← Quay lại trang sách

- X -

DƯỜNG NHƯ BÀ CÓ THỂ đi xuyên qua luồng điện để nhìn thấy con trai. Bà có thể nhìn vào bất cứ đồ điện nào - ti vi, đài, dao cạo điện của Solomon - và có thể tìm thấy nó ở đó, đi dọc điện áp trên đường dây. Hầu hết vẫn là ở chiếc tủ lạnh. Bà sẽ tỉnh dậy lúc nửa đêm và lang thang vào bếp, tựa đầu vào ngăn đá. Sau đó bà sẽ mở cửa và để hơi lạnh phả vào mình. Điều bà thích là đèn không bật lên. Bà có thể đi từ ấm qua lạnh trong phút chốc, bà cứ ở trong bóng tối và không đánh thức Solomon dậy. Không có tiếng động. Chỉ có âm thanh lọt thỏm trong đêm khi mép cao su của cửa tủ mở, rồi một luồng hơi lạnh tràn ra phủ lấy cơ thể bà, và bà có thể nhìn chằm chằm qua đường dây điện, cực âm, bán dẫn, công tắc thu phát cầm tay, qua ête, và bà có thể nhìn thấy con trai, hoàn toàn bất ngờ, bà ở trong căn phòng giống như vậy, ngay cạnh nó, bà có thể vươn người tới rồi đặt tay lên trán nó, an ủi nó, nơi nó ngồi dưới ánh huỳnh quang, giữa những dãy bàn và đệm dài, đang làm việc.

Bà chỉ có những ý niệm mơ hồ về cách thức công việc của nó. Bà đâu phải người không hiểu biết gì. Bà có bằng cấp. Nhưng chuyện là thế nào, bà tự hỏi, những cái máy có thể đếm người chết tốt hơn con người hay sao? Sao những cái phiếu đục lỗ lại biết được? Làm thế nào một dãy đường ống và dây điện lại biết sự khác biệt giữa người sống và người chết?

Nó gửi thư cho bà. Nó gọi mình là hacker. Nghe như một dụng cụ để đốn cây vậy. Nhưng ý nó là nó có thể lập trình tốt cho các cỗ máy. Nó đã sáng tạo ra thứ ngôn ngữ để đóng nhả công tắc. Một nghìn chiếc cổng cực nhỏ cùng hạ xuống trong giây lát. Bà đã nghĩ về việc đó như mở ra trước mắt một cánh đồng. Một cổng dẫn tới một cổng khác, rồi một cổng khác, khắp ngọn đồi, và rồi nó sẽ ở trên sông và biến mất, thả trôi những mảng dây điện. Nó nói rằng suốt ngày ở bên máy tính khiến nó cảm thấy chóng mặt, như bị trượt xuống thành cầu thang vậy, và bà cứ băn khoăn không biết nó đang nói về thành cầu thang nào, vì ký ức tuổi thơ của nó làm gì có thành cầu thang, nhưng bà vẫn chấp nhận, và bà nhìn thấy nó ở đó, trên những ngọn đồi ở Sài Gòn, trượt qua thành cầu thang xuống tầng hầm bê tông của tòa nhà tường than xỉ, bước tới bên bàn, bật những nút máy lên. Con trỏ khô khan trên màn hình máy điện toán chớp chớp trước mắt nó. Vết nhăn trên trán nó. Sự ghê tởm của nó khi lướt qua dữ liệu in ra. Tiếng cười khúc khích của nó vì một chuyện cười lan tỏa dọc dãy bàn. Sự chọc thủng phòng tuyến. Sự thất bại. Những đĩa thức ăn bày dưới sàn nhà. Thuốc dạ dày Rolaids rải rác trên bàn. Một mớ dây điện. Công tắc quay đảo. Tiếng quạt trần vo ve. Trong phòng rất nóng, nó kể, đến nỗi nó và bạn bè cứ nửa tiếng lại phải bước ra ngoài. Bên ngoài, chúng có một đường ống nước để dội cho mát. Trở lại với bảng điều khiển thiết bị, chúng sẽ lại bị thiêu đốt chỉ trong giây lát. Chúng ưa gọi nhau là Mac. Mac này, Mac kia. Máy Ác Chiến. Máy Áp Chế, Mai Ai Chết. Mong Ai Cứu? Mày Ăn Chuột.

Mọi việc chúng làm chỉ xoay quanh máy móc, nó kể. Chúng tách ra, nối lại, lắp vào, kết nối, xóa bỏ. Chỉnh công tắc. Phá mật khẩu. Thay đổi bộ nhớ máy tính. Một thứ trò ma thuật. Chúng biết những điều bí mật bên trong mỗi chiếc máy tính. Chúng ở trong phòng cả ngày. Làm việc với những linh cảm, thất bại, những điều mơ hồ. Nếu cần ngủ chúng chỉ cần trượt xuống phía dưới chiếc bàn, đã quá mệt để mơ.

Death Hack là dự án chính của nó. Nó phải xem qua các file dữ liệu, chốt những cái tên, bổ sung thêm những người khác như những con số. Nhóm họ lại, đóng dấu lên, sắp xếp họ, mã hóa họ, viết họ ra. Vấn đề không phải ở sự chết chóc mà ở sự chồng chéo những cái chết. Những người cùng tên - nhà Smith và Rodrigueze và Sulliavan và Johnson. Những người cha trùng tên với con trai. Những người chú đã tử trận với tên họ giống hệt người cháu trai đã hy sinh. Những người đã biến mất. Những đội quân bị tách ra. Báo cáo sai. Những sơ suất. Những phi đội bí mật, những đội tàu nhỏ, những lực lượng đặc nhiệm, những ban trinh sát. Những người đã kết hôn trong những làng nhỏ ở nông thôn. Những người tận sâu trong rừng. Ai mà ghi chép hết được những trường hợp ấy? Nhưng nó cố hết sức đặt họ vào chương trình của nó. Tạo ra một nơi cho họ để họ lại sống, theo một cách nào đó. Nó chúi đầu, cặm cụi làm việc, không hỏi một câu nào. Đó là, nó nói, một việc làm yêu nước. Điều nó thích nhất là khoảnh khắc sáng tạo, khi nó giải quyết được vấn đề mà không ai khác có thể, khi giải pháp hoàn toàn trong sạch và tao nhã.

Không quá khó để viết một chương trình đối chiếu những người chết, nó nói, nhưng điều nó thực sự muốn là viết một chương trình có thể khiến cho cái chết trở nên có ý nghĩa. Đó là tương lai xa. Một ngày nào đó máy tính sẽ mang tất cả những trí tuệ vĩ đại lại gần nhau. Ba mươi, bốn mươi, một trăm năm nữa. Đó là nếu trước đó chúng ta không tự bắn vỡ đầu nhau ra trước.

Chúng ta đang ở đỉnh cao của kiến thức nhân loại, mẹ ạ, nó nói. Nó viết về giấc mơ những thiết bị dù phân tán ở nhiều nơi vẫn có thể dùng chung những nguồn tài nguyên đặc biệt. Về những thông điệp có thể truyền qua chuyển lại. Về những hệ thống có thể điều khiển từ xa qua đường dây điện thoại. Về những chiếc máy tính có thể tự khắc phục sự cố. Về những giao thức máy tính, bộ xóa dữ kiện, về bản in từ máy điện báo và bộ nhớ và RAM và cách bắt máy tính hãng Honeywell chạy hết công suất và cách “qua mặt” mẫu máy Alto được gửi tới trước đó. Nó miêu tả những bảng mạch như cách dân xứ tuyết miêu tả những cột băng. Nó nói rằng người Eskimo có sáu mươi tư từ để chỉ tuyết, nhưng điều đó không khiến nó ngạc nhiên; nó nghĩ đáng ra họ phải có nhiều hơn nữa - tại sao lại không chứ? Bảng mạch chính là vẻ đẹp sâu kín nhất, sản phẩm của trí não con người in dấu trên mảnh silic mà đến một ngày nào đó ta dễ dàng bỏ cặp mang theo bên người. Một bài thơ trên mảnh đá. Một định lý trong lát đá mỏng. Lập trình viên là những thợ thủ công trong tương lai. Kiến thức nhân loại là sức mạnh, mẹ ạ. Những giới hạn chỉ tồn tại trong tâm trí chúng ta. Nó nói chẳng có điều gì máy tính không làm được, thậm chí là những vấn đề phức tạp nhất, tính ra giá trị của số pi, cội nguồn cơ bản của tất cả ngôn ngữ, vì sao ở xa nhất. Thật không thể tin nổi là thế giới thực sự nhỏ bé nhường ấy. Vấn đề là làm sao gợi mở được nó. Điều ta muốn là máy tính có thể đáp lại mình, mẹ ạ. Nó phải gần như là con người. Phải tư duy về nó theo cách đó. Giống lời bài thơ của Walt Whitman: bạn có thể đặt vào đó mọi thứ bạn muốn.

Bà ngồi bên chiếc tủ lạnh đọc những lá thư của con, vuốt ve mái tóc nó, bảo nó đã đến giờ đi ngủ, rằng nó nên ăn một chút gì đó, nên thay quần áo, rằng nó thực sự cần tự biết chăm lo cho bản thân. Bà muốn chắc hình bóng nó không nhòa nhạt đi. Có lần, trong bóng tối, bà ngồi tựa vào tủ bếp mà khóc: lần ấy bà không với được tới nó. Bà đặt cây bút chì vào ổ điện trên tường và chờ đợi. Khi bật điện cây bút nảy lên rơi xuống giữa những ngón tay bà. Bà ý thức được cảnh tượng chính mình trông thế nào những lúc như thế - một phụ nữ bên chiếc tủ lạnh, mở cửa rồi đóng cửa - nhưng đó là niềm an ủi, lại không làm Solomon ngờ vực. Bà có thể vờ như đang nấu nướng, hoặc lấy một cốc sữa, hoặc đợi thịt rã đông.

Solomon không nói chuyện về chiến tranh. Im lặng là cách khuây lãng ông ấy. Thay vào đó, ông nói về những phiên tòa, về sự bất ổn của thành phố, những vụ giết người, chiếm đoạt, lừa đảo, đâm chém, trộm cướp. Nhưng không phải chiến tranh. Chỉ những kẻ chống đối nằm trong chủ đề của ông ấy - ông nghĩ họ yếu đuối, ngây thơ, hèn nhát. Xử bọn họ nghiêm khắc nhất có thể. Sáu tháng vì làm đổ máu xuống hồ sơ của ban tuyển quân. Tám tháng vì đập vỡ cửa sổ văn phòng tuyển mộ ở quảng trường Thời đại. Bà những muốn diễu hành và phản đối, gặp gỡ tất cả dân hippy, yippy với skippy ở quảng trường Union, công viên Tompkins Square, mang theo biểu ngữ cho chiến dịch Catonsvile Nine[21]. Nhưng bà không thể làm vậy. Chúng ta phải ủng hộ con trai, Solomon bảo thế. Cậu bé tóc hoe đáng yêu của chúng ta. Mới chưa lâu lắm, nó còn cuộn mình ngủ giữa hai chúng ta. Nó chơi xe lửa trên tấm thảm phương Đông. Nó lớn nhanh hơn chiếc áo khoác xanh dương. Nó đã biết dùng đúng nĩa ăn cá, nĩa ăn salad, nĩa ăn tối, những cái răng nĩa lớn của cuộc sống.

Và rồi, chẳng biết từ lúc nào nữa, bỗng bặt tin, bặt hẳn, lặng bặt mãi mãi.

Joshua đã trở thành một mã số.

Được ghi lại trong trong những con số của chính nó.

Bà đã nằm trên giường suốt hai tháng trời. Hầu như không cử động. Solomon muốn thuê một y tá, nhưng bà từ chối. Bà nói rằng bà sẽ vượt qua. Không phải từ vượt, là trượt thì đúng hơn. Từ này ngày xưa Joshua thích. Mình sẽ trượt qua. Bà bắt đầu đi quanh nhà, qua phòng ăn, phòng khách, đi qua chỗ hay ngồi ăn sáng, lại đến bên chiếc tủ lạnh. Bà đặt bức ảnh của Joshua ở mặt trước tủ, ngay chính giữa. Bà tựa người vào đó mà nói chuyện với nó. Và chiếc tủ trở thành chỗ tập trung những thứ có thể nó thích. Toàn những thứ giản dị. Bà cắt chúng ra và dán lên tủ. Những bài báo về máy tính. Những bức hình bảng mạch. Một bức ảnh tòa nhà mới của công ty PARC. Một bài báo về hack đồ họa. Thực đơn từ Ray’s Famous. Một quảng cáo từ tờ The Village Voice.

Bà thốt nhiên nhận ra là chiếc tủ bắt đầu trở nên rậm tóc. Cụm từ đó khiến bà gần như mỉm cười được. Chiếc tủ lạnh rậm tóc của tôi.

Và rồi một tối, mấy mẩu báo rơi xuống sàn nhà, bà cúi xuống, đọc lại những dòng chữ. TÌM KIẾM CÁC BÀ MẸ ĐỂ TRÒ CHUYỆN. CỰU CHIẾN BINH MỸ TẠI VIỆT NAM. HÒM THƯ 667. Bà chưa bao giờ coi nó như một chiến binh kỳ cựu, hoặc đã từng ở Việt Nam - nó là một người điều khiển máy tính, từng tới Châu Á thế thôi. Nhưng cái quảng cáo đó khiến những ngón tay bà râm ran. Bà mang tờ quảng cáo tới quầy bếp, ngồi xuống, viết nhanh một hồi âm bằng bút chì, rồi viết đè lên bằng mực, lén ra khỏi cửa, lẻn vào thang máy. Bà có thể gửi thư đi ngay ở tiền sảnh tầng dưới, nhưng bà lại không muốn; bà chạy ra tận đại lộ Park, giữa đêm khuya, trong bão tuyết, người gác cổng sửng sốt nhìn bà chạy ra khỏi cửa trong bộ đồ ngủ, chân đi dép lê: “Bà Soderberg, bà vẫn ổn chứ?”

Giờ không thể dừng lại. Thư trong tay. Người mẹ tìm hài cốt đứa con trai. Rồi tìm thấy ở một quán café đã bị phá hủy ở một miền đất xa lạ.

Bà chạy xuống Lexington tới hộp thư ở đường số bảy mươi tư. Phả hơi thở trắng xóa ra không khí. Những ngón chân ướt lạnh trong tuyết. Bà biết rằng nếu bà không gửi đi ngay lúc đó, bà sẽ chẳng bao giờ gửi cả. Người gác cổng bẽn lẽn gật đầu khi bà trở lại, mắt lia lướt qua ngực bà. Chúc ngủ ngon, bà Soderberg, anh ta nói. Ôi, bà muốn hôn anh ta ngay lúc đó, ngay ở đó. Hôn lên trán. Một lời cảm ơn vì cái nhìn trộm ấy. Nó khiến bà cảm thấy dễ chịu. Khiến bà rùng cả mình, thật sự vậy. Lớp vải ôm sát ngực bà, những đường nét lộ ra, ích lợi của giá lạnh, một bông tuyết tan chảy dọc xuống cổ bà. Vào một lúc khác hẳn bà đã nghĩ cái nhìn đó thật thô bỉ. Nhưng ở đó, trong bộ đồ ngủ, trong hơi ấm của thang máy, bà lại thấy biết ơn. Đêm đó bà nhẹ nhõm hẳn lên. Bà dọn sạch mọi thứ trên mặt tủ lạnh, chỉ để lại bức ảnh của con trai. Để chiếc tủ trở lại vẻ đơn giản. Cắt bớt mái tóc rậm rạp của nó đi. Nghĩ về lá thư của bà đang lượn qua hệ thống bưu điện để cuối cùng đến được một người khác cùng cảnh ngộ như bà. Sẽ là ai đây, trông họ thế nào nhỉ, liệu họ có dịu dàng, liệu họ có tốt bụng? Đó là tất cả những gì bà muốn: muốn họ tốt bụng.

Đêm đó bà trở lại giường và rúc mình vào hơi ấm của Solomon. Chạm vào dưới thắt lưng ông. “Sol. Solly. Solhoney. Dậy đi.” Ông ngoảnh lại nói rằng chân bà rất lạnh. “Vậy thì hãy ủ ấm cho em, Solly.” Ông ấy chống khuỷu tay dậy nghiêng qua phía bà.

Rồi sau bà cũng ngủ thiếp đi. Lần đầu tiên sau bao lâu rồi. Bà hầu như quên mất ý nghĩa việc tỉnh dậy. Bà mở mắt vào buổi sáng ở cạnh ông và lại thúc ông dậy, lướt những ngón tay của bà trên đường cong bờ vai ông. “Lạy Chúa,” ông vừa nói vừa nở một nụ cười, “có chuyện gì vậy, mình yêu quý, sinh nhật của anh à?”