- XXII - CHỮ KÝ
BẮT GẶP NÓ Ở ĐÂY, CHỖ KHỚP NỐI giữa các toa tàu, trong một buổi sáng đã bắt đầu trở nên oi bức nóng nực. Cuộn phim chỉ còn chín pô. Mấy bức ảnh hầu hết là chụp trong bóng tối. Có ít nhất hai tấm chụp khi đèn flash không nháy. Bốn tấm chụp trên đoàn tàu đang chạy. Một tấm khác chụp ở Concourse thì đúng là đồ bỏ đi, nó chắc mẩm như vậy.
Nó quét mắt trên lớp sàn bằng kim loại mỏng khi đoàn tàu lắc lư tiến về phía nam, rời khỏi Grand Central. Có lúc nó thấy phát chóng mặt chỉ vì dõi xem đã đến khúc cua tiếp theo chưa. Cái tốc độ đó. Cái tiếng động quay cuồng bên tai đó. Thực sự chúng làm nó sợ. Khối thép rung gõ đều đều xuyên qua cơ thể nó. Cứ như thể có cả một đoàn tàu bên trong đôi giày thể thao. Kiểm soát và quên lãng. Đôi khi nó có cảm giác chính mình là người lái tàu. Đi quá sang trái là đoàn tàu sẽ đâm vào góc hầm và sẽ có hàng triệu thi thể biến dạng bày la liệt trên đường ray. Còn quá sang bên phải thì các toa tàu sẽ trượt ngang và thế là vĩnh biệt, rất vui được biết các bạn, hẹn gặp lại trên các dòng tít báo. Nó đã lên tàu từ Bronx, một tay cầm máy ảnh, tay kia bám vào cửa toa. Chân dang rộng để giữ thăng bằng. Hai mắt dán chặt vào vách tường hầm, tìm kiếm các chữ ký[43] mới.
Nó đang trên đường tới trung tâm thành phố làm việc, nhưng mà mặc xác những lược, những kéo, những chai bọt cạo râu - nó đang hy vọng buổi sáng bắt đầu bằng một chữ ký. Đó là thứ duy nhất có thể bôi trơn các khớp nối trong một ngày của nó. Mọi thứ khác đều sẽ trôi tuột đi, chỉ có những chữ ký là còn đọng lại trong đáy mắt. PHASE 2. KIVU. SUPER KOOL 223. Nó rất thích cái cách những con chữ uốn lượn, những hình cung, những nét ngoặt, những ngọn lửa, rồi những đám mây.
Nó bắt chuyến tàu nội thành chỉ để xem ai đã ở đó suốt đêm và ký tên lên tường hầm, và để xem họ chìm sâu trong đêm tối như thế nào. Nó không có nhiều thời gian để ngắm các bức vẽ trên mặt đất, trên thành cầu, sân ga, tường nhà kho hay thậm chí trên các xe đổ rác. Toàn những thứ vớ vẩn. Bất cứ thằng măng sữa nào cũng có thể vẽ những chữ cái có đường viền thân trên tường: Nó chỉ ưa nhất những chữ ký dưới lòng đất thôi. Những thứ chỉ thấy trong bóng tối. Trên thành đường hầm. Sự bất ngờ của chúng. Càng sâu càng tốt. Sáng bừng lên nhờ đèn tàu và lướt qua nhanh đến nỗi nó không chắc có đúng mình đã nhìn thấy chúng hay không. JOE 182, COCO 144, TOPCAT 126. Một số chỉ là những đường nguệch ngoạc. Số khác trải suốt từ nền đến tận trần, có khi tốn đến hai ba hộp sơn chứ không ít, những con chữ xoắn vào nhau như không muốn dứt, như thể chúng đã cuốn vào mình cả một luồng không khí. Một số nữa thì chạy dài theo đường hầm đến tận mét rưỡi. Bức vẽ đẹp nhất dài năm mét rưỡi ngay dưới phố Grand Concourse.
Lúc trước mấy tay vẽ tường chỉ dùng có một màu, thường là màu bạc để nó dễ bắt sáng dưới lòng đất. Nhưng mùa hè này đã có đến hai, ba, bốn màu: đỏ, xanh lam, vàng, thậm chí cả màu đen. Nó rất ngạc nhiên khi lần đầu trông thấy chúng - ai lại ký tên mình bằng ba màu lên cái chỗ mà chẳng ai thấy bao giờ. Có thể con người đó rất kiêu hãnh hoặc rất xuất sắc hoặc cả hai. Cả ngày nó đi đi lại lại, tâm trí cứ trở đi trở lại chuyện đó. Kích thước của ngọn lửa. Chiều sâu. Thậm chí họ còn dùng những hộp sơn có kích cỡ vòi phun khác nhau: cứ nhìn hình dạng những vệt sơn toé ra thì biết. Nó hình dung những người vẽ đột nhập vào đường hầm, mặc kệ đường ray thứ ba, những chuột, những bụi, nào mùi, nào gỉ sắt, rồi cửa hầm, bậc thang, đèn tín hiệu, dây điện, đường ống, đường ray cắt, John 3:16[44], rác rưởi, lưới mắt cáo, và các vũng nước lầy.
Điều cực ngầu là mấy tay đó làm việc ấy bên dưới thành phố. Cứ như thể người ta đã vẽ kín trên mặt đất rồi nên còn mỗi chỗ này để vẽ nữa mà thôi. Như thể họ đã đến một biên giới mới. Đây là nhà của tôi. Đọc mà khóc đi.
Nó đã từng ra công tìm hiểu những hình sơn nhanh kiểu “oanh tạc”, đi trên những con tàu phủ đầy hình vẽ, nơi bản thân nó cũng chỉ là một sắc màu, một vệt sơn trong hàng trăm vệt sơn khác. Đóng kín cửa chạy về khu trung tâm, qua những khu ổ chuột. Không lối ra. Nó từng nhắm chặt mắt đứng gần cửa ra, lắc lư đôi vai, nghĩ về những sắc màu chạy qua quanh nó. Không phải ai cũng “oanh tạc” được cả một đoàn tàu. Cần phải đích thân làm tất mọi chuyện. Leo rào bao sân, nhảy qua đường ray, đâm phải xe hơi, chạy trốn, khiến khối thép xuất hiện trong buổi mai rực rỡ mà không ô cửa sổ nào còn nhìn xuyên qua nổi, cả đoàn tàu bị sơn vẽ suốt từ đầu đến đuôi. Có vài lần nó thử lang thang ở khu Concourse, nơi đám phun sơn gốc Puerto Rico và Dominica hay tụ bạ, nhưng cánh ấy không thèm để mắt đến nó, không một ai, bảo nó lượn đi cho đỡ quắn, lại gọi nó là thằng đần, đầu đất, gà mờ. Chuyện là, nó đã từng là một học-sinh-toàn-điểm-A trong suốt năm học. Nó chẳng muốn thế nhưng thực tế đúng là như vậy - nó là đứa duy nhất không bao giờ cúp học. Thế là bọn kia giễu cợt nó. Nó lảng đi. Nó còn định bụng qua khu da đen ở mé kia khu Concourse, nhưng rốt cục lại thôi. Nó trở lại cùng cái máy ảnh, cái máy lấy từ hiệu cắt tóc, đến chỗ bọn Rico, bảo nó có thể giúp chúng trở nên nổi tiếng. Bọn kia lại cười vào mũi nó, rồi nó còn bị một thằng ranh 12 tuổi tát vào mặt, nhục nhã.
Nhưng đến giữa mùa hè, trên đường đi làm, nó len lỏi giữa những toa tàu, đoàn tàu dừng ngay ngoài đường 138; khi đang loạng choạng bước trên những tấm thép, chính lúc đoàn tàu lại khởi hành, nó chợt bắt gặp một hình ảnh mờ ảo lướt nhanh. Nó không biết đó là cái gì, một thứ màu bạc khổng lồ lướt bay. Hình ảnh đó vẫn in trong trong mắt nó suốt cả ngày làm ở tiệm cắt tóc.
Ở đó. Là của nó. Nó sở hữu bức vẽ. Không thể cọ rửa. Người ta không thể nhúng cả một bức tường hầm vào chậu axit. Không thể chà xóa nó. Một chữ ký cỡ đại. Thấy nó chẳng khác nào phát hiện ra kim cương.
Trên đường về nó lại đứng ở chỗ nối giữa hai toa tàu, chỉ để xem lại cho kỹ, và cái chữ ký đó vẫn ở kia, STEGS 33, rất to, một mình cô đơn giữa đường hầm, không có chữ nào xung quanh đó nữa. Nó cực kỳ sửng sốt vì người vẽ đã phải đi xuống hầm, vẽ chữ ấy lên tường rồi đi ngược trở lên, qua đường ray thứ ba, lên những bậc thang bẩn thỉu, qua cánh cổng sắt rồi bước ra ánh sáng, đi vào thành phố, tên mình để lại dưới chân.
Nó nghênh ngang đi ngang phố Concourse, liếc xéo mấy tay vẽ tường suốt ngày chỉ loanh quanh trên mặt đất. Một lũ đầu đất. Nó đã nắm được bí mật. Nó biết những chỗ đó. Nó có chìa khoá trong tay. Nó bước qua mặt chúng, vai đung đưa ngang tàng.
Nó bắt đầu thường xuyên đi tàu điện ngầm, lòng tự hỏi những nghệ sĩ đó có khi nào mang đèn pin xuống đây không, hay họ đi theo nhóm hai ba người, như những kẻ oanh tạc sân ga, một cảnh giới, một cầm đèn pin và một vẽ chữ ký. Nó không còn thấy ngại đến tiệm cắt tóc của người bố dượng trong phố nữa. Ít nhất công việc làm thêm này cũng cho nó cơ hội đi tàu điện ngầm. Đầu tiên nó còn đứng dán mặt vào cửa sổ, nhưng rồi bắt đầu đi hết toa này đến toa khác, mắt không rời những bức tường hầm, tìm kiếm một dấu hiệu. Nó thích nghĩ rằng những nghệ sĩ đó làm việc một mình trong bóng tối, không cần đèn đóm gì ngoài mấy que diêm thi thoảng, hoặc để nhìn bố cục, hoặc để nhấn thêm một màu sắc, hoặc lấp đầy khoảng còn trống, hoặc uốn ra một chữ cái. Tác phẩm kiểu du kích. Thời gian giữa hai chuyến tàu không bao giờ quá nửa tiếng đồng hồ, ngay cả lúc đêm khuya. Nó thích nhất là những đường viền lớn phóng túng. Khi tàu đi qua nó giữ chặt hình ảnh ấy trong tâm trí rồi cả ngày cứ nghĩ đến nó, những đường thẳng, những đường cong, những chấm tròn.
Chưa bao giờ nó tự tay vẽ một chữ ký, nhưng nếu có cơ hội rành rành, khi không phải chịu hậu quả, không hứng những cái tát của bố dượng, không bị cấm túc, thì nó sẽ phát minh ra một phong cách hoàn toàn mới, điểm chút màu đen trong sắc đen, chấm chút màu trắng trên nền trắng toát, hoặc sống động với đỏ, trắng và xanh, khuấy đảo các-tông màu, đưa vào một chút phong cách Rico, một chút đen, hoang dại, làm cánh kia phải sửng sốt - cốt là để như thế mà - làm chúng phải gãi đầu gãi tai, ngồi thẳng dậy mà chú ý đến mình. Nó có thể làm được như thế. Thiên tài - bọn kia sẽ khen nó thế. Nhưng thiên tài phải là người đầu tiên nghĩ ra điều gì đó. Một ông thầy đã bảo nó như thế. Thiên tài thường cô đơn. Trước đây nó có một ý tưởng. Nó muốn lấy một cái máy chiếu và đặt ảnh bố mình vào. Nó muốn phóng hình ảnh ấy khắp nhà, để cho mẹ nó lúc nào cũng nhìn thấy người chồng đã bỏ đi mất, người bà ấy từ bỏ, người mà nó đã không gặp mười hai năm liền, người mà mẹ nó đã đánh đổi để lấy lão Irwin. Nó muốn chiếu hình bố mình ở đó, như các chữ ký, làm cho ông trở nên ma quái mà vẫn rất chân thật trong bóng đêm.
Nó không rõ người vẽ có bao giờ đến xem lại chữ ký của mình không, trừ khoảnh khắc người đó lui một bước nhìn chữ ký chưa ráo mực trên vách hầm. Bước qua đường ray thứ ba để liếc nhanh tác phẩm một cái. Phải cẩn thận, nguồn điện ở đó những hai nghìn vôn đấy. Có khi có tàu chạy qua nữa. Hoặc cảnh sát sẽ phát hiện ra kẻ xâm nhập với hàng luồng đèn pin và dùi cui. Hoặc một tay đĩ đực tóc dài thò ra từ trong tối, mắt trắng dã, dao cầm tay, lột túi, moi ruột. Phải ngoáy cho nhanh nhanh mà phắn ngay trước khi bị tóm.
Nó bám chặt khi toa tàu rung lắc. Phố Ba mươi ba. Hai mươi tám. Hai mươi ba. Quảng trường Union, chỗ nó băng qua sân ga và đổi sang chuyến số 5, lẩn vào giữa các toa và đợi đoàn tàu rùng mình chuyển bánh. Sáng nay không có thêm chữ ký mới nào trên tường. Có đôi lúc nó nghĩ hay cứ mua vài bình sơn, nhảy xuống tàu và xịt lên tường, nhưng sâu thẳm trong lòng nó biết mình không có cơ hội: cầm máy ảnh trong tay thì dễ dàng hơn. Nó có thể chụp ảnh, đưa chúng ra từ trong bóng tối, nâng chúng lên khỏi phạm vi các hẻm phố. Khi tàu tăng tốc, nó kẹp cái máy ảnh dưới vạt áo sơ-mi để nó đỡ xóc nảy. Đã mất mười lăm pô trong cuốn phim hai mươi tư pô rồi. Nó thậm chí không chắc có cái nào được rửa ra không nữa. Năm ngoái một vị khách ở hiệu cắt tóc đã cho nó cái máy ảnh, một gã trai phố sành điệu, khoe khoang. Cứ thế đưa cho nó thôi, cả bao da các thứ. Nó không biết phải làm gì với cái máy ảnh. Lúc đầu nó vứt ra sau giường, nhưng rồi một buổi chiều lại lôi ra xem xét, thử nháy nháy những gì nó thấy.
Thế là đâm ra thích. Rồi mang đi khắp nơi. Sau đó mẹ nó còn cho tiền để rửa những bức ảnh ra. Chưa bao giờ mẹ nó thấy nó đam mê cái gì như thế. Hiệu Minolta SR-T 102. Nó thích cảm giác vừa vặn của cái máy trong lòng bàn tay. Lúc nào nó thấy bối rối - vì người bố dượng, vì mẹ nó, hay có khi chỉ vì phải chường mặt ra giữa sân trường sân trường - nó có thể giấu gương mặt mình sau ống kính.
Giá mà nó có thể ở dưới đó cả ngày, trong bóng tối, trong cái nóng, tới tới lui lui trên các toa tàu, chụp ảnh và trở nên nổi tiếng. Nó nghe nói có một cô nàng đã lên trang nhất của tờ Village Voice mới hồi năm ngoái. Nhờ bức ảnh chiếc xe hơi bị bom nổ tung đang lao vào đường hầm ở khu Concourse. Cô ta chụp được cảnh đó trong ánh sáng vừa vặn pha trộn giữa ánh mặt trời và bóng tối đường hầm. Luồng sáng từ đèn pha chiếu vào cô ta và tất cả các chữ ký trải dài trên vách hầm phía sau. Đúng lúc, đúng chỗ. Nghe nói cô ta kiếm được khá bở, mười lăm đô la hoặc hơn. Lúc đầu nó chắc đó chỉ là tin đồn, nhưng khi đến thư viện, nó tìm thấy số báo cũ và bức ảnh đó, trang trong đăng lại, kèm tên cô ta ở dưới góc ảnh. Nó còn nghe nói có hai thằng dân Brooklyn cũng đáp tàu điện chụp hình, một đứa có máy Nikon, và đứa kia đâu như chơi con Leica.
Nó cũng từng thử một lần. Hồi đầu hè nó đem một bức ảnh đến tờ The New York Times. Tấm ảnh chụp một người đang vắt vẻo trên cầu vượt Van Wyck, mải mê phun sơn. Rất đẹp, được chụp trong bóng râm, người phun sơn treo lơ lửng trên dây thừng, với vài đám mây xốp phồng ở hậu cảnh. Cũng đáng lên trang nhất đấy, nó chắc mẩm. Nó nghỉ nửa ngày ở hiệu cắt tóc, lại còn mặc cả sơ-mi cà vạt. Nó bước vào toà nhà trên phố 43 và nói nó muốn gặp người biên tập ảnh, vì nó có một bức ảnh điệu nghệ, một kiệt tác. Nó đã học được thuật ngữ đó từ trong một cuốn sách. Bảo vệ - một gã da màu lực lưỡng - gọi một cú điện thoại, vươn người qua bàn và nói: “Cứ để phong bì lại đây, anh bạn.”
— Nhưng tôi muốn gặp người biên tập ảnh.
— Giờ anh ta đang bận rồi.
— À, thế khi nào anh ta hết bận? Thôi nào, người anh em, làm ơn đi mà?
Tay bảo vệ phá lên cười và quay đi, một lần, rồi hai lần, sau đó nhìn chằm chằm vào mặt nó: Người anh em hả?
— Thưa chú ạ.
— Cậu bao nhiêu tuổi rồi?
— Mười tám.
— Thôi đi nhóc. Bao nhiêu?
— Mười bốn. - Nó nói, mắt cụp xuống.
— Horatio José Alger hả! - hắn ngoạc mồm ra cười. Hắn gọi thêm hai cú điện thoại nữa nhưng sau đó nhìn lên, hai mắt hùm hụp, như biết trước kết quả: “Ngồi ra kia đi cậu cả. Tôi sẽ bảo cậu khi nào anh ta đi qua.”
Sảnh toà nhà toàn những kính sáng loáng và com-lê và những cặp chân trần mịn mượt. Nó ngồi chờ một mạch hai tiếng cho đến khi người bảo vệ nháy mắt với nó. Thế là nó đi đến trước tay biên tập ảnh và dúi cái phong bì vào tay hắn. Hắn đang ăn nửa cái bánh kẹp Reuben. Răng vẫn còn dính một mẩu rau diếp. Bản thân hắn trông đã giống một bức ảnh rồi. Hắn lầm bầm tiếng cảm ơn rồi đi ra khỏi toà nhà, xuống đại lộ số Bảy, đi qua những chỗ chiếu phim thùng kính[45], mấy tay cựu binh vô gia cư, tấm ảnh kẹp dưới cánh tay. Nó theo hắn được năm khu nhà, thế rồi mất dấu hắn trong một đám đông chen chúc. Thế rồi nó chẳng nghe tin gì về tấm ảnh đó nữa, không một tí gì hết. Chờ một cuộc điện thoại nhưng không có. Thậm chí ba lần liền cứ hết ca là nó quay lại sảnh tòa nhà đó, nhưng tay bảo vệ nói gã không thể làm được gì hơn nữa. “Xin lỗi nhé chú em.” Có thể biên tập viên đã đánh mất tấm ảnh. Hoặc định ăn cắp luôn. Cũng có thể hắn sắp gọi nó bất cứ lúc nào. Hoặc đã để lại lời nhắn chỗ hiệu cắt tóc mà Irwin quên nhắn lại. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả.
Sau đó nó cũng thử vận may ở tờ tin nội bộ khu Bronx, một tờ lá cải ở khu này, nhưng kể cả họ cũng thẳng thừng từ chối: nó còn nghe thấy ai đó cười khùng khục ở đầu dây bên kia. Một ngày nào đó bọn chúng phải lê gối đến chỗ nó. Một ngày nào đó chúng sẽ liếm sạch đôi giày thể thao của nó. Một ngày nào đó chúng phải giẫm lên nhau để đến với nó. Ferrnado Yunqué Marcano, nhà hình tượng học. Nó thích cái từ đó, dù là tiếng Tây Ban Nha. Không có nghĩa gì nhưng âm điệu rất hay. Nếu có danh thiếp, nó sẽ viết lên đó: FERNANDO Y. MARCANO. NHÀ HÌNH TƯỢNG HỌC. BRONX. MỸ.
Một lần nó thấy trên ti vi một anh chàng kiếm tiền bằng cách đục những viên gạch khỏi các toà cao ốc. Nghe thật buồn cười, nhưng nó có một cách hiểu khác. Những toà nhà có vẻ khác đi sau khi đục. Cái cách mà ánh sáng đi qua. Khiến mọi người có một cách nhìn khác. Khiến họ phải nghĩ lại. Ta phải nhìn thế giới dưới thứ ánh sáng không ai khác có. Đó là điều nó thường ngẫm ngợi khi quét sàn, rửa kéo hoặc sắp xếp các chai bọt cạo râu. Một đám môi giới huênh hoang đến hiệu để tỉa tóc gáy và hai bên mái. Irwin nói cắt tóc là một nghệ thuật. “ Đây là phòng triển lãm lớn nhất còn gì. Cả thành phố New York nằm dưới mấy đầu ngón tay của mày.” Và nó thường nghĩ, A, im đi, Irwin. Ông không phải là bố tôi. Im đi và tự đi mà quét nhà. Tự đi mà rửa đống chai dầu gội. Nhưng chưa bao giờ nó nói ra được điều đó. Sự ngăn cách giữa cái đầu và cái miệng nó. Đó chính là khi chiếc máy ảnh đến với nó. Điều nó không nói ra được với người khác, luôn bị phủi gạt đi.
Đoàn tàu rùng mình rung lắc nhưng hai tay nó chỉ bám hờ hững lên vách hai toa xe để giữ thăng bằng; động cơ bắt đầu gào rú, rồi đột ngột dừng lại, phanh tàu rít lên, và nó ngã dúi sang bên, vai đập mạnh, chân bị ép chặt vào chão xích. Nó kiểm tra cái máy ảnh. Tuyệt. Không sao. Đây đúng là thời khắc nó rất thích. Đột ngột dừng phắt. Trong đường hầm, ngay trước cửa ra. Nhưng vẫn còn trong bóng tối. Ngón tay nó bám chắc vào mép cửa sắt. Nó vươn mình thẳng dậy và dựa người vào cánh cửa.
Hững hờ. Thoải mái. Trong bóng tối đường hầm. Ở giữa Fulton và phố Wall. Hàng đống người mặc com-lê và đầu tóc chải chuốt chuẩn bị tuôn ra.
Con tàu im hẳn không rền rĩ tiếng nào nữa, nó rất thích những khoảnh khắc yên tĩnh này, cho nó thời gian thu gọn những bức tường vào tầm mắt. Nó liếc nhanh xuống toa xe xem có cảnh sát không, đặt một chân lên sợi xích và đu lên, túm lấy thành cửa toa, một tay giơ cao. Nếu đứng trên nóc tàu nó có thể chạm đến vòm trần - một nơi khá thích hợp để vẽ - nhưng nó chỉ bám vào thành cửa và ngó ra ngoài. Có một vài đường nét đỏ và trắng trên bức tường ngay chỗ ngoặt. Mấy ngọn đèn vàng vọt chập chờn xa xa.
Nó đợi cho mắt mình điều tiết lại, cho những đốm sao be bé trên võng mạc biến đi. Nhìn xa ra cuối đoàn tàu, những vạch màu tràn ra khỏi rìa thành toa, tung toé. Nhưng chẳng có gì trên các bức tường cả. Trắng xoá như Nam Cực. Nó mong chờ cái gì chứ? Lấy đâu ra nghệ sĩ thực thụ trong cái thành phố này. Nhưng chẳng bao giờ biết được. Thế mới là thiên tài. Thế mới là vấn đề. Xoá ngay cái đó đi, đồ ẽo ợt.
Nó cảm thấy sợi xích lúc lắc dưới chân, báo hiệu tàu sắp chuyển bánh, nó bám chắc hơn vào gờ toa xe. Chẳng có ai vẽ kiểu “oanh tạc” trên trần hầm cả. Một vùng còn trinh nguyên. Nó nên tự mình khai phá, một không gian mới toanh. Nó nhìn dọc theo đoàn tàu, rồi kiễng chân lên một chút. Ở phía cuối đường hầm nó phát hiện ra, có thể là một mảng sơn màu trên bức tường phía đông, một chữ ký nó chưa thấy bao giờ, một thứ trông thuôn thuôn thoáng qua nhanh, đâu như màu đỏ nhạt viền sơn bạc, chữ P hoặc R hoặc số 8, có lẽ thế. Những đám khói và những ngọn lửa. Nó nên quay trở lại qua những toa tàu - giữa những kẻ đã chết hay đang mơ màng - để đến gần bức tường hơn, giải mã chữ ký, nhưng đúng lúc đó đoàn tàu lại giật nảy lên, và lần này là lời cảnh báo nghiêm túc - nó biết - nó nhảy xuống tàu, cố giữ thăng bằng. Khi bánh tàu nghiến vào đường ray, nó để cho hình ảnh nó thấy rung lên trong tâm trí, rồi đối chiếu với những bức vẽ cũ ở những chỗ khác trên đường hầm và nhận thấy đó đúng là một chữ ký mới toanh, đúng, chắc chắn là mới toanh, và nó vung nắm đấm lên trời - đúng là có ai đó đã đến và ký vào đây, tại trung tâm thành phố này.
Chỉ lát sau đoàn tàu dừng trong ánh sáng mờ nhạt trên phố Wall, các cánh cửa rít lên khi mở ra, nhưng hai mắt nó vẫn nhắm chặt, nó đang hình dung lại bức vẽ đó, độ cao, màu sắc, chiều sâu, cố nhớ lại vị trí của bức vẽ để trên đường về nó có thể hình dung ra, chụp lại và biến bức vẽ thành của mình.
Tiếng radio. Tiếng di chuyển đều đều về phía nó. Nó ngả người ra ngoài. Cảnh sát. Đang tiến lại từ phía cuối sân ga. Chắc chắn họ đã thấy nó. Họ đến để lôi nó ra, đưa cho nó chiếc vé phạt. Bốn người, thắt lưng xóc lên xóc xuống.
Nó kéo cánh cửa ra, chúi vào bên trong. Đợi một bàn tay vỗ lên vai. Không có gì. Nó dựa người lên tấm kim loại mát lạnh của cánh cửa. Thoáng thấy họ gấp rút chạy ra ngoài qua cánh cửa quay. Chừng như đang có đám cháy ở đâu đó. Tất cả vang lên ồn ĩ: nào còng tay, súng, gậy tuần tiễu ban đêm, tập giấy ghi chép, đèn pin, và có Chúa mới biết còn những gì nữa. Có người làm điều ấy thật rồi, nó nghĩ. Đúng thế rồi.
Nó ép mình lách qua cánh cửa đang đóng, giữ chiếc máy ảnh bên sườn để nó không bị xước. Phía sau, cánh cửa lại rít lên rồi khép chặt. Nó bước đi thư thái. Qua cánh cửa quay và bước lên mấy bậc thang. Quỷ tha ma bắt cái hiệu cắt tóc. Dù sao cứ để ông bố dượng Irwin đợi chút cũng chẳng sao.
Chú thích:
[43] Nguyên bản: TAG - tên hoặc biệt danh được viết, vẽ dạng graffiti.
[44] Một câu trong Phúc âm John: Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin vào Con ấy thì không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
[45] Nguyên bản: Peepshow, hình thức xem tranh ảnh, đồ vật hoặc người qua một cái lỗ có lắp kính phóng đại. Trước kia đây là một hình thức giải trí trên đường phố, nhưng ngày nay peepshow còn thêm nghĩa chỉ các buổi biểu diễn khiêu dâm.