- XXIV - 2
Khi họ báo với tôi về chuyện của Jazzlyn, tôi chỉ đứng đó mà đập đầu mình vào song sắt như một chú chim trong lồng. Họ để tôi đến dự lễ tang rồi sau đó nhốt tôi lại. Mấy đứa trẻ không còn ở đó. Tôi cứ hỏi mãi về chúng nhưng họ bảo: Đừng lo về bọn trẻ, chúng có người lo rồi.
Trong những giấc mơ tôi cứ thấy mình quay trở về phòng khách sạn Sherry-Netherlands năm nào. Tại sao tôi lại thích gã đến thế, quả tình là tôi không biết. Gã không phải bảo kê của tôi, gã là một nhân tình - dù hói đầu nhưng trông gã vẫn rất ổn.
Đàn ông sống cuộc sống ở vùng Trung Đông rất thích gái điếm. Họ thích chiều chuộng và mua cho gái điếm rất nhiều thứ và đi loanh quanh với những cô gái trùm kín trong tấm khăn choàng. Gã bảo tôi đứng cạnh cửa sổ sao cho chỉ thấy bóng hắt. Gã đặt cây đèn cho vừa ý. Tôi nghe thấy tiếng gã thở gấp gáp. Tôi chỉ cần phải đứng đó thôi. Chẳng có gì làm tôi cảm thấy sung sướng hơn khi gã đứng đó nhìn tôi, trân trọng những gì gã thấy. Đàn ông tốt biết làm những điều thế, biết trân trọng. Không phải gã bày trò ngớ ngẩn hay gì cả, gã chỉ ngồi đó trong chiếc ghế và ngắm tôi, gần như là nín thở. Gã nói tôi làm gã phát cuồng, rằng gã có thể cho tôi bất cứ cái gì chỉ để tôi đứng đó, mãi mãi. Tôi nói một câu gì đó khá mỉa mai nhưng thực sự là tôi cũng nghĩ hệt như gã vậy. Tôi căm ghét bản thân mình bởi đã nói ra cái câu đầy xúc phạm đó. Tôi ước gì mình bị cái sàn nhà nuốt chửng cho xong.
Một lúc sau gã bắt đầu thả lỏng người và thở dài đánh thượt. Rồi gã kể gì đó về sa mạc ở Syria và rằng những cây chanh sao mà giống cơn bùng nổ be bé của sắc màu.
Rồi đột nhiên - ngay tại đó, khi đang đứng nhìn ra công viên Trung Tâm - tôi trào lên mong muốn gặp con gái mình hơn bất cứ thứ gì trong đời. Lúc ấy Jazzlyn mới tám chín tuổi gì đó. Tôi chỉ muốn ôm con bé vào lòng. Đâu phải vì làm điếm mà người ta ít yêu thương hơn, không hề ít hơn chút nào.
Công viên tối dần. Những ngọn đèn được bật lên nhưng chỉ có vài cái sáng. Ánh đèn làm những tàng cây sáng rực lên.
“Đọc cho tôi nghe bài thơ về khu chợ đó đi.” Gã nói.
Đó là một bài thơ viết về một người đi chợ mua thảm, tấm thảm hoàn hảo, không tì vết, và chính nó mang đến cho anh ta đủ chuyện xui xẻo. Tôi phải bật đèn lên để đọc cho gã nghe, thế là hỏng mất cả cái không khí dễ chịu đó, tôi có thể cảm thấy như vậy ngay lập tức. Thế rồi gã nói: “Kể cho tôi nghe một câu chuyện đi vậy.”
Tôi tắt đèn và lại đứng đó. Tôi chẳng muốn mở mồm nói ra mấy thứ rẻ tiền.
Tôi không nghĩ ra được gì trừ một câu chuyện tôi đã nghe từ một khách hàng vài tuần trước. Thế là tôi đứng đó, tay nắm tấm rèm cửa, kể: “Một buổi tối, có một cặp vợ chồng già đi dạo qua một trung tâm mua sắm, tay trong tay. Lúc đó trời mới xâm xẩm. Họ đang sắp đi vào công viên thì một tên cảnh sát tuýt còi chói tai và ngăn họ lại. Tên cảnh sát nói: ‘Ông bà không vào trong đó được đâu, trời sắp tối rồi, đi dạo trong công viên giờ này rất nguy hiểm. Ông bà sẽ bị cướp giật đấy. ’ Hai người nói: ‘Nhưng chúng tôi muốn đi vào trong đó, hôm nay là kỉ niệm ngày cưới của chúng tôi, cách đây đúng bốn mươi năm chúng tôi đã ở đây. ’ Viên cảnh sát nói: ‘Ông bà lẩn thẩn à. Giờ làm gì có ai đi dạo trong công viên Trung Tâm nữa. ’ Nhưng hai ông bà già đó cứ tiếp tục đi vào công viên. Họ muốn đi lại đúng con đường đó sau chừng ấy năm, quanh một cái hồ nhỏ. Để nhớ lại. Thế là họ nắm tay nhau bước vào trong bóng đêm. Và đoán xem chuyện gì xảy ra? Viên cảnh sát đó đi ngay sau hai ông bà già, cách khoảng hai mươi bước chân, suốt quanh bờ hồ, để đảm bảo họ không bị cướp, hiếm có hả?”
Đó là câu chuyện của tôi. Rồi tôi đứng yên. Tấm rèm cửa ẩm ướt trong tay. Tôi như nghe thấy người đàn ông Trung Đông đó mỉm cười.
“Kể lại đi.” Gã nói.
Tôi đứng sát hơn vào cửa sổ, nơi ánh đèn đang sóng sánh tràn vào rực rỡ. Tôi kể lại câu chuyện đó cho gã nghe, thậm chí còn thêm tình tiết, như là tiếng bước chân của đôi vợ chồng và những điều tương tự như vậy.
*
Tôi chưa bao giờ kể câu chuyện đó cho Jazzlyn. Tôi muốn lắm nhưng chưa bao giờ làm được. Tôi muốn đợi đến đúng thời điểm. Khi tôi ra về, gã tặng tôi tập thơ Rumi. Tôi đút nó vào trong túi xách, lúc đầu cũng chẳng để ý đến nó nhiều lắm, nhưng nó cứ tự bò đến bên tôi, giống như ngọn đèn đường.
Tôi thích gã, người đàn ông bé nhỏ hói đầu có làn da ngăm đó. Tôi đến Sherry-Netherlands xem gã còn ở đó không nhưng tên quản lý khách sạn tống tôi ra ngoài. Lúc đó hắn cầm một tập hồ sơ trong tay, bèn dùng luôn nó như một cái gậy đuổi gia súc mà xùy tôi, “Đi ra, đi ra, đi ra!”
Tôi bắt đầu đọc Rumi. Tôi thích cuốn sách vì nó có nhiều tình tiết. Những câu thơ thật là hay. Tôi bắt đầu nói vớ nói vẩn với khách của mình. Tôi nói tôi thích những dòng thơ đó vì bố tôi từng nghiên cứu thơ ca Ba Tư. Đôi khi tôi lại nói đó là chồng mình.
Tôi chưa bao giờ có cả bố lẫn chồng. Hay ít ra họ không trong số những người tôi biết. Không có ý than thân trách phận gì đâu, sự thực nó là vậy thôi.
Tôi là một con mụ khốn kiếp và con gái tôi không còn nữa.
*
Có lần Jazzlyn hỏi về bố nó. Một người bố thực sự chứ không phải những “bố già” bảo kê của tôi. Lúc ấy con bé mới tám tuổi. Hai mẹ con nói chuyện điện thoại đường dài từ New York đến Cleverland. Tôi không mất tiền vì tất cả gái điếm chúng tôi đều biết cách lấy lại những đồng tiền xu đã bỏ vào máy. Chúng tôi học được cái mẹo ấy từ mấy tay cựu binh trở về từ Việt Nam, cánh ấy đầu óc không ai còn bình thường.
Tôi thích những trạm điện thoại công cộng trên phố 44. Khi nào chán đời tôi gọi ngay vào cái điện thoại đặt bên cạnh. Rồi tôi nhấc máy và nói chuyện với chính mình. Tôi rất thích thú cái trò ấy. Chào Tillie, em thế nào, em yêu? Cũng không đến nỗi nào, Tillie, thế còn em? Cực kỳ, Tillie, thời tiết thế nào? Đang mưa, Tillie ạ. Khỉ thật, ở đây cũng mưa này, Tillie, thế có hay không chứ?!
*
Lần đó hai mẹ con đang nói chuyện qua cái điện thoại đặt trong hiệu thuốc trên góc phố 50 và Lexington, bỗng Jazzlyn hỏi: “Bố ruột của con là ai?” Tôi nói với con bé bố nó là một người đàn ông rất tốt nhưng đang bận ra ngoài mua thuốc lá. Người ta thường nói với trẻ con như vậy. Mọi người đều nói thế. Tôi không biết tại sao - chắc là vì bọn đàn ông khốn kiếp không muốn chơi với con mình đều hút thuốc cả.
Con bé không hỏi về bố nó một lần nào nữa. Không một lần nào. Tôi đã từng nghĩ hắn ta đi mua thuốc thế là khá lâu đấy, dù hắn có là cái thằng chết tiệt nào cũng vậy thôi. Có thể hắn, cái tay Pablo nào đó vẫn đang đứng đợi lấy lại tiền thối.
*
Tôi quay trở lại Cleverland để đón Jazzlyn. Đó là vào khoảng năm 1964 hay 1965 gì đó. Lúc đấy con bé độ tám chín tuổi. Nó ngồi đợi tôi trên bậc cửa. Nó mặc một cái áo có mũ trùm đầu bé xíu, ngồi đó, gương mặt phụng phịu, rồi nó ngẩng lên nhìn và thấy tôi. Tôi thề là trông cứ như một chùm pháo hoa nổ bung ra vậy. “Tillie!” Con bé hét lên. Nó chưa bao giờ thực sự gọi tôi là Mẹ. Nó nhảy lên. Chưa có ai ôm tôi chặt đến vậy. Không ai cả. Thiếu điều chết ngạt. Tôi ngồi xuống bên cạnh nó và khóc nức lên. Tôi nói, “Đợi đến khi con thấy New York, Jazzlyn, con sẽ mê tơi cho coi.”
Mẹ tôi đang ở trong bếp nhìn tôi gườm gườm. Tôi đưa cho bà một phong bì đựng hai nghìn đô la. Bà nói: “Ôi con yêu, mẹ biết con sẽ ổn mà, mẹ biết mà.”
Tôi và Jazzlyn muốn tự lái xe chạy dọc đất nước, nhưng cuối cùng phải bắt xe buýt đường dài từ Cleverland. Suốt dọc đường con bé ngủ gà gật trên vai tôi và mút mút ngón tay. Chín tuổi rồi mà nó vẫn mút ngón tay. Về sau ở Bronx tôi nghe nói đó là một cái tật của con bé. Nó thích mút ngón tay khi làm chuyện ấy với bọn mua dâm. Điều ấy làm tôi phát tởm. Tôi thật khốn nạn, thế đấy. Toàn bộ đầu đuôi là do thế.
Tillie Henderson Khốn Kiếp. Danh hiệu không mũ miện của tôi là thế đấy.
*
Chừng nào chưa gặp được mấy đứa cháu gái thì tôi sẽ không tự tử. Hôm nay tôi nói với mụ giám thị rằng tôi đã lên chức bà nhưng mụ không thèm nói gì. Tôi nói: “Tôi muốn gặp cháu tôi, tại sao họ không mang chúng đến đây thăm cho tôi?” Con mụ ấy còn không thèm chớp mắt lấy một cái. Có lẽ tôi đang già đi rồi. Tôi sẽ mừng sinh nhật lần thứ ba mươi chín trong tù. Chắc phải mất cả tuần mới thổi hết số nến đó.
Tôi nài nỉ mụ ta, nài mãi nài mãi. Mụ nói bọn trẻ vẫn ổn, chúng đang được chăm sóc ở trung tâm bảo trợ xã hội.
*
Một tên ma cô đã dẫn dắt tôi đến khu Bronx này. Hắn xưng là L. A. Rex. Hắn không thích người da đen, dù bản thân hắn là dân đen chính hiệu. Hắn nói Lexington là khu dành cho dân da trắng. Hắn nói tôi già rồi. Hắn nói tôi vô dụng. Hắn nói tôi phung phí quá nhiều thì giờ cho Jazzlyn. Hắn nói trông tôi giống miếng pho mát. Hắn dọa, “Đừng có lảng vảng ở khu Lexington nữa không tao bẻ gãy tay đấy, nghe không Tilllie?”
Thế rồi hắn làm thật. Hắn bẻ gãy tay tôi. Hắn bẻ gãy cả những ngón tay nữa. Hắn bắt gặp tôi ở góc phố 3 và phố 48, thế là gã bẻ tay tôi như bẻ xương gà. Hắn nói khu Bronx mới thích hợp để dưỡng già. Hắn cười nhăn nhở bảo khu đó giống như Florida, chỉ thiếu mỗi bãi biển thôi.
Tôi phải ôm đôi tay bó bột về nhà với Jazzlyn. Tôi phải nằm dưỡng bệnh một thời gian, cũng chẳng nhớ là bao lâu nữa.
L. A. Rex đính một ngôi sao kim cương trên răng. Tôi không bịa đâu. Trông hắn khá giống anh chàng Cosby trên ti vi, chỉ có điều Cosby có hai bên tóc mai trông rất quấy.
L. A. còn trả tiền viện phí cho tôi. Hắn không bắt tôi đứng đường nữa. Tôi nghĩ, Chuyện quái quỷ gì thế này? Đôi khi thế giới này là một nơi không thể nào hiểu nổi.
Thế là tôi trở nên trong sạch. Tôi có một mái nhà. Tôi từ bỏ cuộc chơi. Đó là những năm tháng tốt đẹp. Tìm được một đồng năm xu dưới đáy túi xách cũng đủ làm tôi vui. Mọi việc trở nên quá suôn sẻ. Có cảm giác như tôi đang đứng bên một khung cửa sổ rộng mở. Tôi cho Jazzlyn đi học. Tôi kiếm được một việc làm là dán đề-can lên đồ hộp trong siêu thị. Tôi về nhà, đi làm, rồi lại về nhà. Tôi tránh xa khu mại dâm. Không gì có thể khiến tôi quay lại cái nơi khốn nạn ấy nữa. Thế rồi một ngày, hoàn toàn bất ngờ, thậm chí tôi còn không nhớ là vì sao, tôi đi đến Deegan, giơ ngón tay cái lên, tìm một gã khách làng chơi. Tôi bị một thằng ma cô biệt hiệu Tổ Chim bợp cho một phát vào sau gáy, thằng này lúc nào cũng chụp sùm sụp cái mũ thối tha vì không muốn để ai nhìn thấy con mắt giả bằng thủy tinh của gã. Gã gọi, “Ê cưng, tính chơi trò gì đấy hả?” Jazzlyn cần sách học. Tôi biết chắc như vậy.
*
Hồi ở góc 49 và Lexington tôi không che ô. Mãi đến khi tôi chuyển đến Bronx tôi mới kiếm một cái. Để che cái mặt thôi, thật đấy. Đó là một bí mật mà tôi sẽ không kể với ai. Tôi có một thân hình đẹp. Kể cả trong những ngày tháng tôi nhồi nhét đủ thứ độc hại linh tinh vào trong người thì thân hình tôi vẫn quyến rũ, vẫn còn những đường cong, vẫn còn ngon mắt chán. Chưa bao giờ tôi mắc phải bệnh gì nghiêm trọng. Chỉ khi đến Bronx tôi mới che ô. Khách hàng không nhìn thấy mặt nhưng có thể thấy cặp mông tôi. Và chỉ chỗ đó thôi cũng đủ năng lượng để làm cả cái thành phố New York này nhảy dựng lên.
Ở Bronx tôi thường nhảy vào xe hơi của khách rất nhanh, thế là họ không thể từ chối được. Thử đá gái ra khỏi xe mà không trả đồng nào xem, thà đi ăn bùn còn hơn đấy nhé.
Thường thì ở khu Bronx toàn là những cô nàng đã toan về già. Tất cả, ngoại trừ Jazzlyn. Tôi thường đem Jazzlyn theo bên mình. Chỉ thi thoảng nó mới vào khu trung tâm. Con bé rất nổi tiếng ở khu gái điếm này. Những ả khác chỉ dám đòi hai mươi đô, nhưng Jazzlyn có thể đòi đến bốn mươi, thậm chí năm mươi đô. Nó lựa những chàng trẻ tuổi. Nếu lớn tuổi hơn thì phải giàu, kiểu những thằng cha béo ị nhưng lại muốn cảm mình còn ngon giai. Cả lũ chúng nó hễ nhìn thấy con bé là chết đứ đừ. Nó có một mái tóc thẳng mượt, cặp môi khêu gợi và đôi chân dài vô tận. Một vài cậu chàng gọi nó là Bé Hươu, trông nó cũng giống hươu cao cổ thật. Nếu ở Deegan có cây cối thì có lẽ con bé sẽ đứng dưới đó mà dùng lưỡi vặt lá cây không chừng.
Đó cũng chính là một trong những biệt hiệu của con bé ghi trong hồ sơ cảnh sát. Bé Hươu. Một lần con bé cặp với một gã người Anh và thằng cha gây ra đủ thứ tiếng động kinh hồn như bom dội. Vừa cho ra gã vừa lảm nhảm mấy câu đại loại “Tôi đây. Nhiệm vụ giải cứu. Flanders 101. Flanders 101. Đang xuống đây!” Rồi khi xong, gã nói: “Đấy, giải cứu thành công rồi.” Còn Jazzlyn đưa đẩy: “Anh đã cứu em, thế ấy nhỉ” Bởi vì đàn ông thích nghĩ là bọn họ có thể cứu vớt đàn bà. Như kiểu mình mắc một căn bệnh nào đấy còn họ đang sẵn trong tay phương thuốc đặc biệt. Lại đây, em yêu, em không muốn có ai đó hiểu mình sao? Anh đây, anh hiểu em. Anh là người duy nhất hiểu được một cô gái như em. Anh có cái ấy dài như thực đơn nhà hàng trên đại lộ số Ba nhưng anh còn có thêm trái tim rộng lớn hơn cả khu Bronx này kia. Họ làm tình với gái cứ như là họ đang ban một ơn huệ lớn lao. Thằng đàn ông nào cũng muốn có một con điếm để mà giải cứu, đó là sự thật phũ phàng. Tôi thì tôi nói đó chính là bệnh chứ gì nữa. Thế rồi, khi cho ra xong cái của nợ đó, chúng chỉ việc kéo khóa quần, đứng dậy bỏ đi và quên phắt người ta đi. Đầu óc bọn ấy điên rồ bệnh hoạn thế đấy.
Có gã lại nghĩ gái điếm có trái tim vàng. Làm gì có thế. Tôi thì chắc chắn không rồi. Kể cả Corrie đi chăng nữa. Corrie cũng cặp kè với cô ả Tây Ban Nha có cái hình xăm ngu xuẩn ở mắt cá chân.
*
Khi Jazzlyn mười bốn tuổi nó về nhà với vết đỏ đầu tiên ở má trong cánh tay. Tôi đã cho nó một trận nên thân, nhưng sau lại thấy nó có vết khác ở kẽ ngón chân. Nó không hút thuốc lá, thế mà đấy, nó lại xài ma túy. Nó lẵng nhẵng bám theo băng Những kẻ bất tử. Đám này luôn kình cự với băng Anh em Ghetto.
Tôi cố gắng đưa con bé đi đúng đường đúng lối bằng cách giữ nó loanh quanh trên phố. Lúc đó tôi chỉ nghĩ được có thế.
Big Bill Broonzy có một bài hát mà tôi rất thích, nhưng tôi lại không thích nghe: Anh buồn quá, em ơi, anh đang cố vui lên từ tận đáy buồn[51].
*
Năm con bé mười lăm tuổi, tôi trông chừng cho nó tự tay chích thuốc. Tôi ngồi xuống bên vệ đường và nghĩ, đó là con gái mình. Rồi tôi nói, chờ chút, quái thật, đó là con gái mình ư? Có đúng đó là con gái mình không?
Và rồi tôi lại nghĩ, đúng là nó rồi, là máu thịt của mình, chính là con bé, đúng rồi.
Tôi đã tạo ra nó.
Nhiều lần tôi còn giúp quấn dây cao su quanh cánh tay nó để ven nổi lên. Tôi cố giữ an toàn cho nó. Đó là tất cả những gì tôi đang gắng sức làm.
Đây là căn nhà ma túy xây nên. Đây là căn nhà ma túy xây nên.
*
Một hôm thứ Sáu, Jazzlyn về nhà và hỏi: “Mẹ Till, mẹ có thích làm bà ngoại không?” Tôi nói, “Có chứ, bà ngoại Till chính hiệu đây.” Thế là nó bắt đầu bù lu bù loa lên. Rồi nó khóc trên vai tôi, nghe tả cảm động thật nhưng ngoài đời thì đắng nghét.
Tôi ra tiệm Foodland nhưng ở đó chỉ còn một cái bánh ngọt Entenmann rẻ tiền.
Con bé ăn chiếc bánh, còn tôi ngồi nhìn nó và nghĩ, con gái bé bỏng của tôi, thế mà nó cũng sắp có con rồi. Tôi không ăn một miếng nào, mãi đến khi Jazz đi ngủ tôi mới nghiến ngấu nốt cái bánh khốn kiếp đó, vụn bánh rơi đầy trên sàn nhà.
*
Vào lần thứ hai tôi trở thành bà ngoại, Angie tổ chức hẳn một bữa tiệc. Cô ta kêu Corrie mượn một cái xe lăn và đẩy tôi xuống khu Deegan. Rồi cả đám cừng phê tít, cười sằng sặc đến vỡ bụng.
Ờ, mà khi xưa lúc Jazzlyn còn ở trong bụng, có lẽ tôi nên nuốt lấy cái còng số tám. Đúng là lẽ ra tôi nên làm như thế. Để cho con bé biết sau này nó sẽ gặp cái gì trên đường đời. Kiểu như, xem đấy, con bị bắt rồi nhé, con là của mẹ con, mẹ của mẹ của con, cả một hàng dài các bà mẹ tính ngược trở về tận đến Eva, mẹ Pháp mẹ đen mẹ Hà Lan hay bất kỳ giống gì đời trước tôi.
Ôi Chúa ơi, đáng lẽ ra tôi nên nuốt cái còng. Nuốt chửng luôn.
*
Suốt bảy năm cuối trước khi giải nghệ tôi chỉ biết làm tình bên trong những chiếc xe đông lạnh. Suốt bảy năm cuối trước khi giải nghệ tôi chỉ biết làm tình bên trong những chiếc xe đông lạnh. Thế đấy. Suốt bảy năm cuối trước khi giải nghệ tôi chỉ biết làm tình bên trong những chiếc xe đông lạnh.
Tillie Henderson Khốn Kiếp.