← Quay lại trang sách

- XVIII -

MỘT DÃY NGƯỜI HÚT THUỐC đứng ngay trước cửa bệnh viện Thủ Đô trên phố 98 và đại lộ số 1. Người nào người nấy trông như điếu thuốc cuối cùng được hút, tàn tạ sắp rụi sụp xuống. Nhìn qua hai cánh cửa tự đóng, có thể thấy phòng nhận bệnh đã chật ních người. Trong phòng mịt mờ khói thuốc. Những vết máu đây đó trên sàn. Những gã nghiện sõng sượt trên ghế dài. Loại bệnh viện như thế này có lẽ cần một bệnh viện cho chính nó.

Tôi cố bước xuyên qua đám người bị hành tội. Đây đã là phòng nhận bệnh thứ năm tôi ghé rồi, và tôi bắt đầu nghĩ không chừng cả người lái xe và cô gái trẻ đều đã chết trong vụ va chạm đó và được đưa thẳng tới nhà xác.

Một viên bảo vệ chỉ tôi tới bàn thông tin. Một cánh cửa sổ khoét vào bức tường của căn phòng không đánh số cuối hành lang. Một phụ nữ mập mạp ngồi đóng khung trong đó. Nhìn từ xa trông bà ta giống như đang trong ti vi vậy. Cặp kính của bà lòng thòng dưới cổ. Tôi rụt rè bước tới bên cửa sổ và lí nhí hỏi về một người đàn ông và một phụ nữ có thể đã được đưa tới đây sau vụ đụng xe chiều thứ Tư.

— Ờ, cô là họ hàng hả? - bà ta hỏi, thậm chí chẳng buồn liếc mắt về phía tôi.

— Vâng, - tôi lắp bắp. - Em họ.

— Cô đến đây để nhận di vật của anh ta phải không?

— Gì của anh ta cơ ạ?

Bà ta nhìn lướt qua tôi.

— Di vật của anh cô?

— Đúng thế.

— Cô sẽ phải ký nhận.

Chỉ trong vòng mười lăm phút sau, tôi đã thấy mình đứng đó, cầm một chiếc hộp đựng tài sản của ông John A. Corrigan quá cố. Gồm một chiếc quần đen đã bị rạch ở cạnh bằng kéo của bệnh viện, một áo sơ-mi đen, một áo thun trắng mặc trong đốm máu, quần lót, và bít-tất để trong túi nhựa, một mề đay dập biểu tượng tôn giáo, một đôi giày đế mềm màu sẫm đế đã mòn, bằng lái xe, một biên lai phạt vì đỗ xe trái phép trên phố John hồi 7 giờ 44 phút sáng thứ Tư, ngày mồng bảy tháng tám, một gói thuốc lá cuộn, vài mảnh giấy, một vài đô la, và thật kỳ quặc, cả một móc chìa khóa có hình hai đứa trẻ da đen. Ngoài ra còn có một chiếc bật lửa màu hồng phấn, có lẽ đây là đồ vật lạ lùng lạc lõng nhất giữa đám đồ. Tôi không muốn chiếc hộp này. Tôi đã nhận nó vì lúng túng, vì trách nhiệm với lời nói dối của bản thân, một việc bắt buộc phải làm để giữ thể diện, và cũng có lẽ là để che đậy sự thật. Tôi bắt đầu nghĩ rằng có khi chạy khỏi hiện trường như vậy bị coi là tội ngộ sát, hoặc ít ra cũng là tội nặng, và giờ lại thêm một hành động tội lỗi nữa, không mấy nghiêm trọng nhưng lại khiến tôi ghê tởm. Tôi muốn bỏ lại chiếc hộp trên bậc thềm bệnh viện và trốn chạy khỏi bản thân. Tôi đã kích khởi toàn bộ những việc này, và tất cả những gì họ trao cho tôi là di vật của một người đã chết. Thật quá sức của tôi. Giờ đã đến lúc phải về nhà, nhưng tôi đã nhận lấy chỗ đồ đạc nhuốm máu của người đàn ông này. Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc bằng lái. Anh ta trông trẻ hơn cái hình ảnh đã đóng cứng lại trong trí nhớ của tôi. Ánh mắt khiếp đảm dị thường, nhìn ra điểm nào đó tít xa.

— Thế còn cô gái?

— Cô ta ư, D. O. A.[40], - người phụ nữ đáp, như thể đang đọc một biển giao thông.

Bà ta ngước lên nhìn tôi và chỉnh lại cặp kính trên mũi.

— Còn gì nữa không?

— Không, cảm ơn, - tôi lắp bắp.

Những điều tôi có thể thực sự chắp ghép lại là John A. Corrigan - sinh ngày 15 tháng một năm 1943, cao gần mét tám, nặng 70kg, mắt xanh - có thể là bố của hai đứa trẻ da đen ở khu Bronx. Có lẽ anh ta đã kết hôn với cô gái bị ném qua kính chắn gió. Có lẽ những đứa trẻ trong ảnh là con gái anh ta, giờ đã lớn. Hoặc có lẽ đó là một hành vi giấu giếm, như Blaine đã nói, anh ta có thể đang vụng trộm với người phụ nữ đã chết.

Một bản sao đơn thuốc được gập lại dưới đáy hộp. Nét chữ nguệch ngoạc gần như không thể luận ra được. Cardiac tamponade. Clindamycin, 300mg. Trong giây lát tôi như quay trở lại đường cao tốc. Cú chạm vào đuôi xe tải và chính tôi đang xoay lộn trong chiếc xe tải màu nâu ấy. Những bức tường, nước sông, rào chắn.

Mùi áo sơ-mi của anh ta bốc lên khi tôi bước ra chỗ thoáng. Tôi có ước muốn điên rồ là phân phát thuốc lá của anh ta cho những kẻ nghiện thuốc đang vật vờ bên ngoài.

Một lũ con trai người Puerto Rico đang tụ tập ngay trước con Pontiac. Chúng đi những đôi giày màu mè, mặc quần ống loe và nhét mấy bao thuốc dưới tay áo phông. Chúng có thể đánh hơi thấy mùi sợ sệt từ tôi khi tôi rụt rè bước lại. Một thằng bé cao gầy rướn người qua vai tôi và rút ra chiếc túi nhựa đựng đồ lót của Corrigan, vờ kêu la, rồi vứt xuống đất. Những đứa khác phá lên cười hùa theo.

Tôi cúi xuống nhặt chiếc túi lên nhưng cảm thấy một bàn tay lướt qua ngực mình.

Tôi đứng thẳng lên nhìn chằm chằm vào mắt thằng bé kia.

— Mày dám à.

Tôi cảm thấy mình già hơn nhiều so với cái tuổi hai tám, như thể tôi đã trải qua hàng thập kỷ chỉ trong vài ngày qua. Nó lùi lại hai bước.

— Xem thử tí mà.

— Đừng.

— Cho đi nhờ với.

— Pontiac! - Một thằng khác la lên. - Phải Ông Nhọ Thì kêu Í A Cadillac[41]!

— Cho đi nhờ tí mà, cô hai.

Lại thêm những tiếng cười rúc rích.

Nhìn qua vai thằng bé, tôi thấy một nhân viên an ninh của bệnh viện đang tiến về phía chúng tôi. Ông ta đội mũ kêfi, sải bước chạy qua, miệng nói vào bộ đàm. Đám con trai tản ra và chạy mất hút vào phố, hò reo.

— Cô không sao chứ, thưa cô? - ông ta hỏi.

Tôi lóng ngóng với chùm khóa để mở cửa xe. Tôi cứ nghĩ ông ta sẽ đi vòng qua trước xe, phát hiện đèn pha đã vỡ và suy đoán ra tất cả, nhưng ông ta chỉ hướng dẫn tôi đánh xe ra đường nào. Qua gương chiếu hậu tôi nhìn thấy ông ta nhặt chiếc túi nhựa đựng đồ lót mà tôi đã để quên trên vỉa hè lên. Ông ta giơ nó lên nhìn trong giây lát rồi nhún vai, ném vào thùng rác cạnh đường.

Tôi rẽ vào góc phố dẫn tới đại lộ số Hai, ứa nước mắt.

Tôi vào thành phố tiếng là để mua một cái máy quay mới cho Blaine, để ghi lại hành trình của những bức tranh anh vẽ. Nhưng những cửa hàng duy nhất mà tôi biết là ở phố 14, gần khu nhà cũ của tôi. Ai nói là ta không thể trở về nhà nữa chứ? Nhưng thay vì đến đó tôi lại lái xe tới khu Tây thành phố. Rẽ vào một bãi đỗ xe nhỏ trong công viên Riverside dọc bờ sông. Hộp bìa các-tông đặt ở trên ghế trong xe ngay cạnh tôi. Cuộc đời của một người đàn ông xa lạ. Trước giờ tôi chưa từng làm việc gì như thế này. Ý định bồng bột của tôi đã được thực hiện. Mọi chuyện quá dễ dàng, chỉ cần một chữ ký đơn giản và một lời cảm ơn. Tôi nghĩ đến việc thả hết mọi thứ thuộc về anh ta xuống sông Hudson, nhưng có những điều mà ta không thể ép mình làm nổi. Tôi lại nhìn chằm chằm vào bức hình. Người đã đưa tôi tới đây không phải anh ta, mà là cô gái. Tôi vẫn chẳng biết gì về cô ấy cả. Điều này chẳng có ý nghĩa gì. Tôi sẽ làm gì đây? Thực hành nghi thức hồi sinh xác chết kiểu mới à?

Tôi bước ra khỏi xe, mò lấy một tờ báo trong thùng rác gần đó và đọc lướt qua xem có tìm được thông cáo báo tử hay cáo phó nào không. Có một bài xã luận dành cho nước Mỹ của Nixon, nhưng không có cái nào nói về một phụ nữ da đen trẻ chết trong vụ tai nạn mà người gây ra đã bỏ trốn cả.

Tôi lấy hết can đảm lái xe tới Bronx, theo địa chỉ ghi trên tấm bằng lái. Những dãy nhà liền nhau trên những khu đất đã bị bỏ hoang. Những mảnh túi bóng rách tướp vướng trên hàng rào lưới. Những cây catalpa còi cọc oằn mình trong gió. Những xưởng sửa chữa xe hơi. Mới và cũ.

Mùi cao su và gạch cháy. Ai đó viết lên tường: DANTE ĐÃ BIẾN MẤT.

Phải mất rất nhiều thời gian mới tìm được đến nơi. Có hai xe cảnh sát đỗ dưới đường cao tốc Major Deegan. Hai gã cảnh sát đặt một hộp bánh vòng trên bảng đồng hồ giữa họ, như cảnh trong chương trình giải trí hạng xoàng trên ti vi. Họ nhìn tôi chằm chằm, miệng há hốc khi tôi đỗ xe sát họ. Tôi không còn biết sợ hãi là gì nữa. Nếu họ muốn bắt tôi vì đã gây ra tai nạn rồi bỏ trốn, xin cứ việc.

— Nơi này rất lộn xộn, thưa bà, - một trong hai gã nói bằng giọng mũi New York. - Xe hơi kiểu đó sẽ gây chú ý đấy.

— Chúng tôi giúp gì được đây, thưa bà? - Gã kia cũng lên tiếng.

— Có lẽ trước tiên thôi gọi tôi là bà đi chăng?

— Ồ, nóng nảy quá nhỉ?

— Vậy cô cần gì hả tiểu thư? Ở đây chẳng có gì khác ngoài rắc rối đâu.

Và như để xác minh, một chiếc xe đông lạnh đồ sộ giảm tốc khi qua trụ đèn giao thông, người lái xe kéo kính cửa xuống từ từ tấp vào lề đường, ngó ra ngoài, rồi đột ngột tăng tốc vọt đi khi nhìn thấy xe cảnh sát.

— Hôm nay bây khỏi có thuốc đi, - một cảnh sát hét to về phía chiếc xe tải đang phóng qua.

Gã cảnh sát lùn hơn hơi tái mặt khi ngoảnh lại nhìn tôi, gã hơi nhếch cười khiến mí mắt nhăn lại. Gã lấy tay che chỗ mỡ phình ra ở thắt lưng.

— Không buôn bán gì hôm nay hết, - gã nói lại, gần như là hối lỗi.

— Vậy, chúng tôi có thể giúp gì nào? - gã kia hỏi lại.

— Tôi đang tìm địa chỉ để trả lại một vài thứ.

— Thế à?

— Tôi có mang chúng theo. Ở trong xe.

— Cô mua xe ở đâu vậy? Hiệu gì nhỉ? Giống như từ thời 1850 vậy?

— Đó là của chồng tôi.

Hai nụ cười rất nhẹ, nhưng trông họ có vẻ vui vì tôi đã phá vỡ sự buồn tẻ lúc này. Họ bước tới xe của tôi và đi vòng quanh, bàn tay lướt dọc mặt táp lô bằng gỗ, kinh ngạc trước cái phanh tay. Tôi vẫn thường tự hỏi liệu có phải việc tôi và Blaine giữ nếp sống như những năm hai mươi đơn giản là để giữ lại chiếc xe này hay không. Chúng tôi đã mua nó làm quà cưới cho mình. Mỗi lần ngồi trên xe, tôi có cảm giác như được trở lại quãng thời gian bình dị hơn bây giờ.

Gã cảnh sát thứ hai chăm chú nhìn vào hộp di vật. Các món đồ trông thật ghê tởm, nhưng tôi chẳng có tư cách gì để nói. Tôi chợt cảm thấy dằn vặt khi nghĩ đến cái túi nhựa đựng đồ lót mà tôi đã bỏ lại ở bệnh viện, như thể bắt buộc phải có nó thì người đã khuất mới được trọn vẹn vậy. Một gã nhấc tờ biên lai phạt vì đỗ xe không đúng quy định lên, rồi cả tấm bằng lái từ đáy hộp nữa. Gã trẻ tuổi hơn gật đầu.

— Này, đó là cái tay người Ireland, gã linh mục đấy mà.

— Hẳn rồi.

— Cái gã đã phỉ nhổ chúng ta vì vụ mấy ả gái điếm. Gã ta lái chiếc xe tải.

— Gã ở trên tầng năm ấy. Ý tôi là anh trai gã. Đang dọn nốt đồ đạc của gã.

— Một linh mục ư? - tôi bất ngờ.

— Là thầy tu hay đại loại thế. Một trong cái đám hoạt động gì gì. Nhà gì giải phóng đấy nhỉ.

— Nhà thần học, - gã kia bổ sung.

— Đại loại mấy tay cho rằng Chúa cũng cần trợ cấp xã hội.

Người tôi run lên vì giận, rồi tôi nói với hai gã cảnh sát rằng tôi là người quản lý ở bệnh viện và những món đồ này cần phải được gửi trả - liệu họ có phiền gửi chúng cho anh trai của người đã chết không?

— Không phải việc của chúng tôi, cô à.

— Cô nhìn thấy lối đi đằng kia chưa? Ở bên đường kia kìa? Theo lối đó tới tòa nhà màu nâu thứ tư. Bên trái. Đi thang máy.

— Hoặc thang bộ.

— Mà cẩn thận đấy.

Tôi tự hỏi không biết phải cần đến bao nhiêu gã điên rồ mới đủ lập ra được một văn phòng cảnh sát. Lẽ ra chiến tranh phải làm cho họ trở nên dũng cảm hơn, mạnh mẽ hơn. Vậy mà họ lại mang cái dáng vẻ nghênh ngang nạt nộ. Mười nghìn đàn ông đứng bên vòi rồng. Bắn những người da đen. Phang dùi cui vào những người có quan điểm cấp tiến. Hãy yêu lấy hoặc hãy rời bỏ đất nước này. Đừng tin điều gì trừ khi nghe từ chính chúng tôi.

Chú thích:

[40] Dead on Arrival: Chết trên đường đến viện.

[41] Gốc: Poor Old Nigger Thinks It’s A Cadillac, những chữ cái bắt đầu ở mỗi từ ghép lại sẽ thành chữ PONTIAC