← Quay lại trang sách

- XXV - TRÊN NHỊP ĐƯỜNG RẦY TIẾN BỘ

TRƯỚC CHUYẾN ĐI DẠO TRÊN KHÔNG ĐÓ, gã hay đến diễn ở Công viên Quảng trường Washington. Coi như bắt đầu làm quen với mặt nguy hiểm của thành phố này. Gã cần sự ồn ào, đẩy cơ thể vào tình trạng căng thẳng, để thật gần với những lời tục tĩu lẫn la hét. Gã buộc sợi dây vào phần mấu nhô ra giữa hai cột đèn. Gã biểu diễn cho khách du lịch xem, nhón chân bước trên dây, đầu đội mũ lụa đen tuyền. Hệt như diễn trên sân khấu. Nào nghiêng ngả thân người, nào vờ ngã. Thách thức lực hút trái đất. Gã có thể nghiêng hẳn người ra rồi vẫn đứng thẳng dậy được. Gã giữ thăng bằng một cái ô trên mũi. Dùng ngón chân tung đồng xu lên không, cho nó rơi xuống đúng chóc đỉnh đầu. Rồi lộn xuôi lộn ngược. Trồng cây chuối. Gã tung hứng những con ky, những quả bóng và cả những ngọn đuốc đang cháy. Gã sáng tạo ra một trò mới với lò xo con sâu. Làm như món đồ chơi bằng kim loại đó đang tự uốn éo tuột ra quanh người gã. Đám khách du lịch thích cực kỳ. Họ ném tiền vào mũ cho gã. Hầu hết toàn xu với hào, nhưng cũng có khi hắn được hẳn một đô la hay thậm chí năm đô. Được mười đô thì gã nhảy xuống đất, bỏ mũ ra cúi chào và nhảy lộn ra sau.

Vào ngày đầu tiên, bọn hàng rong và con nghiện lượn lờ quanh chỗ gã biểu diễn. Bọn chúng mau chóng thấy là gã kiếm được kha khá. Gã nhét tiền vào tất cả các túi trên chiếc quần ống loe, nhưng biết thừa là bọn kia thể nào cũng xin đểu gã. Đến trò cuối cùng, gã vơ đống tiền lại, đội mũ lên đầu, đi xe đạp một bánh trên dây, rồi nhấn pê đan phóng từ độ cao gần ba mét xuống mặt đất, đạp mất hút qua Quảng trường tới khu Washington Place. Gã còn thò tay qua vai vẫy vẫy. Ngày hôm sau gã quay lại để lấy sợi dây, nhưng đám hàng rong thích những trò xiếc của gã đến mức họ vẫn để cho gã ở lại diễn tiếp, vả lại những du khách tụ lại đây xem gã cũng là món bở cho họ rồi.

Gã thuê một căn hộ không có nước nóng ở phố Marks Place. Một đêm nọ, gã chăng sợi dây ngang phòng ngủ, một đầu buộc vào thang thoát hiểm của căn hộ đối diện, chủ nhà là một phụ nữ Nhật Bản, cô đã đốt nến cắm trên những nấc thang sắt cho gã được sáng. Gã ở bên đó tám tiếng liền, và khi thò mặt ra gã thấy bọn trẻ con đã treo đôi giày của gã lên trên sợi dây, một trò nghịch tinh đúng kiểu trẻ con thành phố, dây giày bị thắt gút lại với nhau. Gã bò ra sợi dây, giờ đã chùng hơn và trở nên nguy hiểm, nhưng hãy còn đủ căng để đỡ được gã quay trở lại qua đường cửa sổ. Ngay lập tức gã nhận thấy căn phòng đã bị lục tung lên. Mọi thứ. Cả quần áo cũng vậy. Tiền để trong túi quần gã cũng mất sạch. Gã không bao giờ gặp lại người phụ nữ Nhật Bản đó nữa; khi hắn nhìn sang, những ngọn nến đã biến mất. Trước đây chưa từng có ai ăn trộm cái gì của gã cả.

Đây chính là cái thành phố mà hắn đã bò vào - gã rất ngạc nhiên khi thấy có những cuộc đời còn khốn khổ hơn cả gã.

Thỉnh thoảng người ta thuê gã đến biểu diễn ở các bữa tiệc. Gã cần tiền. Có quá nhiều thứ phải chi tiêu mà tiền tiết kiệm của gã đã bị cướp sạch rồi còn đâu. Chỉ riêng sợi dây đã tốn đến một nghìn đô rồi. Lại còn phải mua tời quay, xoay giấy tờ tùy thân giả, gậy giữ thăng bằng và những mánh khóe công phu để đưa tất cả lên mái nhà. Gã sẽ làm bất cứ cái gì để gom đủ số tiền đó, nhưng những buổi tiệc tùng thật đúng là kinh khủng. Gã được thuê biểu diễn ảo thuật, nhưng gã bảo chủ nhà là gã không thể bảo đảm mình sẽ diễn bất cứ trò gì hết. Họ phải trả tiền cho gã, nhưng có khi gã chỉ cứ ngồi một chỗ suốt cả tối. Cái kiểu làm găng đó cũng có tác dụng. Gã xuất hiện thường xuyên tại các bữa tiệc. Gã mua một bộ vét tuxedo, một cái nơ bướm và một chiếc khăn quấn thắt lưng.

Gã thường tự giới thiệu bản thân là một nhà buôn vũ khí người Bỉ, hoặc một giám định viên của nhà đấu giá Sotheby, hoặc một tay đua ngựa từng tham gia tranh giải Kentucky. Gã thấy thoải mái khi nhập những vai đó. Mặc dù vậy, nơi duy nhất gã hoàn toàn được là chính mình lại là trên sợi dây treo tít trên cao. Gã có thể kéo ra một cây măng tây dài từ trong tấm khăn ăn của người ngồi bên cạnh. Gã sẽ tìm thấy một cái nút chai ở đằng sau vành tai người chủ nhà, hay kéo ra một chiếc khăn quàng cổ dài vô tận từ trong túi áo ngực một người đàn ông. Giữa lúc ăn món tráng miệng gã có thể tung một chiếc nĩa lên không rồi hứng nó rơi đúng ngay mũi gã. Hoặc gã ngả ghế ra sau cho đến khi nó chỉ còn đứng bằng một chân, vờ say đến nỗi không màng gì đến thăng bằng nữa. Đám khách dự tiệc say sưa xem trò. Những tiếng thì thào lan khắp bàn tiệc. Phụ nữ cố tình ngả người về phía gã để lộ khe hở khiêu khích giữa khuôn ngực. Còn cánh đàn ông thì láu cá chạm tay vào đầu gối hắn. Rồi gã bốc hơi khỏi bữa tiệc qua cửa sổ, hoặc cửa sau, hoặc hóa trang thành người phục vụ với một khay đồ nguội khai vị chưa ai ăn lênh khênh trên đầu.

Tại một buổi tiệc ở số nhà 1040 trên đại lộ số Năm, gã tuyên bố lúc khai tiệc rằng đến cuối buổi tối nay gã sẽ nói chính xác ngày sinh của tất cả đàn ông trong phòng. Khách khứa đều ngất ngây. Một quý bà đội vương miện lấp lánh ngả người vào gã. “Thế tại sao không đoán cả ngày sinh của cánh phụ nữ nữa?” Gã lùi lại né bà ta. “Bởi vì nói ra tuổi các quý bà thì không lịch thiệp chút nào.” Gã đã mê hoặc được ngay nửa số khách trong căn phòng như thế. Cả buổi tối gã không nói thêm gì nữa: không nói lấy một lời. Thử xem, cánh đàn ông thúc giục, nói xem chúng tôi bao nhiêu tuổi. Gã nhìn chằm chằm vào đám khách khứa, thay đổi chỗ ngồi, quan sát đám đàn ông kỹ lưỡng, thậm chí còn di di đầu ngón tay theo đường ngôi trên tóc họ. Gã cau mày, lắc đầu, như thể mình đang gặp khó. Rồi khi món tráng miệng được đưa ra, gã uể oải trèo lên giữa bàn tiệc, chỉ vào lần lượt từng vị khách một và đọc lưu loát ngày sinh của tất cả, trừ một người duy nhất. Ngày 29 tháng 1 năm 1947. Ngày 16 tháng 11 năm 1898. Ngày mùng 7 tháng 7 năm 1903. Ngày 15 tháng 3 năm 1937. Ngày mùng 5 tháng 9 năm 1940. Ngày mùng 2 tháng 7 năm 1935.

Tất cả phụ nữ vỗ tay còn cánh đàn ông thì sững người ra.

Người đàn ông duy nhất không bị điểm mặt ngả người một cách tự mãn vào thành ghế và nói: “Được rồi, thế còn tôi thì sao?” Gã phẩy tay. “Đâu ai quan tâm anh được sinh ra vào lúc nào.”

Cả phòng ồ lên cười, gã cúi xuống những người phụ nữ ngồi ở bàn rồi lần lượt rút bằng lái xe của các đức ông chồng của họ ra từ túi xách, khăn ăn, dưới đĩa, thậm chí giữa khe ngực một bà. Trên mỗi tấm bằng ghi đích xác ngày tháng năm sinh của chủ nhân.

Người đàn ông duy nhất không bị điểm tên lại ngả người ra sau và tuyên bố với cả bàn tiệc rằng ông ta không bao giờ mang theo ví, sau này cũng không, thế nên ông ta sẽ không bao giờ bị lộ tẩy. Im lặng. Gã đi dây bèn nhảy khỏi bàn, kéo chiếc khăn quấn quanh cổ, và nói vào mặt ông ta trong khi vẫy tay từ biệt sau cánh cửa phòng ăn: “Ngày 28 tháng 2 năm 1935.”

Hai má người đàn ông đỏ rần khi tất cả vỗ tay rào rào, bà vợ ông ta thì nháy mắt với gã khi gã biến mất sau cánh cửa.