← Quay lại trang sách

- XII - 2

Có lẽ, phải rồi, chỉ đơn thuần là ích kỷ. Họ đã không để ý đến tấm mezuzah trên cửa, bức tranh vẽ Solomon, không nói một lời nào về căn hộ, chỉ biết lao vào và bắt đầu chuyện của họ. Họ thậm chí còn trèo lên nóc nhà mà chẳng hề xin phép. Có lẽ cái kiểu của họ thế, hay có lẽ họ đã bị những bức tranh, những đồ vật, món đồ bạc và những tấm thảm làm mờ mắt. Chắc chắn là còn những cậu ấm chân son khác bị đẩy vào chiến tranh. Đâu phải đứa nào cũng bị chứng bàn chân bẹt[27] đâu. Có lẽ bà nên gặp gỡ những người phụ nữ khác, những người có nhiều điểm tương đồng với bà hơn. Nhưng tương đồng hơn về cái gì cơ chứ? Cái chết, đó là sự bình đẳng lớn nhất dành cho tất cả mọi người. Là nỗi phiền muộn lâu đời nhất của cuộc sống. Xảy đến với tất cả chúng ta. Giàu và nghèo. Béo và gầy. Cha và con gái. Mẹ và con trai. Bà cảm thấy nhói đau, một hồi ức sống dậy. Mẹ, con viết để báo với mẹ là con đã đến nơi an toàn, thư đã bắt đầu như thế. Nhưng rồi đoạn cuối nó đã viết: Mẹ, nơi này là một nơi trống rỗng, họ đã lấy đi hết tất cả và chẳng để lại cho con gì hết. Ôi. Ôi. Hãy đọc tất cả thư từ của nhân loại, những bức thư tình, thư hận, thư vui, rồi đặt chúng cạnh một trăm ba mươi bảy bức mà con trai tôi đã viết cho tôi, đặt chúng sát cạnh nhau, Whitman và Wilde và Wittgenstein và bất kỳ ai, cũng không sao cả - không có sự so sánh nào hết. Tất cả những điều nó từng nói! Tất cả những gì nó có thể nhớ được! Tất cả những gì nó chạm tay đến!

Đó là điều các cậu con trai làm: viết kể cho mẹ chúng những hồi ức, tự kể cho bản thân về quá khứ cho đến khi chúng nhận ra rằng chúng chính là quá khứ.

Nhưng không, không phải quá khứ, không phải nó, chưa bao giờ.

Quên những lá thư đi. Hãy để máy móc của chúng ta chiến đấu. Các ông có nghe tôi nói không? Hãy để máy móc ra trận. Hãy để chúng đối mắt qua những đường dây. Hãy để những cậu bé ở nhà.

Để cậu bé của tôi ở nhà. Của Gloria nữa. Và của Marcia. Cứ để nó đi trên dây nếu nó muốn. Để nó trở thành một thiên thần. Cậu bé của Jacqueline nữa. Của Wilma. Không phải Wilma, không phải. Không có ai tên Wilma cả. Janet chứ. Nhưng rồi có lẽ cũng có một Wilma cùng cảnh ngộ. Có khi là hàng nghìn Wilma trên khắp đất nước ấy chứ.

Chỉ cần trả lại con cho tôi. Đó là tất cả những gì tôi muốn. Đưa nó trở lại. Cho tôi. Ngay bây giờ. Hãy để nó mở cửa và chạy qua tấm mezuzah, hãy để cây đàn piano lại vang rền những nốt nhạc. Hãy tái tạo những gương mặt đáng yêu tươi trẻ. Không khóc lóc, không thét gào, không rên rỉ. Mang chúng trở lại đây ngay bây giờ. Tại sao tất cả những cậu bé của chúng tôi lại không xuất hiện trong căn phòng này cùng một lúc chứ? Xóa bỏ mọi ranh giới. Tại sao chúng lại không cùng ngồi bên nhau chứ? Những chiếc mũ nồi đặt trên đầu gối. Một thoáng thẹn thùng. Những bộ quân phục nhầu nhìa. Các con chiến đấu cho đất nước của chúng ta, tại sao lại không làm lễ kỷ niệm ở đại lộ Park này chứ? Café hay trà, hả các cậu bé? Một thìa đường có thể giúp thuốc trôi xuống đấy.

Toàn bộ cuộc nói chuyện về tự do này. Thật vô nghĩa, thật thế. Tự do không phải là thứ để cho đi, mà là thứ để nhận về.

Tôi sẽ không nhận lọ tro này đâu.

Các ông có nghe tôi không đấy?

Lọ tro này đâu phải con trai tôi.

— Chuyện gì vậy, Claire?

Dường như bà lại vừa tỉnh dậy từ một cơn mê. Bà đang nhìn họ, những cái miệng mấp máy, những khuôn mặt động đậy, nhưng chẳng nghe được họ đang nói gì nữa, tranh luận gì gì đó về người đi trên dây, liệu sợi dây có được gắn vào người anh ta hay không, bà đã trôi ra ngoài câu chuyện. Được gắn với cái gì cơ? Giày của anh ta? Trực thăng? Hay bầu trời? Bà co vào duỗi ra mấy ngón tay, bà nghe tiếng lạo xạo khe khẽ khi xòe tay ra.

Xương bà cần nhiều canxi hơn, bác sĩ tài ba Tonnemann đã nói vậy. Đúng là canxi. Hãy uống nhiều sữa, các con ta sẽ chẳng bỗng dưng biến mất.

— Chị ổn chứ? - Gloria hỏi.

— Ồ, tôi vẫn khỏe, - bà đáp, - chỉ lơ mơ chút mà thôi. - Tôi biết cái cảm giác đó.

— Thỉnh thoảng tôi cũng bị như vậy, - Jacqueline nói.

— Cả tôi nữa, - tiếng Janet.

— Việc đầu tiên của tôi vào mỗi sáng, - Gloria giãi bày, - là bắt đầu mơ. Không thể làm vậy vào buổi tối. Tôi đã từng mơ suốt ngày. Giờ thì tôi chỉ có thể mơ vào ban ngày.

— Chị nên uống thuốc gì đó, - Janet khuyên.

Claire không thể nhớ nổi bà đã nói những gì - liệu bà có khiến họ bối rối, có nói điều gì đó ngớ ngẩn, không phải phép chăng? Janet nói như thể bà nên uống thuốc trị liệu vậy. Cũng có thể lời khuyên ấy dành cho Gloria chăng? Đây, hãy uống cả trăm viên thuốc, chúng sẽ chữa lành những buồn khổ của chị. Không. Bà không bao giờ muốn thế. Bà muốn dập dứt nó như một cơn sốt. Nhưng bà đã nói gì nhỉ? Một điều gì đó về người đi trên dây? Bà có nói thành tiếng không? Rằng dẫu sao anh ta cũng thật tầm thường? Điều gì đó về lọ tro? Hay thời trang? Hay những đường dây?

— Chuyện gì vậy, Claire?

— Tôi chỉ đang nghĩ về anh chàng tội nghiệp đó thôi, - bà buột miệng.

Bà những muốn tự đá cho mình một cái vì đã lại đưa anh ta trở lại cuộc nói chuyện. Chỉ khi nào bà cảm thấy rằng họ đã thoát ra khỏi chuyện này, buổi sáng mới có thể trở lại đúng nghĩa của nó, bà sẽ kể cho họ nghe về Joshua, rằng nó thường ăn bánh kẹp cà chua, món ăn ưa thích của nó mỗi khi đi học về, hay rằng nó chẳng bao giờ biết bóp kem đánh răng đúng cách, hay chuyện nó luôn đặt hai chiếc tất vào trong một chiếc giày, hay một câu chuyện ở sân chơi, hay một đoạn nhạc piano, bất cứ chuyện gì, chỉ để cân bằng lại buổi sáng, nhưng, không, bà đã lại gác tất cả sang một bên và gợi lại chuyện cũ.

— Người đàn ông nào kia? - Gloria hỏi.

— À, cái người đã đến đây ấy mà, - bà đột nhiên đáp.

— Ai kia?

Bà nhón một chiếc bánh mì vòng từ chiếc bát hình hoa hướng dương. Nhìn lên những người bạn. Bà ngừng lại trong giây lát, cắt qua lớp bánh mì dày, rồi lấy những ngón tay xé rời phần bánh còn lại ra.

— Ý chị là người đàn ông đi trên dây đã ở đây à?

— Không, không.

— Vậy người đàn ông nào hở Claire?

Bà vươn tay ra rót trà. Hơi nóng bốc lên. Bà đã quên không cho vài lát chanh vào. Lại một điều đãng trí nữa.

— Người đàn ông đã báo với tôi.

— Người nào cơ?

— Người đàn ông đã báo tin gì với chị, hả Claire?

— Các chị cũng biết mà. Người đó.

Ngay sau đó là một sự cảm thông sâu sắc. Bà nhận thấy điều đó qua những gương mặt. Êm dịu hơn cả mưa. Tĩnh lặng hơn cả những chiếc lá.

— Ừ, - Gloria nói.

Và rồi những khuôn mặt khác giãn ra.

— Con mình là vào thứ Năm.

— Mike Junior thì thứ Hai.

— Clarence của tôi cũng vào thứ Hai. Jason thì thứ Bảy. Còn Brandon thứ Ba.

— Mình đã nhận được một bức điện thật kinh khủng. Sáu giờ mười ba phút. Ngày mười hai tháng Bảy. Vì Chúa. Vì Chúa. Vì lòng yêu Chúa. Bọn họ đều trở lại đúng chủ đề, mọi chuyện có vẻ ổn, ý bà là thế; bà đưa miếng bánh lên miệng nhưng không ăn; bà đã đưa được họ trở lại, họ sẽ lại có những buổi sáng như thường lệ, cùng nhau, và họ sẽ không xa rời chủ đề nữa, đây là điều bà muốn, và đúng vậy, họ đều cảm thấy thoải mái, Gloria còn đang với lấy một chiếc bánh rán, lấm tấm đường trắng, cắn một miếng nhỏ và gật đầu với Claire, như thể muốn nói: Nào, hãy kể cho chúng tôi nghe đi.

— Chúng tôi nhận được một cú điện từ tầng dưới. Solomon và tôi. Hai vợ chồng đang ngồi ăn tối. Tất cả đèn đuốc đều tắt hết. Ông ấy là người Do Thái, các chị biết đấy...

Thật mừng vì bà đã nói ra được.

—... và ông ấy thắp nến khắp nơi. Kể ra ông ấy không quá khắt khe, nhưng đôi lúc lại thích một chút lễ nghi. Thỉnh thoảng ông còn gọi tôi là con ong mật nhỏ bé của ông. Có lần trong lúc cãi cọ, anh ấy gọi tôi là WASP[28]. Các chị tin nổi không?

Mọi chuyện đều được bộc bạch, như luồng khí khoan khoái thoát ra từ phổi bà. Những nụ cười quanh bà, bối rối, mà không gian vẫn thật tĩnh lặng.

— Và tôi mở cửa. Đó là một trung sĩ. Anh ta trông rất cung kính. Ý tôi là, rất lễ độ. Mình đã đoán biết ngay, chỉ cần nhìn vào khuôn mặt anh ta thôi. Giống như mặt nạ hóa trang vậy. Một loại chất dẻo rẻ tiền. Khuôn mặt anh ta đóng băng bên trong đó. Đôi mắt màu nâu nghiêm nghị và mảng râu rộng. Tôi nói, Vào đi. Và anh ta bỏ mũ ra. Kiểu tóc nhà binh, ngắn ngủn, rẽ ngôi giữa. Ít tóc bạc trắng viền quanh chân tóc. Anh ta ngồi ngay đó.

Bà gật đầu về phía Gloria và ước bà không nói ra điều đó, nhưng chẳng có cách nào thu lại được.

Gloria xát chỗ ghế ngồi như thể cố kỳ cho hết dấu vết của người đàn ông kia. Một ít vụn đường trên bánh rán còn vương lại.

— Mọi thứ thật thuần khiết đến nỗi tôi nghĩ mình đang đứng trong một bức tranh.

— Ừ, ừ.

— Anh ta vẫn để mũ trên đầu gối.

— Cái anh đến nhà mình cũng vậy đấy.

— Suỵt.

— Và rồi anh ta chỉ nói, con trai bà đã qua đời, thưa bà. Và mình nghĩ, Qua cái gì? Ở đâu? Ý anh là gì, Trung sĩ, nó đã qua kỳ thi à? Nó đâu có kể cho tôi nghe về kỳ thi nào.

— Chao ôi!

— Mình mỉm cười với anh ta. Mình đã chẳng biết làm gì khác.

— Ồ, tôi thì khóc chết đi sống lại, - Janet nói.

— Suỵt, - Jacqueline ra hiệu.

— Tôi cảm thấy như có một luồng hơi xộc lên dọc theo xương sống. Có thể cảm nhận được nó đang rít lên trong não mình.

— Chính xác.

— Và rồi tôi chỉ nói, vâng. Đó là tất cả những gì tôi đã nói khi ấy. Vẫn mỉm cười. Luồng hơi vẫn rít lên và thiêu đốt ở bên trong. Tôi nói, Vâng, Trung sĩ. Và cảm ơn.

— Chao ôi.

— Anh ta uống hết tách trà.

Mỗi người đều nhìn vào cốc của mình.

— Rồi tôi tiễn anh ta ra cửa. Chuyện chỉ có vậy.

— Ừ.

— Và Solomon đưa anh ta xuống thang máy. Mình chưa từng kể cho ai nghe chuyện này. Sau đó khuôn mặt mình phát đau, vì đã cười quá lâu. Thật tệ phải không?

— Ồ không, không đâu.

— Tất nhiên là không rồi.

— Có cảm giác như tôi đã đợi cả cuộc đời chỉ để kể ra chuyện đó.

— Ôi, Claire.

— Tôi chỉ không thể tin nổi là mình đã cười.

Bà biết bà đã bỏ qua nhiều chi tiết không kể, như chiếc bộ đàm rung lên, rồi tiếng người gác cổng lắp bắp, và cảm giác sững sờ lúc chờ đợi, tiếng anh ta gõ cửa giống như gõ lên nắp quan tài, rồi anh ta bỏ mũ xuống và nói thưa bà, thưa ông, rồi vợ chồng bà đã nói: “Vào đi, vào đi”, anh chàng trung sĩ rõ là trước giờ chưa từng nhìn thấy nơi nào giống như căn hộ của ông bà - điều đó hiển hiện rõ trong cách anh ta nhìn ngắm đồ đạc trong nhà, vừa căng thẳng lại vừa có phần thích thú.

Vào một thời điểm khác chắc hẳn anh ta đã nhận ra vẻ quyến rũ của nơi này, đại lộ Park, những món đồ nghệ thuật đẹp đẽ, những cây nến, nghi lễ. Bà quan sát anh ta thoáng liếc bóng mình trong tấm gương nhưng ngoảnh mặt đi ngay; lúc đó bà đã cảm thấy mến anh ta, cái cách anh ta lấy tay che miệng khi ho, thật là lịch thiệp. Anh ta giữ bàn tay ở gần miệng, trông giống một ảo thuật gia chuẩn bị kéo ra một chiếc khăn phiền muộn. Anh ta nhìn quanh, như thể sắp rời đi, như thể có muôn ngàn lối ra, nhưng bà giữ anh ta ngồi lại. Bà vào trong bếp và mang một lát bánh hoa quả ra mời anh ta. Để bầu không khí bớt căng thẳng. Anh ta ăn bánh, ánh mắt thoáng vẻ áy náy. Những mảnh vụn vương dưới sàn nhà. Sau đó bà chẳng thể nào dọn nổi mớ vụn ấy.

Solomon muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Trung sĩ nói rằng anh ta không được phép nói, nhưng Solomon đã ép anh ta, “Không ai trong chúng ta được phép cả, không phải thế sao? Ý tôi là, anh cứ thử nghĩ xem, làm gì có ai trong chúng ta được tự do.” Chiếc mũ lại hết nâng lên rồi hạ xuống trên gối người trung sĩ. “Nói cho tôi,” Solomon run giọng. “Nói cho tôi biết hoặc là cút ra khỏi nhà tôi.”

Người trung sĩ ho vào bàn tay đã nắm chặt. Một cử chỉ của kẻ nói dối. Họ vẫn đang thu thập thêm các chi tiết, anh nói, Joshua khi đó ở một quán café. Ngồi trong quán. Họ đã cảnh báo trước với toàn thể nhân viên về những quán café. Cậu ta ngồi cùng một nhóm sĩ quan. Họ cũng tới một câu lạc bộ vào đêm hôm trước. Chắc chỉ là để xả hơi. Bà không thể tưởng tượng nổi điều đó, nhưng bà chẳng nói gì - Joshua của bà đi câu lạc bộ đêm ư? Không thể nào, nhưng bà cứ để chuyện đó trượt đi, phải rồi, cái từ đó, trượt đi. Vào buổi sáng sớm, trung sĩ kể, theo giờ Sài Gòn. Bầu trời xanh trong. Bốn quả lựu đạn đã được ném dồn dập dưới chân họ. Cậu ấy đã hy sinh anh dũng, trung sĩ nói. Lúc bấy giờ chính Solomon lại là người cất tiếng ho. “Chẳng có quái gì anh dũng cả, chàng trai ạ”. Bà chưa từng nghe Solomon văng ra từ khiếm nhã như vậy với một người lạ. Người trung sĩ chỉnh lại chiếc mũ trên đầu gối. Giống như lúc đó chính cái chân của anh ta mới cần phải kể lại câu chuyện. Liếc nhìn lên bức tranh phía trên đi-văng. Miró, Miró ngự ở trên tường, ai mới là người đã chết hẳn trong gia đình họ?

Anh ta hít một hơi. Cổ họng anh ta nhăn lại. “Tôi rất lấy làm tiếc vì sự mất mát của ông bà,” anh ta nhắc lại.

Khi anh ta đã đi rồi, khi đêm đã chìm vào im lặng, họ đứng ở đó trong căn phòng, Solomon và Claire, nhìn nhau, và ông ấy đã nói rằng họ sẽ không gục ngã, trước đây họ chưa từng, sau này bà cũng sẽ không như thế. Không, họ sẽ không đổ lỗi cho nhau, họ sẽ không trở nên cay đắng, họ sẽ vượt qua, tồn tại, họ sẽ không để chuyện đó trở thành vết rạn nứt giữa họ.

— Và suốt buổi gặp ấy tôi cứ mỉm cười suốt. - Tội nghiệp chị, - Thật khủng khiếp.

— Nhưng phản ứng như thế cũng là dễ hiểu, Claire ạ, thật đấy.

— Chị nghĩ thế thật sao?

— Chẳng sao cả. Thật đấy.

— Tôi đã cười quá nhiều, - bà nói.

— Tôi cũng đã như thế đấy, Claire ạ.

— Chị ư?

— Chị nuốt ngược những giọt nước mắt vào trong, sách phúc âm nói thế.

Giờ bà đã hiểu anh chàng đó đi dây vì điều gì. Cảm ngộ ấy ập đến sâu sắc, mạnh mẽ và run rẩy. Chẳng có gì liên quan tới thiên thần hay ác quỷ. Chẳng có gì liên quan tới nghệ thuật, hay cải cách, hay sự giao cắt giữa con người với chiều kích nào đó, con người với tạo hóa. Không gì hết.

Anh ta ở trên đó vì cô đơn. Tâm trí anh ta là gì chứ, cơ thể anh ta là gì chứ: chỉ là một dạng thức cô đơn. Chẳng mảy may nghĩ đến cái chết.

Chết đuối, chết vì rắn cắn, chết vì súng cối, chết vì vết đạn, chết vì cọc gỗ, chết vì lính phá hầm, chết vì súng bazooka, chết vì tên tẩm độc, chết vì bom ống, chết vì cá piranha, chết vì ngộ độc thức ăn, chết vì vũ khí của Kalashinikov[29], chết vì súng chống tăng RPG, chết vì người bạn thân nhất, chết vì bệnh giang mai, chết vì buồn phiền, chết do hạ thân nhiệt, chết vì vùng cát lún, chết vì chất phóng xạ, chết vì chứng huyết khối, chết vì bị tra tấn dưới nước, chết vì dây mìn ẩn, chết vì gậy chơi bi-a, chết vì trò quay súng kiểu Nga, chết vì bẫy cọc tre, chết vì thuốc giảm đau, chết vì con dao rựa, chết vì xe máy, chết vì tiểu đội hành quyết, chết vì chứng hoại tử, chết vì sưng chân, chết vì chứng liệt, chết vì mất trí nhớ, chết vì mìn định hướng, chết vì bọ cạp đốt, chết vì kiệt sức, chết vì chất độc màu da cam, chết vì trai bao, chết vì cây lao móc, chết vì gậy tuần đêm, chết để hiến sinh, chết vì cá sấu, chết trên ghế điện, chết vì thủy ngân, chết vì bị bóp cổ, chết vì lưỡi mác, chết vì ancalôit gây ảo giác, chết vì nấm, chết vì axit lysergic, chết vì xe jeep đâm, chết vì bẫy lựu đạn, chết vì nhàm chán, chết vì đau buồn, chết vì lính bắn tỉa, chết vì bị giấy khứa, chết vì gái điếm, chết vì chơi bài poke, chết vì những con số, chết vì sự quan liêu, chết vì sự bất cẩn, chết vì sự chậm trễ, chết vì sự né tránh, chết vì nhượng bộ, chết vì toán học, chết vì bản sao bằng giấy than, chết vì cục tẩy, chết vì lỗi chỉnh sửa, chết vì nét bút, chết vì sự đàn áp, chết vì quyền lực, chết vì cô lập, chết vì bị bỏ tù, chết vì anh em tương tàn, chết vì tự tử, chết vì nạn diệt chủng, chết vì Kennedy, chết vì LBJ, chết vì Nixon, chết vì Kissinger, chết vì Chú Sam, chết vì Charllie, chết vì chữ ký, chết vì im lặng, chết vì những nguyên nhân tự nhiên.

Một thực đơn chết ngu ngốc dài vô tận.

Nhưng chết vì đi trên dây?

Chết vì biểu diễn?

Cuối cùng cũng đến thế. Thật trắng trợn với cơ thể mình. Khiến nó trở nên rẻ mạt. Trò xiếc rối. Cái trò Charlie Chaplin đi dây đó của anh ta đã hack buổi sáng của bà. Sao anh ta dám làm vậy với chính cơ thể của mình chứ? Vứt mạng sống chính mình vào mặt mọi người? Khiến cái chết của con trai bà trở nên tầm thường? Phải, anh ta xâm phạm buổi café sáng như đang hack mật khẩu của bà. Bằng cái trò quỷ quái lơ lửng trên thành phố. Café, bánh quy và một gã đi lại giữa trời ngoài kia, nhai mất những gì đúng ra sẽ diễn ra trong sáng nay như lệ thường.

— Các chị biết không? - bà nói, nghiêng người về phía các bà bạn.

— Gì cơ?

Bà ngưng lại giây lát, tự hỏi mình nên nói gì đây. Một cảm giác run rẩy thấm đẫm suốt cơ thể bà.

— Tôi yêu quý tất cả các bạn.

Bà nhìn Gloria khi nói ra điều đó, nhưng ý bà là tất cả bọn họ, bà thành thật muốn nói thế. Một chút nghẹn ngào nơi cổ họng. Bà lướt qua khuôn mặt của những người bạn. Dịu dàng và nhã nhặn. Tất cả đều mỉm cười với bà. Nào, các bạn. Đến đây. Giờ hãy cùng hưởng buổi sáng của chúng ta. Để nó trượt đi. Hãy quên những kẻ đi dây. Hãy mặc họ ở trên cao đó. Hãy cùng nhấm nháp café và cảm thấy biết ơn. Chỉ đơn giản vậy thôi. Hãy kéo rèm ra để ánh sáng chiếu vào. Hãy để đây là lần đầu tiên của nhiều lần nữa. Không một người nào nữa có quyền xâm phạm. Chúng ta có những cậu bé của chúng ta. Chúng tụ họp cùng nhau. Thậm chí là ở đây. Tại đại lộ Park này. Chúng ta đau đớn, và có nhau để hàn gắn nỗi đau.

Bà với lấy bình trà, hai bàn tay run run. Những âm thanh kỳ lạ trong phòng, không còn yên tĩnh nữa, tiếng sột soạt của những túi bánh mì vòng, và tiếng bóc giấy bọc bánh nướng xốp.

Bà bưng cốc trà lên uống hết. Chấm nhẹ khớp ngón tay lên khóe miệng.

Những bông hoa của Gloria ở trên bàn, đã nở rồi. Janet nhặt một mẩu bánh vụn ra khỏi đĩa. Jacqueline nhịp nhịp gối. Marcia nhìn xa xăm. Con trai tôi ở trên đó, nó nói đến gửi lời chào.

Claire đứng dậy, không hề run rẩy, không một chút nào, không phải lúc này.

— Nào, - bà nói, - đến đây. Chúng ta hãy cùng vào thăm phòng của Joshua.

Chú thích:

[27] Người bị chứng này gặp khó khăn trong di chuyển nên được miễn quân dịch.

[28] Viết tắt của White Anglo-Saxon Protestant, người Anglo-Saxon da trắng theo đạo Tin Lành

[29] Kỹ sư thiết kế vũ khí nổi tiếng của Liên Xô.