- XV -
BAN ĐẦU CHÚNG TÔI kiếm sống ở New York, Blaine và tôi. Hồi cuối thập niên sáu mươi anh ấy làm đạo diễn cho bốn phim nghệ thuật đen trắng. Bộ phim nổi tiếng nhất của anh ấy, Antioch, là một bức tranh sinh động về một tòa nhà cũ bị phá hủy ở khu bờ sông. Những cảnh quay đẹp về những chiếc cần cẩu, đoàn xe tải nặng nề cùng quả tạ phá tường đong đưa đã được thực hiện một cách nhẫn nại bằng loại máy quay mười sáu mili. Đằng sau nó ẩn chứa rất nhiều yếu tố mỹ thuật - ánh sáng xuyên qua những bức tường đổ nát của nhà kho, những khung cửa sổ nằm giữa vũng nước, không gian kiến trúc mới hình thành từ những nứt gãy. Bộ phim được mua bởi một nhà sưu tầm nổi tiếng. Sau đó Blaine cho đăng một bài tiểu luận về sự phát tiết dục vọng nửa vời của các nhà làm phim: theo anh thì những bộ phim tạo nên khuôn mẫu cuộc sống mà cuộc sống thực phải khao khát, nhưng đó chỉ là niềm khao khát tự thân của những bộ phim ấy mà thôi. Bản thân bài tiểu luận cũng buông một cái kết hết sức nửa vời. Nó được đăng trong một tập san nghệ thuật không mấy tiếng tăm, nhưng dẫu sao nó cũng đã khiến anh ấy gây được chú ý trong giới làm nghề như anh hằng ước ao. Anh vốn là mẫu người tham vọng. Ở một bộ phim khác, Calypso, Blaine ngồi ăn sáng trên đỉnh tòa tháp Đồng Hồ, chiếc đồng hồ khổng lồ phía sau anh ấy chậm chạp tích tắc. Trên mỗi cây kim đồng hồ anh đều dán những bức ảnh về Việt Nam, bức ảnh một vị sư tự thiêu đính trên kim giây quay khắp mặt đồng hồ.
Những bộ phim đã gây sốt một thời gian. Điện thoại không ngừng réo chuông. Tiệc tùng tới tấp. Các trung gian môi giới tác phẩm nghệ thuật cố tiếp cận chúng tôi. Tạp chí Vogue đăng tiểu sử anh. Nhiếp ảnh gia của họ đã chụp một bức hình anh chẳng mặc gì chỉ quấn một cái khăn choàng cố ý buông dài. Chúng tôi được bao phủ giữa vô số lời tán dương, nhưng nếu bạn cứ đứng quá lâu một chỗ giữa dòng thì sẽ tới lúc ngay cả những bờ sông cũng vượt qua mình. Anh giành được suất tài trợ từ quỹ Guggenheim nhưng chỉ một thời gian sau phần lớn số tiền ấy đều trôi theo thú nghiện ngập của chúng tôi: Thuốc phiện, ma túy tổng hợp, thuốc an thần Valium, cần sa, thuốc giảm đau Tuinal, các thứ thuốc kích thích khác, thuốc ngủ; bất cứ thứ gì chúng tôi có thể tìm được. Blaine và tôi đã chơi thâu đêm suốt sáng trong phố hàng tuần liền. Lăn lóc chơi bời giữa bọn hỗn tạp om sòm trong khu Village. Ở những bữa tiệc xả láng hoang dại, chúng tôi quay cuồng giữa tiếng nhạc dồn dập và lạc nhau cả tiếng đồng hồ, có khi hai ba tiếng liên tục. Chúng tôi chẳng hề bực bội khi thấy người kia ở trong vòng tay kẻ khác: chỉ cười sằng sặc và tiếp tục. Tiệc sex. Tiệc đổi đồ. Tiệc “phê”. Chúng tôi hít “cỏ” và ngốn sâm banh. Đây là hạnh phúc, chúng tôi cùng nhau gào thét khắp nhà.
Một nhà thiết kế thời trang từng may cho tôi một bộ váy màu tía với những chiếc cúc vàng là những viên ma túy tổng hợp. Blaine ngoạm từng chiếc cúc ra khỏi chiếc váy khi chúng tôi nhảy cùng nhau. Anh ấy càng say thuốc thì váy của tôi càng tụt sâu xuống.
Chúng tôi bước vào ở lối ra và bước ra ở lối vào. Ban đêm đã không còn là từ gắn với bóng tối; nó thực sự bao gồm cả ánh sáng của ban ngày - chẳng việc gì phải nghĩ về khái niệm ban đêm khi ta chơi tới tận bình minh, đồng hồ báo thức reo vào lúc giữa trưa. Chúng tôi thường lái cả chặng dài về nhà ở đại lộ Park chỉ để cười nhạo mấy gã gác cổng mắt mũi còn kèm nhèm ngái ngủ. Chúng tôi xem suất phim sớm ở mấy rạp chuyên chiếu loại phim rẻ tiền gần quảng trường Thời Đại. Two-Trouser. Panty Raid. Girls on Fire. Chúng tôi chào ánh bình minh trên nóc những tòa nhà khu Manhattan, đó là những bãi biển phủ nhựa đường của chúng tôi. Chúng tôi đón bạn bè từ bệnh viện tâm thần ở Bellevue rồi đưa bọn nó tới thẳng nhà hàng Trader Vic’s.
Mọi thứ thật tuyệt vời, kể cả con đường xuống dốc của hai đứa cũng thế.
Mắt trái của tôi bắt đầu bị máy giật. Tôi cố lờ đi nhưng nó cứ dai dẳng như chiếc kim đồng hồ của Blaine, túc tắc đẩy thời gian quanh mặt tôi. Khi xưa nom tôi khá được, Lara Liveman, gái miền Trung Tây, cô tiểu thư tóc vàng con nhà giàu có bố là ông trùm của cả một đế chế xe hơi, mẹ tôi là người mẫu gốc Na Uy. Nói không ngoa, tôi đẹp đến mức cánh tài xế taxi sẵn sàng đánh nhau để thỉnh tôi lên xe. Nhưng những đêm chơi đang dần vắt kiệt tôi. Răng tôi đã chớm xỉn màu vì dùng quá nhiều Benzedrine. Mắt tôi đờ đẫn. Màu tóc tôi cũng mất dần vẻ bóng đẹp. Một cảm giác kỳ quặc, sự sống rút dần qua nang tóc, nhoi nhói như có kim châm.
Thay vì tập trung vào vẽ tranh, tôi đi tới tiệm làm đầu hai ba lần một tuần. Mỗi lần hai lăm đô. Tôi boa cho cô thợ thêm mười lăm đô nữa, rồi bước ra đại lộ, khóc. Tôi sẽ trở lại với việc vẽ tranh. Tôi đinh ninh vậy. Chỉ cần cho tôi thêm một ngày nữa. Thêm một giờ nữa.
Càng sáng tác ít đi, tôi càng thấy mình có giá. Tôi đang vẽ dở mấy bức phong cảnh thành thị theo trường phái trừu tượng. Một vài nhà sưu tầm đã bắt đầu lởn vởn chung quanh. Tôi chỉ chờ cho sức khỏe ổn định trở lại để hoàn thành những bức vẽ. Nhưng thay vì tới xưởng vẽ, tôi bước thẳng từ quảng trường Union ngập nắng vào trong bóng tối dễ chịu của quán Max’s. Tất cả các vệ sĩ đều biết tôi. Cocktail được dọn ra bàn: ly đầu tiên là cocktail Manhattan, chiêu xuống bằng ly White Russian tiếp theo.
Chỉ sau vài phút tôi đã phiêu diêu. Tôi đi loanh quanh, chuyện trò, tán tỉnh, cười ầm ĩ. Mấy tay chơi rock nổi tiếng chui vào phòng phía sau, đám họa sĩ tụ tập đằng trước. Đàn ông ở trong nhà vệ sinh đàn bà. Đàn bà vào nhà vệ sinh của đàn ông, hút thuốc, nói chuyện, hôn hít, làm tình. Những khay bánh ngọt trộn cần sa được chuyền quanh phòng. Cánh đàn ông hít ma túy bằng ống vỏ cây bút viết. Ở Max’s tôi chẳng còn biết đến thời gian. Mọi người đều xoay mặt đồng hồ đeo tay vào trong. Có khi thấy đến giờ ăn tối, hóa ra đã qua ngày hôm sau. Thỉnh thoảng khi tôi bước ra mới biết mình ở trong đó suốt ba ngày rồi. Ánh sáng rọi vào nhức mắt khi tôi mở cửa bước ra đường 17, khu nam đại lộ Park. Thỉnh thoảng Blaine cũng nhập hội với tôi, nhưng đa phần là không, mà cũng có những lần thật tình tôi cũng chẳng biết anh ấy có đi cùng tôi hay không nữa.
Những bữa tiệc cứ tới ào ào như mưa. Ở khu Village có nhà tay Billy Lee chuyên kiếm thuốc lậu cho chúng tôi, cửa nhà gã lúc nào cũng mở. Gã cao, gầy, khá điển trai. Gã có hẳn một bộ xúc xắc mà chúng tôi vẫn thường dùng khi chơi những trò nhuốm mùi tình dục. Có một câu nói đùa được truyền tụng là ở chỗ của Billy mọi người đến rồi đi, nhưng hầu hết là đến. Căn hộ của gã bề bộn những đơn thuốc ăn cắp được, mỗi đơn thuốc gồm ba bản với số hiệu BNDD[32] riêng biệt. Gã đã lấy trộm chúng từ các phòng khám ở khu Đông Thượng; gã thường đi dọc các văn phòng tầng trệt ở tòa nhà Park và Madison, đá những chiếc điều hòa lọt vào trong rồi bò qua cửa sổ. Chúng tôi biết một bác sĩ chịu kê đơn mấy thứ thuốc kiểu này ở khu Đông Hạ. Mỗi ngày Billy ngốn hai mươi viên. Gã nói đôi lúc tưởng như tim vọt lên tới cổ họng. Gã mê mấy em phục vụ ở quán Max’s, trong đám đó chỉ một em tóc vàng hoe tên Debbie từ chối gã. Thi thoảng tôi thế chân khi mấy em phục vụ chưa chiều được gã. Billy ngâm nga mấy đoạn trong cuốn Finnegans Wake[33] bên tai tôi. Cha của những kẻ gian dâm[34]. Anh ta thuộc lòng cả hai mươi trang. Nghe như một loại nhạc jazz. Sau đó tôi vẫn như nghe thấy giọng anh ta văng vẳng bên tai.
Nhà Blaine lẫn căn hộ của tôi đều từng nhận vài trát đòi hầu tòa vì bật nhạc ầm ĩ, một lệnh bắt giữ vì tàng trữ thuốc bất hợp pháp, nhưng mãi cho đến lần cảnh sát ập vào khám xét bất ngờ, chúng tôi cuối cùng mới thực sự điêu đứng. Họ lẻn vào qua cửa. Cảnh sát đi rầm rập quanh phòng. “Đứng dậy”. Một gã đập dùi cui vào mắt cá chân tôi. Tôi khiếp đảm đến nỗi chẳng thể kêu la được gì. Đây không phải một cuộc đột kích bình thường. Billy bị nhấc khỏi đi-văng, đá lăn xuống sàn, bị lột sạch ra để khám xét ngay trước mặt chúng tôi. Rồi gã bị còng tay đưa đi, một cú quá cay của Cục phòng chống ma túy Liên bang. Chúng tôi thoát được kèm một lời cảnh cáo: họ sẽ để mắt tới chúng tôi, họ nói thế.
Blaine và tôi lùng sục khắp thành phố kiếm một liều.
Không mối quen nào còn bán. Tối đó quán Max’s đóng cửa. Bọn pê đê hung hăng trên phố Little West 12 tuyệt sẽ không để chúng tôi bước vào câu lạc bộ của chúng. Sương mù phủ khắp Manhattan. Chúng tôi mua được một gói ở Houston nhưng hóa ra đó là chỉ là bột nở. Chúng tôi vẫn nhồi nó đầy mũi, hy vọng có chút ma túy bên trong. Chúng tôi lang thang vào phố Bowery giữa đám say rượu hát hò ầm ĩ, bị ba thằng nhãi người Phllippine mặc áo khoác đồng phục xô ép vào hàng rào tiệm tạp hóa gí dao trấn lột.
Kết cục chúng tôi phải tới một cửa hàng thuốc ở khu Đông. “Nhìn xem bọn mình hành xác ra cái bộ dạng gì”, Blaine nói. Máu loang khắp vạt trước áo sơ-mi anh ấy. Mắt tôi cứ giật liên hồi không kiềm nổi. Tôi nằm lăn ra đó, hơi ẩm từ nền đất thấu tận xương. Tôi thậm chí chẳng còn muốn khóc.
Một gã da màu vứt một đồng hai lăm xu dưới chân chúng tôi. E pluribus unum. Đó là một trong những khoảnh khắc tôi ý thức được rằng chúng tôi sẽ không trở lại đó nữa. Đã đến lúc mà khi quá mệt mỏi vì xuống dốc, ta sẽ quyết định dừng lại việc hủy hoại chính mình, hoặc ít ra sẽ cố gắng làm thế, quẳng lên trời quả pháo sáng cầu cứu cuối cùng. Chúng tôi bán xưởng sáng tác kiêm chỗ ở tại khu SoHo rồi mua căn nhà gỗ mãi tận ngoại ô, như thế giả như chúng tôi có muốn trở lại Max’s thì cũng phải đi kha khá đường đất.
Blaine muốn sống một hoặc hai năm ở miền quê, có khi lâu hơn. Không bị quấy rầy. Tìm về gốc rễ của sự thuần khiết. Để vẽ. Để căng tấm toan ra. Để chạm tới điểm sáng tạo. Đó không phải một ý tưởng hippy. Cả hai chúng tôi đều ghét dân hippy, những thứ hoa hoét, những bài thơ của họ, ý tưởng duy nhất của họ. Chúng tôi khác xa đám ấy. Chúng tôi là những người tiên phong, người đặt ra giới hạn và khái niệm. Hai đứa muốn trở lại thập niên hai mươi, như Scott và Zelda[35], muốn trở lại lối sống lành mạnh. Chúng tôi giữ lại con xe cổ, thậm chí còn tân trang nó, những ghế ngồi được bọc da lại, bảng đồng hồ được đánh bóng. Tôi cắt tóc ngắn kiểu hiện đại. Chúng tôi còn dự trữ thức ăn: trứng, bột mì, sữa, đường, muối, mật ong, lá thơm oregano, ớt, và cả những tảng thịt muối được móc vào chiếc đinh trên trần nhà. Chúng tôi quét sạch mạng nhện rồi chất đầy chạn gạo, ngũ cốc, mứt, kẹo dẻo - chúng tôi tin rằng cuối cùng rồi chúng tôi cũng trở lại cuộc sống lành mạnh. Blaine quyết rằng đã tới lúc trở lại với tranh sơn dầu, theo phong cách của Thomas Benton, hoặc John Steuart Cury. Anh ấy muốn đạt tới sự thuần khiết đậm sắc thái Mỹ. Anh bảo chán ngấy những đồng nghiệp từng cùng học tại đại học Cornell với anh ấy, như Smithson, và Turley và Matta-Clark. Dù sao thì họ cũng đã làm hết sức rồi, anh ấy nhận xét, có cố nữa cũng chẳng tiến xa hơn được. Mấy cái đập xoáy trôn ốc[36], những ngôi nhà tách đôi[37] và đống thùng rác bị đánh cắp đã quá lỗi thời rồi.
Tôi cũng vậy - tôi muốn đưa nhịp đập của những cái cây vào tác phẩm của mình, cuộc hành trình của cỏ, một ít đất bụi. Tôi nghĩ mình có thể bắt được cái hồn của nước theo một phong cách hoàn toàn mới mẻ và gây sửng sốt.
Chúng tôi đã vẽ những phong cảnh khác hẳn đề tài trước đây - hồ nước, con chim bói cá, sự tĩnh lặng, mặt trăng đậu trên cành cây, bóng chim hét cánh đỏ vụt qua đám lá. Chúng tôi đã quẳng hết thuốc. Chúng tôi đã làm tình. Mọi thứ thật tuyệt vời, quá tuyệt, cho đến cái ngày chúng tôi trở lại Manhattan.
Chú thích:
[32] BNDD: Bureau of Narcotics and Dangerous Drugs, cơ quan kiểm soát các loại ma túy và thuốc nguy hiểm. Một số thuốc phải có đơn kê toa mới mua được vì có khả năng gây nghiện.
[33] Tiểu thuyết có tiếng khó đọc của nhà văn Ireland Jame Joyce.
[34] Nguyên tác: The father of fornicationists.
[35] Cặp vợ chồng nhà văn Mỹ nổi tiếng hồi thập niên hai mươi.
[36] Spiral Jetty: công trình điêu khắc nổi tiếng của Robert Smithson.
[37] Splitting: tác phẩm quay phim của Gordon Matta-Clark.