên sàn nhà cẩm thạch. Ông lầm bầm chào tạm biệt. Không phải ông có ý lạnh nhạt, chỉ là giọng hơi khàn khàn. Đôi lúc bà giật mình nhận ra - người ấy là chồng bà. Ông ấy đã đi. Thì suốt ba mươi mốt năm qua ông ấy vẫn đi như vậy. Và rồi sự im lặng bị cắt ngang. Những âm thanh trôi nổi, tiếng khóa cửa, tiếng chuông mờ nhạt, giọng cậu bé trực thang máy “Xin chào ngài Soderberg!”, tiếng cánh cửa rên rỉ, cỗ máy chuyển động loảng xoảng, thang khẽ rung chuyển khi đi xuống, rồi dừng lại đánh rầm ở sảnh bên dưới, lại tiếp tục điệp khúc đi lên.

Bà kéo rèm ngó ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy vạt áo com-lê màu xám của Solomon khi ông bước lên taxi. Cái đầu nhỏ hói cúi xuống. Cánh cửa màu vàng đóng sầm lại. Lẫn vào dòng xe cộ và biến mất.

Ông thậm chí còn không biết gì về các vị khách, bà sẽ kể cho ông sau, không phải bây giờ, cũng chẳng hại gì. Có lẽ tối nay. Vào bữa tối. Với nến và rượu. Anh đoán xem, Sol. Khi ông vừa ngồi xuống ghế, chiếc nĩa còn lơ lửng trên tay. Đoán xem có chuyện gì nào. Ông khẽ thở dài. Kể cho anh nghe đi, Claire yêu quý, anh đã có cả ngày dài rồi.

Cởi bỏ bộ đồ ngủ. Cơ thể bà trong tấm gương đứng. Hơi xanh xao và dúm dó, nhưng bà vẫn có thể căng người ra. Bà ngáp, với tay lên cao. Dáng người dong dỏng, vẫn thanh mảnh, mái tóc đen nhánh, một vệt tóc hoa râm bên thái dương. Năm mươi hai tuổi. Bà xoa miếng vải ẩm lên khắp tóc rồi chải lại bằng chiếc lược gỗ. Rẽ tóc sang một bên rồi kéo lược dọc xuống mớ tóc được giữ trong lòng bàn tay còn lại. Đuôi tóc chẻ ngọn bị rối. Đã đến lúc cần phải tỉa bớt đi. Bà gỡ những sợi tóc vương trên lược vứt vào thùng rác dưới chân. Người ta nói tóc của những người chết vẫn dài ra. Chúng có cuộc sống của riêng chúng. Ở dưới đó với những đồ lặt vặt khác, khăn giấy, tuýp son, nắp hộp kem đánh răng, thuốc dị ứng, đồ trang điểm mắt, thuốc đau tim, tuổi trẻ, những mẩu móng tay, chỉ răng, thuốc kháng sinh, nỗi đau đớn.

Nhưng sao những sợi tóc hoa râm lại chẳng bao giờ rụng nhỉ? Hồi còn đôi mươi, bà rất ghét những sợi hoa râm bỗng dưng xuất hiện chỉ sau một đêm, bà đã nhuộm chúng, giấu chúng, cắt chúng đi. Giờ thì chúng định rõ tuổi tác của bà, những vệt màu xám thanh nhã cứ mỗi lúc một nhiều hơn, từ bên thái dương. Một đường mòn trên tóc. Đừng có đến bất thình lình thế chứ.

Những việc cần làm. Phải nhanh lên, nhanh lên thôi. Nhà vệ sinh. Đánh răng. Tiếng sột soạt khe khẽ của việc trang điểm. Thoáng phớt phấn hồng. Đường kẻ mắt và son môi nhẹ nhàng. Bà chẳng bao giờ trang điểm thái quá. Bà hơi lưỡng lự trước tủ đồ. Áo lót và quần lót màu be giản dị. Chiếc váy yêu thích. In lụa, màu lục pha lam, với những đường ren hình sò hến. Dáng chữ A. Không tay. Trên đầu gối một chút. Nơ bướm điểm những khe hở. Phecmơtuya phía sau. Vừa lịch sự vừa thể hiện phong cách bình đẳng giới. Không quá kiểu cách hay phô trương, nhưng hiện đại, thanh nhã, rất đẹp.

Bà kéo diềm váy cao lên chút nữa. Duỗi thẳng chân. Cặp chân sáng bóng lấp lánh, Solomon đã nói vậy cách đây lâu rồi. Bà đã kể cho ông nghe trong một lần làm tình, khi ông giống như một người bị treo lên, cương cứng nhưng nguội lạnh, một chuyện cười bà nghe được ở buổi hòa nhạc của Richard Pryor. Bà đã một mình lẻn vào, dùng thẻ phóng viên của một người bạn. Việc chỉ xảy ra đúng một lần. Bà thấy buổi hòa nhạc không hề nhàm chán hay suồng sã. Nhưng Solomon đã bĩu môi suốt một tuần - ba ngày vì cái chuyện cười đó, bốn ngày vì bà đã đến buổi hòa nhạc. Sự giải phóng cho phụ nữ, ông ấy nói. Đốt nịt ngực, đúng là cuồng. Một người đàn ông bé nhỏ ngọt ngào. Nghiền rượu martini và các loại rượu ngon. Chỉ còn một doi tóc nhỏ trên đầu. Cần kính râm vào mùa hè. Những nốt tàn nhang trên đầu. Những mùa hè thời niên thiếu vẫn còn đọng lại trong ánh mắt. Hồi họ gặp nhau ở Yale ông có một mái tóc bờm xờm, vàng hoe phủ dày xuống mắt. Hồi còn là luật sư mới vào nghề ở Hartford, ông vẫn thường đi dạo dọc những con đường hẹp cùng Wallace Stevens, giữa dòng người, cả hai đều mặc áo không tay. Nó không hề dâng mình cho lũ chim hay bụi rậm, Chẳng giống bất cứ thứ gì ở Tennessee[11]. Gia đình đối với bà, nghĩa là họ sẽ ái ân trên chiếc giường bốn cọc màn. Họ nằm trên những tấm khăn trải giường và ông ấy sẽ thì thầm ngâm thơ bên tai bà. Hầu như ông chẳng nhớ nổi trọn những dòng thơ nữa. Dù vậy, hành động đó vẫn gợi được khoái cảm lạ kỳ, làn môi ông ấy chạm vào đỉnh tai bà, rồi ở rìa cổ, rồi trườn xuống dọc xương đòn, cơ thể ông ấy nóng hổi nhiệt tình. Có đêm chiếc giường đã bị gãy bởi những trò tinh quái của họ. Giờ thì chuyện ấy không còn thường xuyên nữa, nhưng vẫn đủ, và bà vẫn rướn người túm lấy tóc gáy ông ấy. Chẳng còn rậm rạp như trước. Chỉ còn phần ngọn cuống nơi từng đậu trái chín. Những kẻ tội phạm ở tòa luôn im lặng cho tới khi họ bị kết án, cái búa gõ xuống và họ bắt đầu kêu gào, la hét, quẫy đạp, gọi ông ấy bằng những cái tên bẩn thỉu. Bà đã chẳng còn cùng ông đi tới căn phòng làm việc ốp ván gỗ tối om để xem ông xử án, đi làm gì để phải nghe mấy lời khiếm nhã đó chứ? Này, Kojak! Ai yêu anh, hả cưng?[12]. Trong phòng ngủ có một bức ảnh của bà ở bãi biển cùng Joshua, lúc đó hãy còn là một cậu bé, hai mẹ con đầu chụm đầu, những cồn cát phía sau họ trải dài vô tận, cỏ mọc đầy.

Bà cảm thấy có tiếng rì rầm nơi lồng ngực, chỗ khối không khí phồng lên. Joshua. Đó không phải là tên dành cho một chàng trai trong bộ quân phục.

Chuỗi hạt với bàn tay ảo ảnh. Điều đó đôi khi vẫn xảy ra. Máu đột ngột dồn lên cổ họng bà. Khí quản bị kẹp lại. Như thể có ai đó đang siết chặt lấy bà, một sự khống chế trong giây lát. Bà quay trở lại gương, nghiêng qua một bên, rồi quay ra trước, rồi lại nghiêng người. Thạch anh tím? Những chuỗi vòng? Dây chuyền nhỏ bằng da mà Joshua đã tặng bà hồi nó chín tuổi? Nó đã vẽ một dải ruy băng màu đỏ lên trên giấy gói hàng bằng da màu nâu. Bằng bút màu. Đây này, mẹ, nó nói, rồi chạy biến mất. Bà đã đeo nó suốt những năm qua, hầu như chỉ quanh quẩn trong nhà. Đã phải khâu lại hai lần. Nhưng không phải bây giờ, không phải hôm nay, không đâu. Bà cất trở lại ngăn kéo. Quá nhiều. Dẫu sao đeo dây chuyền có vẻ diện quá. Bà rùng mình khi nhìn vào gương. Khủng hoảng dầu, khủng hoảng con tin, khủng hoảng dây chuyền. Bà muốn được đắm mình trong việc giải toán. Đó là chuyên ngành của bà. Những ngày tháng học đại học. Là một trong ba cô gái duy nhất của khoa toán. Bà bị nhận nhầm là thư ký lúc đi dọc hành lang. Nên mắt cứ phải nhìn xuống. Cô gái của hai chiếc giày. Biết sàn nhà rất rõ. Những viên đá lát rối rắm. Chỗ ván gỗ ốp tường bị vỡ.

Chúng ta tìm thấy, trong đồ nữ trang cũ, những ngày tháng đã trôi qua của cuộc đời.

Khuyên tai thì sao nhỉ? Đôi khuyên tai. Một cặp vỏ sò nhỏ mua ở Mystic hai mùa hè trước. Bà đẩy nhẹ chuôi bạc nhỏ vào lỗ xỏ. Trở lại gương. Cảm thấy lạc lõng khi thấy cổ mình căng ra. Không phải cổ mình. Không phải cái cổ ấy. Năm mươi hai năm cùng dưới một lớp da. Bà rướn cằm và làn da căng ra. Chẳng ích gì, nhưng có vẻ đỡ hơn. Đôi khuyên tai phối với bộ váy. Vỏ sò với vỏ sò. Bà đặt chúng vào hộp nữ trang và lại lục tung lên. Đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ ở bàn trang điểm.

Phải nhanh lên thôi, nhanh lên.

Đã sắp đến giờ rồi.

Suốt tám tháng vừa qua bà đã thăm bốn ngôi nhà. Tất cả đều đơn giản, sạch sẽ, bình dị, dễ mến. Đảo Staten, hạt Bronx, hai nhà ở khu Đông Hạ Manhattan. Chưa bao giờ náo nhiệt. Chỉ là cuộc họp mặt của các bà mẹ. Chỉ có thế. Nhưng họ đã quá đỗi kinh ngạc trước địa chỉ của bà khi cuối cùng bà cũng nói cho họ biết. Bà đã cố giấu được một thời gian, cho tới một ngày họ đến thăm căn hộ của Gloria ở Bronx. Một dãy chung cư liên kế xập xệ. Trước giờ bà chưa từng nhìn thấy thứ gì như thế. Những vết sém trên những ô cửa. Mùi thuốc xịt côn trùng ngoài hành lang. Kim tiêm trong thang máy. Bà đã sợ chết khiếp. Bà lên tới được tầng mười một. Một cánh cửa bằng kim loại với năm chiếc khóa. Khi bà gõ nhẹ, nó rung lắc trên những chiếc bản lề. Nhưng bên trong, căn hộ thật sáng sủa. Hai chiếc đèn chùm lớn gắn trên trần nhà thuộc loại rẻ tiền thôi nhưng rất duyên dáng. Căn phòng ngập trong ánh sáng. Mấy bà bạn khác đã ở đó - họ mỉm cười chào đón bà từ lòng ghế sofa sâu như chiếc túi. Họ hôn gió, tất cả họ, và buổi sáng trôi qua thật êm đềm. Họ thậm chí còn quên mất mình đang ở đâu. Gloria cứ lăng xăng, hết thay khay rượu lại đổi khăn ăn, mở cửa sổ cho các bạn hút thuốc, sau đó chị ấy cho mọi người xem phòng con trai. Chị ấy đã mất ba cậu con trai, cứ thử nghĩ mà xem - những ba! - tội nghiệp Gloria. Những cuốn album dày đặc ký ức: những kiểu tóc, những trận thi đấu liên tiếp, lễ tốt nghiệp. Những chiến tích bóng chày được trưng bày quanh phòng. Nhìn chung thật là một buổi sáng tuyệt vời, và nó cứ trôi đi, trôi đi, trôi đi. Rồi chiếc đồng hồ trên nóc lò sưởi điểm giờ trưa, câu chuyện chuyển sang bàn về cuộc gặp lần tới. “Này, Claire, lần tới ở nhà chị nhé”. Bà cảm thấy như miệng mình nghẹn ngắt. Cứ như phải nuốt phấn mỗi lần lên tiếng. Như thể đang nhận lỗi vậy. Cứ nhìn về phía Gloria. “Ồ, tôi ở đại lộ Park, số bảy mươi sáu.” Im lặng ngập ngừng. “Các chị đến số sáu.” Bà lẩm nhẩm nhắc lại. Rồi tiếp: “Đi tàu”. “Tàu điện.” “Tầng thượng.” Không có lời nào nghe trôi chảy cả, cái cách mà bà nói như thể những lời nói đó chẳng phải phát ra từ lưỡi bà. Chị sống ở đại lộ Park? Jacqueline ngạc nhiên hỏi. Lại một sự im lặng khác. Thật tuyệt, Gloria nói, cô ấy liếm môi, ngay chỗ ấy có một vệt sáng bóng, như có thứ gì đó ở đó vừa bị dời đi. Còn Marcia, làm nghề thiết kế, sống ở đảo Staten, thì vỗ tay. “Uống trà với nữ hoàng!” cô ấy reo lên, bông đùa, không có ác ý gì, thực sự là vậy, nhưng vẫn làm bà nghe nhói lên, một sự tổn thương thoảng qua.

Claire đã nói với họ, ở lần gặp đầu tiên, rằng bà sống ở khu Đông[13], chỉ có vậy, nhưng lẽ ra họ đã phải đoán ra chứ, dù bà mặc quần dài và đi giày thể thao, không đồ trang sức gì hết, họ cũng phải đoán được là khu Đông Thượng chứ, và rồi Janet, với mái tóc vàng hoe, đã nghiêng người về phía trước và nói thật to: “Ồ, chúng tôi không biết là chị sống ở mạn trên đó.”

Trên đó. Nghe như một nơi phải leo lên mới tới. Như thể họ sắp phải trèo cao. Dây chão và mũ bảo hiểm và dụng cụ gắn dây vào móc leo núi.

Bà thực sự cảm thấy choáng váng. Tựa như có luồng khí thổi buốt sau chân. Có phải bà đang cố phô trương không. Để khiến họ phải tò mò. Cả người bà chao đảo. Bà lắp bắp. “Tôi lớn lên ở Florida. Đó là một vùng rất nhỏ, thật đấy. Hệ thống ống nước thật khủng khiếp. Mái nhà thì vô cùng bẩn thỉu.” Bà còn định nói rằng bà đã không có ai giúp đỡ, không có những người giúp việc, không phải “người hầu”, bà sẽ không bao giờ dùng chữ “người hầu”, thì ngay lúc đó chính Gloria, Gloria đáng mến, nói: “Ôi trời, đại lộ Park, tôi mới chỉ đến đấy một lần trong trò Monopoly[14] thôi đấy nhé!” Và tất cả bọn họ đều cười vang. Ngả ra sau mà cười như phá. Thế là bà lại có cơ hội nhấm nháp cốc nước. Miệng gượng cười. Thở phào. Họ đang nôn nóng. Đại lộ Park! Ôi trời ơi, có phải căn màu tía không nhỉ? Ồ, nó đâu có màu tía. Màu tía là tòa nhà Park Place, nhưng Claire không nói thêm một lời nào nữa. Phô trương thêm làm gì chứ? Họ cùng nhau ra về, tất cả chỉ trừ Gloria, dĩ nhiên rồi. Gloria vẫy vẫy tay từ cửa sổ tầng mười một, bộ váy in hoa của cô ấy tì lên những song cửa sổ. Từ trên cao cô ấy trông vừa bối rối vừa đáng mến. Đó cũng là lúc họ nhận ra mùi rác xông lên. Lũ chuột chạy ra từ bãi rác. Gái điếm đứng cạnh đường hầm. Mặc quần cộc bó và áo hở vai, thậm chí trong gió tuyết. Náu mình tránh cái giá rét. Chạy tới bên những chiếc xe tải lướt qua. Phả ra hơi khói trắng. Những câu mời chào kinh khủng. Claire những muốn lao trở lại trên kia đưa Gloria về theo mình, kéo cô ấy ra khỏi chốn hỗn độn kinh khiếp này. Nhưng bà đã không trở lại tầng mười một. Bà sẽ nói gì đây? Nào, Gloria, qua ô đi, lấy hai trăm đô, thoát khỏi nhà tù[15].

Họ đi bên nhau tới tàu điện ngầm, bốn phụ nữ da trắng, giữ chặt túi xách. Dễ bị tưởng nhầm là những người làm công tác xã hội. Tất cả đều ăn mặc chỉn chu nhưng không thái quá. Họ đợi tàu trong những nụ cười khẽ khàng. Janet, sốt ruột nhịp nhịp giày. Marcia thì chỉnh lại thuốc tô mi mắt qua tấm gương nhỏ. Jacqueline vuốt mái tóc dài màu đỏ của cô ấy ra sau. Tàu đã đến, đầy những những hình xoáy khổng lồ sặc sỡ, và họ bước lên. Toa của họ được phủ hình vẽ grafiti từ đầu tới đuôi. Ngay cả cửa sổ cũng bị vẽ kín. Hầu như chẳng còn chỗ cho Picasso. Họ là những phụ nữ da trắng duy nhất trên xe. Không phải vì thế mà bà ngại đi tàu điện ngầm. Bà sẽ không nói với họ rằng đó mới chỉ là lần thứ hai bà đi tàu. Nhưng chẳng ai liếc nhìn họ hoặc nói điều gì mạo phạm cả. Bà xuống ở số Sáu mươi tám chỉ để được đi bộ về nhà, hít chút khí trời, và ở một mình. Bà đi dạo trên đại lộ, tự hỏi làm sao mình đã có thể hòa hợp được với nhóm bạn ngay từ lần đầu gặp gỡ. Họ quá khác nhau, hầu như chẳng có điểm chung nào cả. Nhưng, bà vẫn yêu mến tất cả bọn họ, thực sự là thế. Đặc biệt là Gloria. Bà chẳng có gì không vừa lòng về mọi người - việc gì phải vậy chứ? Bà rất ghét cái cách nói chuyện đó. Hồi ở Florida, bố bà đã từng tuyên bố lúc ăn tối: “Tôi thích người da đen, chính thế, tôi cho là mỗi chúng ta đều nên sở hữu một người da đen.” Bà đã giận dữ rời khỏi bàn ăn và ở lì trong phòng suốt hai ngày. Bữa tối của bà được chuyển vào dưới cánh cửa. Ồ, đâu phải phía dưới cánh cửa, chuyền qua khe cửa ngang tầm tay nắm thì phải hơn. Mười bảy tuổi và chuẩn bị đi học đại học. “Nói với bố là chừng nào bố chưa xin lỗi thì con không ra đâu.” Và ông ấy đã xin lỗi. Bước nặng nhọc lên những bậc cầu thang uốn lượn. Ôm bà trong vòng tay rộng lớn của người miền Nam và gọi bà là cô gái hiện đại.

Hiện đại ư. Nghe như đặc tính món đồ trong nhà. Một bức tranh hiện đại. Một bức họa của Miró.

Dẫu sao cũng chỉ là một căn hộ. Một căn hộ mà thôi. Chẳng phải gì hơn. Những đồ bằng bạc, đồ sứ, những khung cửa sổ, đồ trang trí và đồ bếp. Chỉ vậy. Không hơn. Vải thô dệt bằng sợi xe. Đủ bình dị. Còn có thể là gì nữa đây? Chẳng gì cả. Tôi nói cô nghe này, Gloria, bức tường giữa chúng ta thực ra rất mỏng. Một người khóc và những người khác đều sẽ suy sụp. Hòm thư trống rỗng. Chẳng ai viết cho tôi cả. Ban đại diện thì đúng là ác mộng. Lông thú nuôi vương trong máy giặt ủi. Người gác cổng ở tầng dưới đi găng trắng, quần nhàu nhĩ và áo đồng phục có cầu vai trang trí, nói riêng với chị nhé: anh ta không hề dùng nước khử mùi.

Bà chợt rùng mình nghĩ tới: người gác cổng.

Tự hỏi, liệu anh ta có hỏi này hỏi nọ bọn họ không? Hôm nay là phiên của ai nhỉ? Melvyn, phải không? Người mới? Thứ Tư. Đúng là Melvyn rồi. Nếu anh ta tưởng nhầm họ là người giúp việc thì sao? Nếu anh ta chỉ cho họ tới thang máy dành cho người giúp việc thì sao? Phải gọi xuống cho anh ta để nhắc nhở mới được. Hoa tai? Phải rồi, hoa tai. Nhanh lên thôi. Dưới đáy hộp có một đôi đã cũ, chỉ là hoa tai bằng bạc đơn giản, rất ít khi được đeo. Đã hơi xỉn đôi chút, nhưng không sao. Bà nhấm ướt chân hoa tai.

Nhìn lại mình trong gương. Chiếc váy hoa văn sò hến, tóc chấm vai, vệt tóc hoa râm. Có lần bà đã bị tưởng nhầm là mẹ của một trí thức trẻ được lên ti vi, nói về nhiếp ảnh, về khoảnh khắc bấm máy, một loại nghệ thuật thách thức. Bà ta cũng có vệt tóc hoa râm. Những bức hình giữ những người chết sống, cô gái nghệ sĩ đã nói vậy. Không đúng. Sự sống hơn nhiều so với những bức hình. Hơn rất nhiều.

Hai mắt bà đã lại rơm rớm nước. Không được. Phải mau lên, Claire. Bà với lấy khăn giấy phía trên bức tượng nhỏ bằng thủy tinh trên bàn trang điểm, lau khô nước mắt. Chạy tới hành lang bên trong, nhấc cái ống nghe kiểu cổ lên.

— Melvyn phải không?

Bà gọi lại. Có lẽ anh ta đang hút thuốc bên ngoài.

— Melvyn à?!

— Vâng, thưa bà Soderberg?

Giọng anh ta nghe điềm tĩnh. Giọng xứ Wales hay giọng Scotland nhỉ, trước nay bà chưa từng hỏi thăm.

— Tôi có một vài người bạn sẽ đến ăn tối cùng vào sáng nay.

— Vâng, thưa bà.

— Ý tôi là, họ sẽ đến ăn sáng.

— Vâng, thưa bà Soderberg.

Bà trượt những ngón tay dọc ván ốp sẫm màu của hành lang. Ăn tối ư? Có phải bà đã nói là ăn tối không nhỉ? Sao bà có thể nói nhầm thành ăn tối cơ chứ?

— Anh nhớ là phải đón họ niềm nở nhé?

— Tất nhiên rồi, thưa bà.

— Họ có bốn người.

— Vâng, thưa bà Soderberg.

Thở dài vào bộ đàm. Bộ ria mép quăn đỏ trên mép anh ta. Lẽ ra bà nên hỏi quê anh ta ở đâu vào ngày đầu tiên anh ta bắt đầu làm việc. Quên hỏi như thế thật khiếm nhã.

— Còn gì nữa không, thưa bà?

Giờ mà hỏi thì còn khiếm nhã hơn.

— Melvyn? Chỉ đúng thang máy nhé.

— Tất nhiên, thưa bà.

— Cảm ơn.

Bà tựa đầu lên bức tường mát mẻ. Lẽ ra bà không nên nói gì về chuyện thang máy thì hơn. Melvyn lúc xuống đón chắc sẽ đờ người ra nghĩ ngợi, và rồi anh ta sẽ đưa họ đi không đúng thang máy cho mà xem. Thang máy ở kia, bên phải các vị. Các vị vào đi. Bà cảm thấy hai má đỏ bừng lên vì thẹn. Nhưng bà đã dùng từ “ăn tối”, phải không nhỉ? Nếu là ông ấy thì sẽ không nhầm lẫn như vậy. Ăn tối vào bữa sáng. Ôi, đầu óc tôi.

Một cuộc sống quá xét nét, Claire ạ, thật không đáng sống.

Bà tự cho phép mình cười rồi đi dọc qua hành lang trở lại phòng khách. Những bông hoa. Ánh mặt trời lóe sáng trên những đồ đạc màu trắng. Bức vẽ của Miró treo phía trên đi-văng. Những cái gạt tàn thuốc được đặt ở một vài điểm ý tứ. Hy vọng là họ sẽ không hút trong nhà. Solomon rất ghét việc hút thuốc. Nhưng tất cả bọn họ đều hút thuốc, và cả bà cũng vậy. Ông ấy sẽ phát hiện ra mùi ngay. Mùi còn vương lại. Thế đấy. Có lẽ bà sẽ hút cùng với họ, phà khói ra cái ống khói nhỏ đó, cái lò thiêu hàng loạt đó. Một từ thật kinh khủng. Bà chưa từng được nghe từ ngữ như thế khi còn nhỏ. Bà đã được nuôi dạy để trở thành tín hữu Tin Lành Trưởng Nhiệm. Việc kết hôn của bà đã gây ra một vụ bê bối nhỏ. Giọng nói oang oang vì giận dữ của bố bà. Cậu ta là gì chứ? Da màu hả? Dân New England à? Và Solomon khi ấy thật tội nghiệp, hai bàn tay đan vào nhau phía sau lưng, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, chỉnh lại cà vạt, đứng như trời trồng, hứng chịu mọi lời xỉ vả. Nhưng họ vẫn đưa Joshua tới Florida, tới bờ hồ Lochloosa vào các mùa hè. Đi dạo trong rừng xoài, ba người tay trong tay, Joshua ở giữa, một hai ba chúng taaaaaa.

Cũng trong dinh thự ở đó Joshua đã học chơi piano. Mới năm tuổi. Nó ngồi trên cái ghế đẩu bằng gỗ, lướt những ngón tay lên xuống những phím đàn. Khi trở lại thành phố họ thu xếp cho nó học ở tầng hầm bảo tàng nghệ thuật Whitney. Thắt nơ bướm biểu diễn độc tấu. Chiếc áo khoác màu xanh dương và những chiếc cúc màu vàng. Tóc rẽ ngôi trái. Nó từng rất thích ấn chân xuống cần đạp bằng vàng của chiếc đàn. Nói rằng nó muốn lái cây đàn về nhà. Ù ù. Họ tặng nó cây đàn hiệu Steinway vào dịp sinh nhật và lên tám tuổi nó đã biết chơi Chopin trước bữa tối. Tay cầm ly cocktail trên tay, họ ngồi xuống đi-văng và lắng nghe.

Những ngày đẹp trời, cả nhà đi dạo lòng vòng quanh những góc phố cũ xưa.

Bà vơ lấy những điếu thuốc được giấu dưới nắp mặt ghế piano và đi ra phía sau căn hộ, khẽ mở tấm cửa sau nặng nề ra. Thường đó là lối đi của người làm. Đã rất lâu rồi từ khi nhà bà còn có người làm và cả những lối đi cho họ. Đi lên những bậc thang phía sau. Bà là người duy nhất trong tòa nhà này sử dụng mái nhà. Đẩy mạnh cửa thoát hiểm. Không tiếng động. Luồng hơi nóng bốc lên từ nóc nhà màu sẫm. Ban dự án nhà ở đã nỗ lực suốt mấy năm ròng để xây thêm tầng nữa trên mái nhưng Solomon luôn phàn nàn chuyện đó. Ông không thích nghe những bước chân đi lại trên đầu. Cũng không thích những kẻ hút thuốc. Lúc nào cũng khăng khăng về những chuyện như vậy. Ghét mùi hôi. Solomon của bà. Một người đàn ông tử tế, ngọt ngào. Thậm chí với những bó buộc chặt chẽ của ông ấy.

Bà đứng ở lối cửa ra và rít thật sâu, nhả ra một đám khói nhỏ lên trời. Ích lợi của việc ở tầng thượng là đây. Bà không thích gọi là biệt thự cao tầng. Nghe có vẻ ăn chơi quá. Có vẻ bóng bẩy, nghe như cách nói trên tạp chí. Bà đã sắp một dãy nhỏ chậu cảnh trên mái nhà trải nhựa đường, trong bóng râm bức tường. Có lúc công chăm bón còn quá giá trị của đám cây, nhưng bà thích chào đón chúng vào buổi sáng. Mấy cây hồng và đôi loại hoa trà lai.

Bà cúi xuống dãy chậu. Một đốm nhỏ màu vàng trên những chiếc lá. Chống chọi qua mùa hè. Bà búng tàn thuốc xuống dưới chân. Một làn gió từ hướng đông thổi đến thật dễ chịu. Gió sông. Ngày hôm qua ti vi dự báo có thể có mưa. Chẳng có dấu hiệu gì cả. Một vài đám mây, chỉ có vậy. Cái gì tích tụ đầy những đám mây ấy nhỉ? Mưa là cả một phép màu nho nhỏ. Mưa rơi xuống cả những người đang sống và những người đã chết, mẹ ạ, chỉ là người đã chết có những cái ô che tốt hơn. Có lẽ chúng ta sẽ kéo những chiếc ghế lên đây, bốn chúng ta, không phải, năm, và ngước nhìn mặt trời. Trong mùa hè yên ả. Hãy cứ vậy. Joshua thích ban nhạc Beatles, thường ở trong phòng nghe những bản nhạc của họ, những âm thanh lọt ra ngoài qua cái tai nghe lớn mà nó yêu thích. Let it be. Một bài hát ngớ ngẩn, thực vậy. Ta để mọi thứ trôi đi, nó sẽ trở lại. Đó là sự thật. Ta để nó trôi đi, nó sẽ kéo ta xuống mặt đất. Ta để nó trôi đi, nó trườn lên những bức tường nhà ta.

Bà lại rít thuốc và nhìn qua bức tường. Chợt cảm thấy hoa mắt chóng mặt. Dòng xe taxi màu vàng chạy dọc đường phố, màu xanh lan ra dải phân cách, những cây non ấy mới được trồng.

Đại lộ Park mùa này yên ắng. Mọi người đều đi lánh nóng ở những ngôi nhà nghỉ mát mùa hè. Solomon thì kịch liệt phản đối chuyện đó. Ông đúng là anh chàng thành thị. Thích ngủ nướng. Thậm chí vào mùa hè. Nụ hôn sáng nay của ông ấy khiến mình cảm thấy thật dễ chịu. Cả mùi nước hoa cologne của ông ấy nữa. Giống hệt mùi của Joshua. Ôi, cái ngày mà Joshua lần đầu tiên cạo râu! Ôi cái ngày đó! Người đầy bọt. Hết sức cẩn trọng với chiếc dao cạo. Cẩn thận kéo một đường qua má, nhưng rồi vẫn khía vào cổ. Nó xé một miếng báo nhỏ từ tờ Wall Street Journal của bố nó. Liếm tờ giấy rồi đặt lên chỗ vết thương. Mẩu báo kinh tế dính bết máu. Suốt một giờ đồng hồ nó cứ đi loanh quanh với miếng báo trên cổ. Rồi nó lại phải thấm ướt mới gỡ được miếng báo ra. Bà đứng ở cửa phòng tắm, mỉm cười. Cậu bé cao lớn của tôi cạo râu rồi kia đấy. Rất lâu rồi, đã rất lâu rồi. Những điều bình dị lại trở về với chúng ta. Chúng dừng chân chốc lát nơi lồng ngực rồi đột ngột xô tới vặn xoắn tim ta về quá khứ.

Không có tờ báo nào đủ lớn để gắn nó liền lại ở Sài Gòn.

Bà lại rít một hơi dài, để khói thuốc ở lại trong phổi bà đã nghe được ở đâu đó rằng thuốc lá rất tốt cho sự đau buồn. Rít một hơi là sẽ không còn biết khóc nữa. Cơ thể quá bận rộn để đối phó với chất độc. Thảo nào họ đã để những người lính tự do hút thuốc. Những điếu Lucky Strike.

Bà nhìn theo một phụ nữ da đen đang rẽ chỗ góc phố. Người cao ngực nở. Mặc một chiếc váy hoa. Có lẽ là Gloria. Nhưng chỉ đi một mình. Một quản gia, có lẽ vậy. Chẳng thể nào biết được. Bà những muốn chạy xuống dưới tầng và đi tới góc phố, chặn cô ấy lại, Gloria, người bạn yêu quý của tất cả bọn họ, ôm cô ấy trong vòng tay, đưa cô ấy trở lại, đặt cô ấy ngồi xuống, pha café cho cô ấy, nói chuyện và cười vang và thì thầm và ở bên cô ấy, chỉ là ở bên nhau. Đó là tất cả những gì bà muốn. Câu lạc bộ nhỏ của chúng ta. Khoảng khuây lãng ngắn ngủi của chúng ta. Gloria yêu quý nhất. Ở trên dãy nhà chung cư đó suốt đêm ngày. Sao cô ấy lại có thể ở một nơi như thế chứ? Dãy hàng rào mắt cáo. Rác rưởi xoay lộn. Mùi hôi thối khủng khiếp.

Những cô gái trẻ đứng ngoài đường bán thân. Trông như họ sắp ngã ngửa ra dùng xương sống làm đệm. Rồi còn những đám cháy ngút trời - họ nên gọi nơi đó là Dresden[16] và cùng kết thúc luôn với nó.

Hay là bà thuê Gloria. Đưa cô ấy về nhà. Giúp công việc lặt vặt trong nhà. Chẳng đáng gọi là việc. Họ có thể cùng nhau ngồi bên chiếc bàn trong bếp và giết thời gian, cùng nhau bí mật uống một hai cốc rượu gin pha tonic, cứ để thời giờ trôi đi, bà và Gloria, thư giãn, vui vẻ, đúng vậy, Gloria, in excelsis deo[17].

Bên dưới, người phụ nữ rẽ chỗ góc đường rồi khuất dạng.

Claire giậm tắt điếu thuốc rồi lảo đảo bước về phía cửa. Hơi chóng mặt. Trong khoảnh khắc thế giới như nghiêng hẳn về một bên. Đi xuống những bậc thang, đầu óc quay cuồng. Joshua không bao giờ hút thuốc. Có lẽ trên đường tới thiên đường nó đã hỏi xin một điếu. Đây là ngón cái của tôi, đây là chân tôi, đây là cổ họng tôi, đây là tim tôi, đây là một lá phổi, này, hãy đặt chúng ở bên nhau cho điếu Lucky Strike cuối cùng.

Bà trở lại bên trong, qua lối dành cho người giúp việc, nghe tiếng đồng hồ trong phòng khách điểm giờ.

Phải tới bếp.

Đầu óc giờ đã mụ mị. Hít thở nào.

Đun nước thì cần gì bằng thạc sĩ chứ?

Bà mơ hồ bước dọc hành lang quay trở lại bếp. Bề mặt ốp đá cẩm thạch, những tủ tay nắm vàng, rất nhiều máy móc trắng lóa. Mấy bà bạn đã đặt ra một nội quy từ những ngày đầu họ tụ tập uống café buổi sáng: những người khách sẽ mang bánh vòng, bánh nướng xốp, pho mát Đan Mạch, hoa quả, bánh quy, bánh rán. Chủ nhà thì chuẩn bị trà và café. Thật là một sự phân công tuyệt vời. Bà đã nghĩ đến việc đặt cả một khay bánh kẹo từ cửa hàng William Greenberg phía trên Madison, những chiếc bánh quy cầu vồng rồi bánh vòng hồ đào rồi bánh mì Do Thái Challah rồi bánh sừng bò, nhưng như thế sẽ là ngạo mạn, phô trương, hay đại loại thế.

Bà bật to lửa. Một vũ trụ nhỏ bé của bọt nước sôi và lửa nóng. Loại café của Pháp ngon tuyệt. Một sự hài lòng trong chốc lát. Hãy kể điều đó cho những người Việt Cộng.

Một dãy túi trà trên mặt bàn cẩm thạch. Năm chiếc đĩa nhỏ. Năm chiếc cốc. Năm cái thìa. Có lẽ dùng cái bình đựng kem sữa hình con bò cho có chút hài hước. Thôi, như vậy hơi quá. Nom kỳ cục. Nhưng liệu mình có thể không cười trước họ không? Không phải bác sĩ Tonnemann bảo mình phải cười hay sao?

Nào, hãy cố lên, cười đi.

Hãy cười lên, Claire. Buông xả đi.

Thật là một bác sĩ giỏi. Ông ấy không muốn bà dùng thuốc. Mỗi ngày hãy cố cười vui một chút, đó mới chính là liều thuốc tốt, ông ấy nói vậy. Những viên thuốc chỉ là lựa chọn thứ yếu. Mình đã nên uống thuốc mới phải. Không. Tốt hơn hết là cố cười vui. Chết vì cười.

Phải rồi, hãy để những tiếng cười rền vang trong cổ họng của sự chết. Một bác sĩ giỏi, đúng vậy. Lại còn thuộc cả Shakespeare nữa chứ. Hãy cứ để những tiếng cười rền vang.[18]

Chú thích:

[10] Họa sĩ Joan Miró (1893-1983) được coi là họa sĩ tiêu biểu nhất cho trường phái siêu thực.

[11] Tạm dịch câu trích trong bài thơ Anecdote of the jar của Wallace Stevens, nhà thơ hiện đại Mỹ.

[12] Kojack: Tên viên cảnh sát điều tra, nhân vật chính trong bộ phim truyền hình cùng tên chiếu vào thập niên 70 tại Mỹ. - ND.

[13] Khu giàu có ở New York.

[14] Trò chơi cờ gồm các hoạt động kinh tế cách điệu với những địa danh thực.

[15] Từ lóng trong trò Monopoly.

[16] Thành phố nước Đức bị tàn phá nặng nề trong thế chiến II.

[17] Tựa bài thánh ca tiếng Latin, tạm dịch là vinh quang thiên Chúa tối cao.

[18] Câu trích trong vở hài kịch Uổng công vô ích vì tình yêu (Love’s labour’s lost) của văn hào Shakespeare.