- XIX -
TÔI ĐỖ XE BÊN NGOÀI nghĩa trang St. Raymond ở Throgs Neck, đủ xa để không ai nhìn thấy chiếc xe. Tiếng xe cộ rì rầm từ đường quốc lộ vọng lại, nhưng càng tới gần nghĩa địa thì không gian càng ngát hương cỏ tươi mới cắt. Một làn gió nhẹ từ Long Island Sound đưa tới.
Cây cối ở đây thật cao, từng cột nắng xuyên thẳng qua những tán lá. Thật khó mà tin nổi nơi này thuộc khu Bronx, mặc dù tôi đã kịp thấy những hình vẽ grafiti nguệch ngoạc trên rìa tường của một vài lăng mộ, và mấy tấm bia ở gần cổng đã bị phá hỏng. Có một vài tang lễ khác cũng đang được cử hành, hầu hết ở khu nghĩa trang mới, nhưng không khó để nhận ra đâu là đám tang của cô gái kia. Người ta đang khiêng quan tài đi theo con đường có hàng cây ở hai bên về phía nghĩa trang cũ. Trẻ con mặc đồ trắng tinh, còn quần áo của đám phụ nữ trông chắp vá, những cái váy ngắn cũn cỡn, những đôi giày cao lêu đêu, những khe ngực quấn khăn choàng che tạm. Giống như họ đã tới một hội chợ giảm giá kỳ lạ, nơi những bộ đồ đắt tiền sáng láng đều đã bị giấu kín dưới những mảnh miếng tối màu. Người đàn ông Ireland trông thật nhợt nhạt giữa bọn họ, quá sức trắng.
Một người đàn ông mặc bộ com-lê màu mè, đầu đội mũ có gắn chiếc lông chim màu tía, đi phía cuối đám rước. Ông ta trông như đang phê trắng mắt và có vẻ đầy ác ý. Bên dưới áo vét, ông ta mặc áo cổ lọ màu đen bó sát và đeo dây chuyền vàng có gắn lủng lẳng một cái thìa.
Một cậu bé chỉ tầm tám tuổi chơi kèn saxophone, tuyệt hay, như chú bé đánh trống thời Nội chiến. Tiếng nhạc dìu dặt vang khắp nghĩa địa.
Tôi đứng ở đằng xa, trên khoảnh cỏ mọc um tùm gần đường, nhưng khi tang lễ vừa bắt đầu, anh trai của John A. Corrigan đã bắt gặp ánh mắt tôi và gật đầu ra hiệu cho tôi tới gần. Chỉ có khoảng hai mươi người đứng quanh mộ nhưng đám phụ nữ trẻ khóc lóc có vẻ rất thật lòng.
— Ciaran, - anh ấy nhắc lại, đưa tay về phía tôi, như thể e tôi đã quên. Anh mỉm cười ngượng nghịu. Chúng tôi là hai người da trắng duy nhất ở đó. Tôi những muốn với tay chỉnh lại cà vạt cho anh ấy, vuốt lại những sợi tóc lòa xòa của anh ấy, chỉnh trang cho anh ấy.
Một phụ nữ - chắc hẳn là mẹ của cô gái đã chết - đứng khóc nức nở cạnh hai người đàn ông mặc com-lê. Một phụ nữ khác, trẻ hơn, bước đến bên bà ta. Bà này cởi chiếc khăn choàng màu đen tuyệt đẹp của mình ra và quàng lên vai mẹ cô gái.
— Cảm ơn, Angie.
Vị linh mục - một người đàn ông da đen tao nhã, gầy gò - hắng giọng và tất cả đám người im lặng. Ông ta giảng giải về việc linh hồn hân hoan vui sướng trong thể xác đã quỵ ngã, việc chúng ta phải học cách làm quen với sự thiếu vắng của thể xác ra sao và phải biết trân trọng những gì đã qua như thế nào, Jazzlyn đã có một cuộc đời vất vả, ông ta nói. Cái chết chẳng thể chứng minh hay giải thích cho điều đó. Một phần mộ không thể sánh với những gì chúng ta đã có khi còn sống. Vấn đề có lẽ không nằm ở thời gian hay nơi chốn, ông ta nói, dù sao ông ta cũng sắp nói về sự công bằng. Sự công bằng, ông ta lặp lại. Rút cục chỉ có tính ngay thẳng và sự thật chiến thắng. Ngôi nhà của công lý đã bị phá hủy, ông ta nói. Những cô gái trẻ như Jazzlyn bị buộc phải làm những điều khủng khiếp. Khi họ lớn lên, thế giới đã đòi hỏi ở họ những điều không tưởng. Đây là một thế giới đồi bại. Nó đẩy cô ấy đến với những điều tồi tệ. Cô ấy không mong muốn điều đó. Nhưng nó cứ xảy đến với cô ấy, ông ta nói. Cô ấy bị đè nén dưới cái ách bạo ngược. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ đã qua, ông ta nói, nhưng nó vẫn còn hiện diện. Cách duy nhất để đấu tranh chống lại nó là dùng sự khoan dung, công bằng, và lòng tốt. Sống lương thiện thì khó hơn nhiều so với sống ác. Những kẻ ác biết rõ về điều đó hơn là những người lương thiện. Đó là lý do khiến họ trở thành người ác. Đó là lý do họ bị vướng vào tội lỗi. Cái ác luôn dành cho những kẻ không bao giờ đến được với sự thật. Nó là mặt nạ che đậy cho sự ngu ngốc và thiếu tình yêu thương. Dù mọi người có cười nhạo khái niệm về lương thiện, cho nó là ủy mị, hay hoài cổ, điều đó cũng chẳng quan trọng - nó không phải như vậy, ông ta nói, và người ta phải đấu tranh mới có thể có được nó.
— Công bằng, - mẹ của Jazzlyn lặp lại.
Người thuyết pháp gật đầu, rồi nhìn lên những cái cây cao. Jazzlyn là một đứa trẻ lớn lên ở Cleveland và New York, ông ta nói, cô ấy đã nhìn thấy những ngọn đồi xa tít của sự lương thiện và cô ấy biết rằng một ngày nào đó cô ấy sẽ đến được nơi đó. Đó luôn là một hành trình đầy gian khó. Trên đường đi cô ấy đã phải đối mặt với vô số điều ác. Cô ấy cũng có được những người bạn, như John A. Corrigan, người đã cùng bỏ mạng với cô ấy, nhưng nói chung cô ấy đã luôn bị cuộc đời đùa bỡn, hành tội và lợi dụng. Dẫu sao sống là phải biết vượt qua khó khăn để giành được một chút ít cái đẹp, ông ta nói, và giờ cô ấy đang trên đường tới nơi mà ở đó sẽ không còn bất kỳ quyền lực nào trói buộc cô ấy hay biến cô ấy thành nô lệ, không còn bất kỳ kẻ vô lại nào bắt cô ấy làm những điều sai trái, và không ai trong số những người thân sẽ biến thịt da cô ấy thành lợi nhuận. Ông ta đứng thẳng người lên và nói: Hãy để người đời nói rằng cô ấy không phải hổ thẹn.
Đám đông nhất loạt gật đầu.
— Đáng hổ thẹn phải là những kẻ đã muốn hủy hoại cô ấy.
— Vâng, - mọi người đồng thanh đáp lại.
— Hãy để cho đây trở thành bài học cho tất cả chúng ta, - linh mục nói. Một ngày nào đó các con sẽ bước đi trong bóng tối và sự thật sẽ đến soi đường các con, và các con sẽ không bao giờ còn muốn nhìn lại cuộc sống đã bị bỏ lại sau lưng.
— Vâng.
— Cuộc sống tồi tệ đó. Cuộc sống đồi bại đó. Ngay trước mắt các con, đường thiện đang trải dài. Các con đi theo con đường đó và rồi mọi việc sẽ tốt đẹp. Không dễ, nhưng tốt. Có lẽ sẽ đầy ắp những khó khăn và những điều đáng sợ, nhưng những ô cửa sẽ mở ra bầu trời và con tim sẽ được gột rửa, các con sẽ được chắp cánh.
Phút giây kinh hoàng khi Jazzlyn bay qua kính chắn gió chợt trở lại trong đầu tôi. Tôi cảm thấy choáng váng. Môi của người linh mục vẫn mấp máy, nhưng trong giây lát tôi như không còn nghe được gì nữa. Ông ta nhìn vào một điểm nào đó trong đám đông, ánh mắt dừng mãi ở người đàn ông đội mũ màu tía đứng sau tôi. Tôi liếc nhìn lại. Người đàn ông kia đang cắn môi trên đầy giận dữ và cơ thể ông ta dường như cuộn lại, sẵn sàng cho việc đánh đấm. Chiếc mũ che khuất một phần khuôn mặt nhưng vẫn nhìn ra hình như ông có một mắt giả bằng thủy tinh.
— Những con rắn sẽ bị diệt vong cùng những con rắn, - linh mục nói.
— Vâng thưa cha, một giọng phụ nữ vang lên.
— Chúng sẽ biến mất.
— Vâng.
— Hãy để chúng biến khỏi đây.
Người đàn ông đội mũ tía vẫn không nhúc nhích. Không ai nhúc nhích cả.
— Tiếp tục đi! - mẹ của Jazzlyn gào lên, khuôn mặt nhăn nhúm. Trông bà ta giống như bị quất bằng roi da nhưng bà ta đang quằn quại và giãy giụa thoát khỏi nó. Một trong hai người đàn ông mặc com-lê túm lấy cánh tay bà ta. Hai vai bà ta gồng lên, giọng bà ta gay gắt đầy giận dữ.
— Cút khỏi đây ngay đồ khốn kiếp!
Trong giây phút khiếp đảm, tôi tự hỏi liệu có phải bà ta đang quát tôi không, nhưng bà ta lại nhìn ra phía sau tôi, chĩa vào gã đàn ông đội mũ lông chim. Tiếng chửi rủa đồng thanh nghe chát chúa hơn. Vị linh mục đưa tay ra yêu cầu tất cả bình tĩnh. Phải đến lúc đó tôi mới nhận ra hai tay mẹ Jazzlyn tự nãy giờ toàn để sau lưng, bị còng lại. Hai người đàn ông da đen mặc com-lê đứng sau bà ta là cảnh sát của thành phố.
— Cút khỏi đây ngay, thằng chột, - bà ta lại gào lên.
Gã đàn ông đội mũ đợi một lát, giơ tay lên cao, rồi nở một nụ cười rộng ngoác. Gã đặt tay lên vành mũ, kéo nghiêng, quay lưng và biến mất. Một niềm vui nho nhỏ dâng trào giữa đám người đang than khóc. Họ nhìn gã bảo kê đi xuống đường rồi mất hút. Gã ta nhấc mũ lên nhưng không ngoảnh lại, vẫy vẫy nó trên cao, không giống như một người đang thực sự nói lời tạm biệt.
— Những con rắn độc đã đi, - vị linh mục nói. - Hãy cứ để chúng biến mất.
Ciaran giữ chặt cánh tay tôi. Tôi đang cảm thấy ớn lạnh và nhơ nhớp: giống như khoác trên mình một chiếc áo quá hở hang. Tôi không có quyền đến nơi này. Tôi đang giẫm đạp lên lãnh thổ của họ. Nhưng buổi lễ đã nhắc đến một điều gì đó rất đúng: Sau lưng con sẽ là một cuộc sống mà con không bao giờ muốn nhìn lại.
Tiếng khóc than cũng đã cạn, mẹ của Jazzlyn nói: Hãy bỏ những thứ chết tiệt này ra khỏi người tôi.
Cả hai gã cảnh sát nhìn chằm chằm về phía trước.
— Tôi đã bảo là bỏ những thứ chết tiệt này ra khỏi người tôi cơ mà!
Cuối cùng, một gã cũng bước ra sau bà ta và tháo còng tay ra.
— Tạ ơn Chúa.
Bà ta giũ hai tay và đi vòng quanh phần mộ chưa được lấp, tiến về phía Ciaran. Chiếc khăn của bà ta hơi trượt xuống để lộ rãnh ngực sâu. Ciaran mặt đỏ bừng bối rối.
— Tôi muốn kể câu chuyện nhỏ này, - bà ta nói.
Bà ta hắng giọng và tất thảy đám đông đều chăm chú nghe.
— Con Jazzlyn của tôi, hồi nó mới mười tuổi. Nó coi thấy bức tranh một tòa lâu đài trên tạp chí ở đâu đó. Thế là nó cắt bức tranh ra, dán lên tường phía trên giường ngủ của nó. Như tôi kể đó, chẳng có gì đáng nói hết, mà tôi cũng chưa bao giờ thực sự để ý mấy chuyện đó. Nhưng khi nó gặp Corrigan...
Bà ta chỉ tay về phía Ciaran, lúc này đang nhìn xuống đất.
—... và một ngày kia anh ta mang café đến, con bé kể cho anh ta nghe chuyện về bức tranh, tòa lâu đài - có lẽ nó thấy buồn chán quá thì tìm chuyện mà nói thôi, tôi cũng không biết nữa. Nhưng anh biết Corrigan rồi đấy - cậu miu nhỏ đó chịu lắng nghe đủ mọi thứ. Anh ta chịu chuyện. Và, tất nhiên rồi, Corrie tỏ ra rất hào hứng. Anh ta nói rằng anh ta đã thấy những lâu đài y như vậy ở quê mình. Và anh ta còn nói rằng một ngày nào đó sẽ đưa con bé tới một tòa lâu đài hệt như thế. Còn hứa chắc với nó. Mỗi ngày anh ta đều ra ngoài và mang café về cho con bé rồi nói với đứa con gái bé bỏng của tôi rằng anh ta đang chuẩn bị mọi thứ cho tòa lâu đài, việc của nó chỉ là đợi thêm mà thôi. Ngày này thì anh ta bảo anh ta đang xây hào bao quanh. Ngày khác lại bảo anh ta đang xây chiếc cầu treo. Rồi anh ta sẽ nói là đang thi công các tòa tháp nhỏ. Rồi anh nói là đang chuẩn bị cho một bữa tiệc lớn. Họ sẽ có rượu mật ong gì đó - thì cũng là rượu thôi - và rất nhiều thức ăn ngon, còn có cả dàn nhạc và khiêu vũ.
— Phải đó, - người phụ nữ mặt dày phấn lên tiếng.
— Mỗi ngày anh ta đều có một điều gì đó mới mẻ để nói về tòa lâu đài. Đó giống như một trò chơi nhỏ của hai đứa vậy, và phải nói rằng Jazzlyn rất thích chơi trò đó.
Bà ta túm lấy cánh tay Ciaran.
— Đó là tất cả, - bà ta nói. - Đó là tất cả những gì tôi cần nói. Chuyện là thế đấy. Mẹ kiếp, xin lỗi vì đã kể chuyện đó. Đám đông đồng thanh nói amen. Bà ta quay sang đám phụ nữ và bình phẩm điều gì đó nghe rất lạ, loáng thoáng như chuyện dùng nhà tắm trong lâu đài. Vài người cười rúc rích. Rồi một điều kỳ lạ đã xảy ra - bà ta bắt đầu trích dẫn những vần thơ của một tác giả nào đó mà tôi không rõ tên, một câu thơ về những cánh cửa mở và một tia nắng rọi vào đúng giữa sàn nhà. Chất giọng Bronx của bà ta thổi ra những vần thơ, cho tới khi chúng rụng xuống chân bà. Bà ta rầu rĩ nhìn xuống chúng, sự rụng rơi của chúng, nhưng rồi bà nói rằng trước mặt Corrigan giờ có đầy những cánh cửa mở, và anh ta cùng Jazzlyn sẽ có vô khối thời gian ở bất cứ nơi đâu họ đến; mỗi cánh cửa đều sẽ mở, đặc biệt là cánh cửa tới tòa lâu đài.
Sau đó bà ta tựa vào vai Ciaran và bắt đầu khóc: Tôi là một người mẹ tồi, bà ta nói, tôi là một người mẹ đáng nguyền rủa.
— Không, không đâu, cô là người tốt.
— Làm gì có lâu đài quái quỷ nào.
— Chắc chắn là có chứ, - anh ấy an ủi.
— Tôi không có ngốc nhé, - bà ta nói. Anh không cần phải phỉnh tôi như con nít.
— Được rồi.
— Tôi đã giết chết nó.
— Cô đừng nên dằn vặt bản thân quá...
— Nó đã chết trong vòng tay của tôi.
Bà ta ngửa mặt lên trời và túm lấy ve áo của người đứng gần nhất.
— Bọn trẻ nhà tôi đâu rồi?
— Giờ cô ấy đã ở trên thiên đường, chị đừng có lo.
— Bọn trẻ nhà tôi cơ mà, - bà ta nhắc lại. - Con của con gái tôi.
— Chúng ổn cả, chị Till ạ, - một phụ nữ đứng gần mộ nói.
— Có người trông chúng rồi.
— Chúng sẽ tới thăm chị, Till ạ.
— Hứa với tôi đi? Ai chăm sóc cho chúng? Giờ chúng ở đâu?
— Till, em thề. Chúng đều ổn.
— Hứa với tôi đi.
— Thề có Chúa, - giọng một phụ nữ.
— Angie, cô giỏi thì hứa đi.
— Em hứa mà. Mọi thứ đều ổn, Tillie à. Em hứa đấy.
Bà ta lại tựa vào Ciaran và rồi quay ra, nhìn thẳng vào mắt anh ấy, nói: Anh còn nhớ chúng ta đã làm gì không? Anh còn nhớ em không?
Ciaran trông như đang cầm một thanh thuốc nổ vậy. Không biết có nên giữ và bao giấu nó lại hay ném nó khỏi người mình càng xa càng tốt. Ánh mắt anh ấy liếc vội về phía tôi, rồi vị linh mục, nhưng rồi anh ấy ngoảnh lại nhìn bà ta và vòng tay ôm bà ta thật chặt. Anh ấy nói: Tôi cũng nhớ Corrie. Những người phụ nữ khác bước tới và lần lượt được anh ấy ôm. Họ ôm chặt anh ấy như thể anh ấy là hiện thân của người em trai. Anh ấy lại nhìn tôi và khẽ nhướn lông mày, nhưng cử chỉ đó nom tử tế và phải lẽ - lần lượt từng người một, họ bước tới ôm anh ấy.
Anh ấy thọc tay vào túi lấy ra chiếc móc khóa có ảnh bọn trẻ, đưa cho mẹ của Jazzlyn. Bà ta nhìn chằm chằm vào đó, mỉm cười, rồi đột nhiên tiến tới và tát vào mặt Ciaran. Anh xem ra lại biết ơn vì điều đó. Một trong hai gã cảnh sát nhếch mép cười. Ciaran gật đầu và mím môi lại, rồi quay bước trở lại chỗ tôi.
Tôi không hiểu nổi mình đã vướng vào loại rắc rối nào nữa.