- XXVIII -
SODERBERG ĐÃ BỎ LỠ MẤT buổi trình diễn đó. Ông phát bực khi nghĩ tới chuyện thật ra mình chỉ lỡ có mấy phút thôi, thậm chí chỉ vài giây. Hôm ấy ông bắt taxi vào thành phố. Tài xế là một tay da đen mặt mày sưng sỉa bật loa nghe nhạc oang oang. Trong xe thoảng mùi “cỏ”. Phát kinh lên được, chứ sao nữa, bây giờ chẳng thể đào đâu ra một cái taxi sạch sẽ tử tế nữa. Tiếng nhạc Rastafari dội ra từ đầu đọc băng. Gã tài xế thả ông xuống đằng sau số nhà 100 phố Trung Tâm. Ông đi bộ qua văn phòng công tố quận, dừng lại trước cánh cửa bên có khung sắt đang khóa kín, vốn là lối đi dành riêng cho các thẩm phán, để họ khỏi phải đi lẫn với những vị khách ở cửa trước. Đó không hẳn là một lối đi bí mật hay đặc quyền đặc lợi gì. Chẳng qua thẩm phán cần lối đi riêng, phòng khi có tên ngốc nào đó nảy ý tự xử thay cho tòa. Dù vậy, ông vẫn thấy phấn khởi hơn chút khi nghĩ nó là một lối đi ít người biết dẫn vào trong tòa nhà công lý.
Đến cửa, ông liếc vội một cái ra sau. Ở tầng trên của tòa nhà bên cạnh ông thấy vài người đang thò đầu ra cửa sổ, nhìn về hướng Tây mà chỉ trỏ gì đó, nhưng ông mặc kệ, cho rằng đó chỉ là một vụ tai nạn xe hơi hoặc mới sớm ngày ra đã có đám cãi lộn nào đó. Ông mở khóa cánh cửa sắt. Giá mà ông quay lại và để ý hơn chút, hẳn ông đã kịp đi lên tầng và chứng kiến cảnh tượng đó từ xa. Nhưng thay vào đó ông chỉ khóa trái cửa, ấn nút thang máy, đợi cánh cửa xếp mở ra và đi thẳng lên tầng bốn.
Ông bước đi dọc hành lang trong đôi giày đen giản dị đi hàng ngày. Những bức tường tối sẫm có mùi ẩm mốc. Tiếng lộp cộp của đôi giày vang lên trong tĩnh lặng. Cái nơi này có màu xanh lam của ngày hè. Văn phòng của ông là một căn phòng trần cao ở tít cuối hành lang. Lần đầu tiên khi trở thành thẩm phán, ông phải dùng chung một căn phòng bé tí bụi bặm còn không xứng với một thằng bé đánh giày chứ đừng nói. Ông sửng sốt khi thấy mình và đồng nghiệp bị đối xử như thế. Trong ngăn kéo bàn làm việc đầy phân chuột. Những bức tường ghẻ lở đáng lẽ phải được sơn sửa từ lâu rồi. Những con gián đậu trên bậu cửa sổ, cào sột soạt như đang muốn đòi ra. Nhưng năm năm đã trôi qua, ông đã bị thuyên chuyển hết văn phòng này đến văn phòng khác. Văn phòng của ông bây giờ là trông oách hơn rồi, bản thân ông cũng được kính nể hơn đôi chút. Bàn làm việc bằng gỗ gụ. Lọ mực bằng thủy tinh chạm. Bức ảnh đóng khung của Claire và Joshua bên bãi biển Florida. Một thanh nam châm để giữ các ghim giấy. Lá cờ Mỹ treo trên đỉnh cột ngay phía sau lưng ông, bên cạnh cửa sổ, thỉnh thoảng khi trời có gió nó cũng phất phơ. Chưa phải là văn phòng xịn nhất thế giới, nhưng cũng coi là đầy đủ. Hơn nữa, ông không phải là người hay ca cẩm về những thứ tủn mủn: ông để dành chuyện đó phòng khi cần vào những lúc khác.
Claire đã mua cho ông một cái ghế xoay bọc da mới tinh, đầy nếp rãnh trang trí như những cái túi sâu ghép lại, ông rất thích cái khoảnh khắc đầu tiên mỗi sáng khi được thả mình xuống ghế mà xoay một vòng. Trên giá sách xếp hàng hàng dãy dãy. Báo cáo của tòa kháng án. Báo cáo của tòa phúc thẩm. Những quyển tổng hợp án lệ của New York. Tất cả sách của Wallace Stevens đều được ký tên và xếp riêng trên dãy đặc biệt. Cuốn kỷ yếu của đại học Yale. Trên bức tường phía đông trưng bản sao những văn bằng ông có. Thêm mẩu tranh biếm cắt từ báo New Yorker được đóng khung ngay ngắn treo ngay cạnh cửa ra vào, trên vẽ thánh Moses trên đỉnh núi, tay cầm Mười Điều Răn, trong đám đông hai vị luật sư thậm thụt với nhau: Tụi mình gặp may rồi, Sam, trong này không hề có một lời nào về chuyện hồi tố hết.
Ông bật bình pha café, trải tờ The New York Times ra bàn, lôi ra vài gói bột kem pha kèm. Bên ngoài có tiếng còi báo động. Lúc nào cũng báo động: cái tiếng chói gắt đó chen những phút bực mình vào ngày của ông.
Ông đang đi về phía bàn làm việc thì cánh cửa cọt kẹt mở ra và một cái đầu nhẵn bóng thò vào nhìn quanh. Thật bất công, nhưng đúng là phần lớn thẩm phán đều hói đầu. Đó không chỉ là một xu hướng, mà là một thực tế. Tất cả bọn họ cùng nhau hợp thành một đội những anh chàng đầu bóng lộn. Ngay từ những ngày mới vào nghề đó đã là một sự tra tấn tưởng tượng, rằng mảng tóc trán sẽ cứ lùi dần: chẳng mấy bộ óc uy tín trong ngành còn được tóc tai che phủ nữa.
— Chào ông bạn.
Khuôn mặt của thẩm phán Pollack đỏ bừng. Đôi mắt anh ta trông như hai gioăng kim loại sáng lóe. Anh chàng hình như đang kích động. Anh lắp ba lắp bắp gì đó về một anh chàng tự treo mình giữa hai tòa tháp. Ban đầu Soderberg nghĩ đó là một vụ tự tử, kiểu như treo mình vào cần cẩu rồi nhảy xuống hay đại loại thế. Ông chỉ gật đầu, lật trang báo tiếp theo, toàn là bài về vụ xì căng đan Watergate, thế cậu bé Hà Lan đó ở đâu khi người ta cần đến nó nhỉ[56]. Ông cười nhạt, rõ là lần này G. Gordon Liddy đã đặt ngón tay sai chỗ hoàn toàn, rồi tiếng cười của ông chuyển phắt mục tiêu sang Pollack khi thấy ngực áo choàng đen lẫn mép anh chàng còn dính vệt phô mai kem trăng trắng. Cuộc đột kích trên không. Soderberg ngả người xuống chiếc ghế quen thuộc của mình. Ông đang định trêu về bữa sáng còn rơi rớt đó thì nghe Pollack nhắc tới mấy từ “gậy giữ thăng bằng” và “sợi dây treo”, rồi ông sực hiểu.
— Nói lại xem?
Người thanh niên Pollack đang nói đến thực sự đã đi bộ giữa hai tòa tháp. Không chỉ vậy, anh ta còn nằm xuống trên sợi dây. Anh ta nhảy lò cò. Anh ta khiêu vũ. Anh ta còn gần như là chạy từ bên này sang bên kia.
Soderberg xoay một góc chín mươi độ một cách quả quyết trên chiếc ghế, kéo rèm cửa lên và thử nhìn qua khoảng không. Ông nhìn thấy rìa tòa tháp phía bắc, nhưng cảnh cần xem lại bị khuất.
— Anh lỡ dịp rồi. - Pollack nói. - Anh ta vừa kết thúc.
— Vụ đó hợp pháp chứ?
— Sao?
— Có được cấp phép không? Có kèm quảng cáo không?
— Tất nhiên là không rồi. Anh chàng đó đột nhập vào ban đêm. Chăng sợi dây lên và cứ thế đi. Chúng tôi quan sát anh ta từ trên tầng thượng. Mấy cậu bảo vệ báo cho chúng tôi biết.
— Anh ta đột nhập vào Trung tâm Thương mại Thế giới ấy à?
— Gã đó khùng, tôi cho là vậy. Anh thấy sao? Phải tống anh ta vào Bellevue[57] thôi.
— Làm sao anh ta chăng sợi dây lên được?
— Không biết.
— Bị bắt chưa? Anh ta có bị bắt không?
— Hẳn đi rồi. - Pollack nói với một tiếng cười khùng khục.
— Phân khu nào?
— Một, ông bạn ạ. Không hiểu ai sẽ xử vụ anh ta nhỉ?
— Hôm nay tôi sẽ thụ lý các vụ án.
— Anh thật là may mắn. - Pollack nói. - Tội xâm nhập trái phép.
— Tội cố ý gây nguy hiểm.
— Tội tự mãn, - Pollack nháy mắt.
— Vụ này sẽ vui đây.
— Xe cảnh sát chạy nháo nhào cả nhỉ.
— Bạo thật đấy.
Soderberg không chắc là từ “bạo” đó có đồng nghĩa với “nhảm nhí” hay “ngu ngốc” không. Pollack lại nháy mắt với ông và vẫy chào như một thượng nghị sĩ rồi đóng sập cánh cửa lại gọn ghẽ.
— Nhảm nhí. - Soderberg nói với cánh cửa đã khép.
Nhưng đúng là vụ này làm ngày hôm nay thú vị hơn nhiều thật, ông nghĩ. Mùa hè đã nóng nực và nặng nề với đầy những vụ chết chóc, phản bội, đâm chém, thế nên ông rất cần một chút giải trí cho khuây khỏa.
Ngày hôm nay chỉ thụ lý hai vụ, vì thế Soderberg có năm mươi phần trăm cơ hội được lĩnh vụ này. Mà phải xử kịp lúc mới được. Còn không bọn ngoài kia có thể sẽ đẩy chàng trai đó qua hệ thống pháp lý rất chóng vánh, đám ấy mà thấy việc gì đáng đưa thành tin tức thì muốn làm gì chẳng được. Họ sẽ xoay xở cho anh ta được ra chỉ sau vài giờ. Lấy dấu vân tay, thẩm vấn, chuyển đến tòa Albany, rồi phóng thích. Bị tuyên nộp phạt một khoản vì phạm tội nhẹ. Có lẽ anh ta và một vài đồng bọn nữa. Điều khiến ông cứ phải suy nghĩ là: Làm thế quái nào mà anh ta treo sợi cáp giữa hai tòa tháp được? Hẳn sợi dây đó bằng thép liền? Làm sao anh ta tung nó sang đầu bên kia được? Dùng trực thăng à? Hay cần cẩu? Hoặc luồn qua các cửa sổ bằng cách nào đó? Hay anh ta thả một đầu dây xuống và rồi kéo nó lên ở phía bên kia? Những băn khoăn ấy làm Sodergberg khẽ rùng mình khoan khoái. Thỉnh thoảng cũng được một vụ hay ho kích thích. Chút gia vị cho một ngày buồn tẻ. Câu chuyện làm quà lúc trà dư tửu hậu. Nhưng nhỡ ông không được nhận vụ đó thì sao? Nhỡ vụ đó chuyển cho thẩm phán khác? Có lẽ ông nên ngỏ lời với văn phòng công tố quận và các nhân viên lục sự, một cách bí mật thôi, tất nhiên rồi. Ở tòa án lúc nào cũng có hệ thống những đặc ân qua lại kiểu đó. Để cho tôi vụ anh chàng đi dây đó nhé, coi như tôi nợ anh lần này.
Ông gác chân lên mặt bàn làm việc và uống café, trầm tư suy ngẫm về xung động của ngày hôm nay, một ngày có triển vọng được thụ lý một vụ án, mà lần đầu tiên, không chỉ là công việc thuần túy.
Ông phải thừa nhận hầu hết mọi ngày đều tệ hại. Bao nhiêu thứ sóng gió ập vào mặt, hết đợt này đến đợt khác. Để lại một đống vụn vỡ phía sau. Ông không còn ngại dùng từ cặn bã nữa. Đã có thời ông thậm chí không dám dùng từ đó. Nhưng sự thật là hầu hết bọn chúng đều là cặn bã và ông thấy đau lòng khi phải thừa nhận như vậy. Cặn bã. Đợt thủy triều bẩn tràn lên bờ biển rồi khi rút đi để lại đầy những bơm kim tiêm với giấy gói bằng nhựa và những cái áo dính đầy máu và bọn trẻ ranh còn chưa biết trời cao đất dày. Ông phải xử lý những thứ tệ hại nhất trong đám cặn cùng xã hội. Mọi người đều nghĩ ông sống trong không gian như thiên đường ốp gỗ gụ, có một công việc nghe vang như mõ, một sự nghiệp đầy quyền lực, nhưng thực sự ngoài danh tiếng ra thì chẳng có gì đáng kể hết. Nó giúp ông đặt được ở bàn tốt trong nhà hàng sang trọng, điều đó làm gia đình Claire hết sức hài lòng. Trong các bữa tiệc ai cũng cố sức gồng mình ra vẻ. Họ ưỡn ngực thẳng vai ngồi xung quanh ông. Nói năng kiểu cách khác hẳn. Chẳng phải là đặc quyền đặc lợi lớn lao gì, nhưng có còn hơn không. Thỉnh thoảng cũng có cơ hội thăng tiến, chẳng hạn leo lên tòa án tối cao, nhưng cái cơ hội đó chưa đến lượt ông hưởng. Rốt cuộc thì hầu hết mọi thứ cũng chỉ xoay quanh những điều trần tục. Một trò giữ trẻ quan liêu mà thôi.
Ở đại học Yale, khi ông hãy còn trẻ và ương ngạnh, ông từng chắc chắn một ngày nào đó mình sẽ trở thành trục quay cho cả thế giới xoay quanh, cuộc đời ông sẽ gây được tầm ảnh hưởng sâu rộng. Nhưng chàng thanh niên nào mà chả nghĩ vậy. Tuổi trẻ là thế, luôn thấy mình quan trọng. Cứ nghĩ sẽ để lại dấu ấn trên đời này. Nhưng sớm hay muộn một người đàn ông trưởng thành cũng sẽ ngộ ra. Ta nhận lấy một lối đời nhỏ xíu và biến nó thành của mình. Cố lướt qua thời gian theo cách tốt nhất có thể. Ta trở về nhà với người vợ hiền thục của mình và an ủi nàng. Ta ngồi vào bàn và khen ngợi bộ dao nĩa. Ta cảm ơn những ngôi sao may mắn đã đem lại cho ta gia tài kếch xù của nàng. Rồi ta hút một điếu xì gà ngon và hy vọng thỉnh thoảng cũng được lăn lộn trên những tấm ga giường bằng lụa. Ta mua cho nàng một món trang sức xinh xắn ở hiệu DeNatale’s và hôn nàng trong thang máy vì trông nàng vẫn xinh đẹp, vẫn giữ dáng tốt cho dù nhiều năm đã trôi qua, thực sự là thế. Ta hôn tạm biệt nàng, ngày ngày xuống phố đi làm và sẽ sớm phát hiện ra rằng nỗi buồn khổ của mình chỉ bằng phân nửa nỗi khổ của người khác. Ta than khóc cho đứa con trai đã chết, nửa đêm ta tỉnh giấc vì người vợ đang thổn thức bên cạnh, rồi ta đi vào bếp, làm cho mình một chiếc bánh kẹp phết bơ và tự nhủ, chà, ít nhất đây cũng là một chiếc bánh kẹp phết bơ trên đại lộ Park, có thể còn tệ hơn thế, cuộc đời mình có khi phải gặp cái kết còn tệ hơn thế nhiều: và phần thưởng là một tiếng thở dài nhẹ nhõm.
Đám luật sư đều biết sự thật. Các nhân viên lục sự cũng vậy. Thẩm phán thì đương nhiên là biết rồi. Phố Trung Tâm đúng là một cái nhà xí. Thực tế là họ gọi nó như vậy thật: nhà xí. Khi họ gặp nhau ở tại buổi họp mặt chính thức nào đó. Earl, hôm nay nhà xí thế nào? Tôi bỏ quên cặp táp trong nhà xí. Thậm chí họ còn dùng nó như một động từ. Ngày mai anh có nhà xí không, Thomas? Ông rất ghét phải thừa nhận điều đó kể cả với chính bản thân mình, nhưng đó đúng là sự thật. Ông hình dung mình đang ở trên một cái thang, một người đàn ông ăn mặc chỉnh tề trên nấc thang, một người có đặc quyền, có phong cách và học thức, mặc bộ áo choàng đen, ở bên trong tòa nhà của công lý, dùng hai bàn tay trần để nhặt nhạnh những lá cùng cành cây thối khỏi rãnh nước từ nhà xí.
Điều này không còn làm ông bận tâm như trước kia nữa. Ông là một phần của cái hệ thống đó. Bây giờ ông đã hiểu được sự thực đó. Một mẩu da nhỏ trên thân thể một sinh vật có cấu trúc tinh vi. Một cái răng truyền động hai bánh xe. Mà có lẽ đó chỉ là quá trình người ta già đi. Ta nhường sự thay đổi cho các thế hệ sau thực hiện. Nhưng rồi cái thế hệ tiếp nối ta đó lại bị nổ tung trong các quán café ở Việt Nam, và ta bước tiếp, phải bước tiếp, bởi vì ngay cả khi những người ấy đi rồi, họ vẫn được tưởng nhớ đến.
Soderberg giờ không là một nhà hoạt động độc lập người Do Thái như vẫn từng mong mỏi, nhưng ông không chịu buông xuôi. Bởi đây là vấn đề danh dự, sự thật, và sống còn.
Khi nhận cuộc gọi mời việc đầu tiên vào mùa hè năm 1967, ông định nhận công việc này và trở thành một mẫu mực về đạo đức trong ngành. Ông sẽ không chỉ trụ vững đến cùng, mà còn tỏa sáng. Ông bỏ công việc hiện tại và phải chịu giảm thu nhập đến năm mươi lăm phần trăm. Ông không cần lương cao. Ông và Claire đã dành dụm được một khoản kha khá, trong tài khoản của họ có nhiều tiền, một khoản thừa kế kếch xù, hơn nữa Joshua đã ổn định công việc ở PARC. Dù ý tưởng trở thành luật sư đến một cách hoàn toàn bất ngờ, ông vẫn thích nó ngay. Hồi trẻ ông từng làm việc vài năm ở Văn phòng Công tố Liên bang, thực thế, ông đã bỏ nhiều thời gian nỗ lực, từng làm cho một ủy ban thuế, tạo được cho mình một bản thành tích đáng kể, và cũng biết bợ đỡ đúng người. Trong thời gian đó ông cũng đã thụ lý một vài vụ khó, đứng ra tranh biện khá thuyết phục, tìm được cách giải quyết các bên đều chấp nhận. Ông viết một bài xã luận cho tờ The New York Times chất vấn những giới hạn pháp lý của những đối tượng trốn nhập ngũ cũng như ảnh hưởng tâm lý của chế độ cưỡng bách tòng quân lên cả nước. Sau khi cân nhắc kỹ các phương diện đạo đức và thể chế, ông đi đến thái độ kiên quyết ủng hộ chiến tranh. Tại những bữa tiệc trên đại lộ Park ông đã từng gặp thị trưởng Lindsay, nhưng chỉ thoáng qua, vì thế khi nhận lời mời hẹn gặp, ông nghĩ đó chỉ là một trò bịp bợm. Ông gác máy điện thoại. Tự cười giễu mình. Nhưng điện thoại lại đổ chuông. Ông muốn tôi làm gì đây? Cuối cùng đúng là người ta nói về chuyện thăng chức thật, đầu tiên là giữ quyền thẩm phán ở tòa án tối cao New York, và rồi, ai mà biết được - từ điểm xuất phát đấy trở đi thì nhiều khả năng lắm. Nhiều trường hợp thăng chức bị đình hoãn khi thành phố rơi vào tình trạng phá sản, nhưng ông không ngại, ông sẽ vượt lên được. Ông là kiểu người tin tưởng vào sự đúng đắn của luật pháp. Với vai trò đó ông có thể cân nhắc, mổ xẻ, suy ngẫm và tạo nên thay đổi, đóng góp chút gì cho thành phố nơi ông sinh ra. Ông luôn luôn cảm thấy mình vẫn chỉ mon men bên lề thành phố và bây giờ ông sẵn sàng chịu bị giảm thu nhập để được thâm nhập vào trung tâm của nó. Luật pháp phải ở mức cơ bản trong phương cách phổ biến lẫn mức độ dung chứa những trò điên rồ quá hạn của con người. Ông tin tưởng rằng luật dù đã thành văn cũng không nên mãi không thay đổi. Luật là sản phẩm con người tạo ra. Bởi vậy nó phải được sàng lọc. Ông quan tâm tìm hiểu không chỉ những điều có thể diễn ra, mà cả những điều buộc phải diễn ra. Ông sẽ được bắt tay hành động thực sự. Trở thành một trong những người thợ mỏ quan trọng đào tìm đức hạnh của thành phố này. Trở thành Ngài Solomon Soderberg tôn kính.
Ngay cả cái danh xưng đó nghe cũng thật oách. Có lẽ người ta nhận ông vào để làm bung xung thế thôi, cho cân bằng sổ sách, nhưng ông không bận tâm lắm, cái được sẽ hơn cái mất. Ông sẽ là một thầy giảng giới luật Do Thái, khôn ngoan và biết quan tâm. Hơn nữa trong mọi luật sư đều đã sẵn một thẩm phán tiềm ẩn.
Ngày đầu tiên ông bước vào tòa nhà, lòng sục sôi nhiệt huyết. Qua cổng chính. Ông muốn thưởng thức xứng đáng cảm giác này. Ông đã mua một bộ com-lê mới toanh của một nhà may hợp mốt trên đại lộ Madison. Cà vạt Gucci. Đôi giày có núm tua. Ông đi đến tòa nhà, lòng đầy ắp những kỳ vọng. Mặt ngoài những cánh cửa rộng màu vàng có khắc dòng chữ NHÂN DÂN LÀ NỀN TẢNG CỦA SỨC MẠNH. Ông đứng lại một phút để thấm hút câu ấy vào trong người. Bên trong hành lang là những bóng người mờ mờ chuyển động. Từ cò dắt khách đến các phóng viên, và cả những tay luật sư quạ đen nữa[58]. Những người đàn ông đi giày cao đế bằng màu tía. Những phụ nữ lếch thếch kéo con đằng sau. Những kẻ vô công rồi nghề ngủ ngay trong hốc cửa sổ. Ông có thể cảm nhận tim mình trĩu xuống theo từng bước chân. Thoáng nhìn nơi này trông vẫn còn nét bề thế với vòm trần cao, lan can bằng gỗ cũ xưa và sàn nhà lát đá cẩm thạch, nhưng càng đi sâu vào bên trong tinh thần ông càng sụt giảm. Phòng xử án còn tệ hại hơn trong trí nhớ của ông. Ông lê bước đi xem xung quanh, sững sờ, rồi chán hẳn. Những bức tường dọc hành lang bị vẽ bậy linh tinh. Đám đàn ông ngồi hút thuốc lá ngay phía sau các phòng xử án. “Hàng” cho bọn nghiện được bán ngay trong phòng vệ sinh. Công tố viên mặc com-lê có vết thủng. Đám cảnh sát biến chất loanh quanh khắp nơi kiếm cơ hội chấm mút tí tiền trà nước. Bọn trẻ bắt tay chào nhau theo cái kiểu rắc rối riêng của chúng. Mấy ông bố ngồi cạnh những cô con gái đang phê rũ rượi. Mấy bà mẹ thì ngồi khóc lóc bên cạnh những đứa con trai tóc tai lượt thượt. Lớp da đỏ đẹp đẽ bọc cửa vào phòng xử án bị rạch toác ra. Đám luật sư thì đi đi lại lại với những chiếc cặp táp tơi tả. Ông lướt qua tất cả bọn họ, đi thang máy lên tầng trên, rồi kéo ghế ra khỏi bàn làm việc mới của ông. Có một mẩu bã kẹo cao su khô cứng bám dưới ngăn kéo bàn.
Mặc dù vậy, ông tự nhủ với mình, mặc dù tất cả những cái đó, ông sẽ làm cho mọi thứ vào quy củ sớm thôi. Ông có thể xử lý được. Ông sẽ xoay chuyển tình hình.
Một chiều nọ ông tuyên bố các dự định của mình nhân bữa tiệc tiễn Kemmerer về hưu. Tiếng cười dội lên khắp phòng. “Solomon đã nói như thế đấy”, một gã mặt mày ủ dột nói. “Xẻ đứa trẻ ra đi các chàng[59]”. Sự vui vẻ bùng lên và tiếng chạm cốc rộ lên lanh canh. Những thẩm phán khác khuyên rằng rồi ông sẽ quen thôi, rằng ông sẽ nhìn thấy ánh sáng nhưng vẫn ở trong đường hầm. Điều tuyệt vời nhất của pháp luật là sự khoan dung sáng suốt. Người ta phải chấp nhận dần những kẻ ngu xuẩn. Nơi này là vậy. Đôi khi cũng phải biết che mắt cho qua. Ông cần phải học cách thua cuộc. Đó là cái giá của sự thành công. Cứ thử mà xem, họ nói. Thử đấu với cả hệ thống đi, Soderberg, rồi anh sẽ phải ngồi gặm pizza rẻ tiền ở Bronx. Hãy cẩn thận. Theo dòng đi thôi. Nhập cánh chúng tôi đây. Và nếu ông nghĩ Manhattan thật tệ hại, thì cứ việc đi đến chỗ nào những ngọn lửa thực sự đang sục sôi, đến thẳng cái Hà Nội trong lòng nước Mỹ đó đi, ngay ga cuối tuyến tàu số 4, nơi những gì tệ hại nhất của thành phố phô ra mỗi ngày[60].
Trong nhiều tháng liền ông không muốn tin những lời ấy, nhưng dần dần nhận ra họ đã đúng - ông đã bị mắc kẹt, ông chỉ là một mắt xích của cái hệ thống đó - cái từ đó thật quá hợp - một mắt xích trong Chuỗi Xích.
Rất nhiều vụ chỉ được giải quyết qua loa nhanh chóng. Bọn tội phạm trẻ dại sẽ nhận tội, hoặc không thì ông sẽ tuyên chúng mức án đúng bằng thời gian tạm giam chờ xử, chỉ thế mới giải tỏa được tình trạng chất chồng ứ đọng nơi này. Ông còn phải hoàn thành cho kịp chỉ tiêu xét xử. Ông còn phải trả lời các sếp ngồi ngay tầng trên của tòa nhà. Những tội nặng giảm thành tội nhẹ. Đó cũng là một hình thức khác của sự phá hủy. Khi cần thì cũng phải băm bổ như quả tạ nện vào phá sập tòa nhà thôi. Ông bị phán xét dựa trên việc ông phán xét thế nào: ông càng mang lại ít việc cho các đồng nghiệp ở tầng trên thì họ càng vui vẻ. Chín mươi phần trăm các vụ án, kể cả những vụ phạm pháp nghiêm trọng cũng phải qua loa cho xong. Ông vẫn nóng lòng mong được thăng chức như hứa hẹn, quả có thế, nhưng ngay cả điều đó cũng không thể dập tắt cái cảm giác rằng ông phải nhét tất cả lý tưởng một thời ôm ấp vào dưới tấm áo chùng đen rẻ tiền, và bây giờ, khi kiếm tìm, ông thậm chí không còn có thể tìm ra nó trong những kẽ hở tối tăm nhất.
Ông đến tòa nhà số 100 phố Trung Tâm mỗi tuần năm ngày, khoác tấm áo chùng lên, đi đôi giày bóng nhất, kéo tất lên cao lên đến mắt cá chân, và cố giành chiến thắng mỗi khi có thể. Ông biết vấn đề nằm ở chỗ mình lựa chọn trận chiến nào. Ông có thể dễ dàng có được hàng tá các trận thắng như thế mỗi ngày, thậm chí nhiều hơn nếu ông muốn. Ông có thể tiếp nhận lời thách đố của cả cái hệ thống đó. Ông có thể tuyên phạt những tay vẽ graffiti lung tung những một nghìn đô la để rồi không bao giờ chúng có khả năng trả được. Hoặc tống bọn nhóc đốt pháo hoa trên phố Mott vào tù sáu tháng liền. Cũng có thể cho bọn nghiện ngồi bóc lịch cả năm. Xích chúng trong đó bằng cách định khoản tiền bảo lãnh thật cao. Nhưng ông biết rồi mọi thứ sẽ bật ngược trở lại. Chúng sẽ không chịu nhận tội. Và rồi ông sẽ bị người ta ném sổ sách vào mặt vì đã để phiên xử án bị tắc nghẽn. Những tên trộm trong siêu thị, bọn nhóc đánh giày, đám chôm chỉa trong khách sạn, bọn choai choai bày trò đoán bài ăn tiền, tất cả bọn chúng cuối cùng rồi sẽ được quyền tự biện hộ. Vô tội, thưa quý tòa. Thế là thành phố bị tắc lại đó. Các cống rãnh sẽ đầy ự. Những thứ bẩn thỉu sẽ tràn ra. Các vỉa hè ngập ngụa. Và rồi người ta đổ lỗi lên đầu ông.
Vào những thời điểm tệ hại nhất, ông nghĩ mình chỉ là một người thợ bảo trì, một người gác cổng, một gã bảo vệ nhỏ nhoi. Ông quan sát hàng người lũ lượt diễu vào diễu ra phòng xử án, dù hôm đấy ông sắm vai Mắt xích nào trong đó, tự hỏi làm sao mà thành phố này đã trở nên ghê tởm đến thế trong mắt ông. Làm sao nó có thể túm tóc em bé mà nhấc lên, làm sao nó có thể hiếp những bà già bảy mươi tuổi, làm sao nó lại đốt chiếc đi-văng mà cặp tình nhân đang ngủ trên đó, làm sao nó móc trộm những thanh kẹo, đập vỡ ngực người ta, để đám phản đối chiến tranh nhổ cả vào mặt cảnh sát, để cánh công đoàn chèn ép lên các ông chủ của họ; làm sao có thể để bọn Mafia thao túng những cung đường lót ván ven biển, để những ông bố dùng con gái ruột thản nhiên như dùng cái gạt tàn, để những cuộc ẩu đả trong quán bar trở nên mất kiểm soát, và đẩy những doanh nhân vô cùng đàng hoàng tử tế sa sút đến mức thành kẻ tè bậy ngay trước tòa nhà Woolworth; rồi những khẩu súng được rút ra ngay giữa quán pizza, những gia đình bị nổ tung chết hết, những nhân viên y tế kết thúc cuộc đời với hộp sọ vỡ nát, những con nghiện tiêm thẳng heroin vào lưỡi, những tên vô lương tâm lừa các bà lão mất sạch số tiền ki cóp cả đời, những tay bán hàng thối tiền gian, thị trưởng thành phố thì vo ve phỉnh nịnh và lừa dối người ta trong khi cả thành phố cháy rụi đến tận nền móng, dọn mình sắp sửa mai táng luôn chút tàn tro sót lại, tội ác, tội ác, tội ác.
Không có tệ hại nào của cái thành phố này mà chưa qua mắt của Soderberg. Đám cặn bã đó chừng như cũng tiến hóa. Ta chắn được một thời gian là những thứ cặn bã lại chảy qua trơn tuột, dù ta đã cố chiến đấu với nó ác liệt thế nào.
Những thằng ngốc này cứ tiếp tục đổ về đây từ khắp nơi, từ những rạp chiếu phim rẻ tiền, các câu lạc bộ thoát y, buổi triển lãm quái nhân dị thú, cửa hàng bán đồ chơi khoái lạc, buồng chiếu phim con heo, các khách sạn nhếch nhác rẻ tiền, và trông bọn họ còn thảm hại hơn thế sau vài ngày trong trại tạm giam. Một lần khi đang chủ tọa một phiên tòa, ông nhìn thấy một con gián thực sự đang chui ra khỏi túi một bị cáo và bò trên vai, dọc lên một bên cổ hắn trước cả khi hắn kịp nhận ra nó. Lúc nhìn thấy, gã đó chỉ phủi nó đi, và tiếp tục kêu nài hòng đỡ tội. Có tội, có tội, có tội. Hầu như tất cả bọn chúng đều nhận tội để đổi lấy một mức án có thể chịu được, hoặc được tuyên án bằng thời gian tạm giam, hoặc chịu nhả ra một khoản tiền phạt nho nhỏ, và đi tiếp con đường khoái lạc của chúng, ngênh ngang trở ra lại với thế giới, chỉ để rồi lại quay lại phòng xử án chỉ sau một hai tuần. Điều đó khiến ông luôn căng thẳng. Ông mua một dụng cụ tập tay bỏ vừa khít trong túi. Ông thường luồn tay dưới tấm áo chùng và lôi nó ra khỏi túi áo vét để len lén bóp dưới lớp áo. Dụng cụ đó gồm lò xo và hai tay cầm gỗ. Ông chỉ hy vọng là mình không ai bị nhìn thấy. Bởi hành động ấy rất dễ hiểu nhầm thành thẩm phán lại đi sờ soạng dưới áo chùng. Nhưng bài tập tay giúp ông bình tĩnh đối phó với những vụ án đến rồi đi, và bảng chỉ tiêu của ông được hoàn thành. Muốn thành anh hùng của cái hệ thống này thì chỉ cần xử lý được nhiều vụ nhất trong thời gian nhanh nhất. Cứ mở cửa cống mà tống tháo tất chúng đi.
Bất cứ ai dù chỉ tạt qua hay tham gia hẳn vào cái hệ thống này ở vị trí nào đi nữa đều cảm thấy bị o ép khó chịu. Đủ loại tội phạm đổ tới bên công tố - nào là hiếp dâm, giết người, đâm chém, cướp giật. Các trợ lý trẻ tuổi trong văn phòng công tố quận kinh hoàng trước những bản danh sách dài dằng dặc. Những lời tuyên án khiến các viên lục sự khó chịu: họ giống những tay cảnh sát đang thất vọng, thỉnh thoảng xuýt xoa khi thấy quan tòa quá nương tay. Người thư ký tòa bị quở vì biên bản viết líu ríu khó đọc. Đủ loại công kích đổ xuống đầu cánh luật sư trợ giúp pháp lý. Các loại lời lẽ ập vào mặt nhân viên áp giải bị cáo. Chuyên gia tâm lý tòa án bị chê trách bởi các suy luận đơn giản tới thô thiển. Cảnh sát căm ghét công việc báo cáo giấy tờ. Những khoản tiền phạt nương tay mấy cũng làm bọn tội phạm phát rồ. Những khoản tiền bảo lãnh dù khiêm tốn cũng khiến người bảo lãnh kêu ca. Tất cả mọi người đều mắc kẹt và công việc của ông là ngồi giữa đám bùng nhùng đó mà ban bố công lý và cân bằng giữa cái đúng cái sai.
Cái đúng và cái sai. Trái và phải. Lên và xuống. Ông hình dung mình đứng chênh vênh trên rìa vách đá, buồn nôn và chóng mặt và hoang mang ngước nhìn lên.
Soderberg nuốt ực ngụm café. Mùi café rẻ tiền lẫn mùi kem sữa. Hôm nay ông sẽ thụ lý vụ anh chàng đi dây - chắc chắn như vậy.
Ông nhấc điện thoại lên và gọi văn phòng công tố quận, nhưng điện thoại cứ reo mãi reo mãi và khi ông nhìn lên chiếc đồng hồ để bàn thì thấy đã đến giờ xử buổi sáng.
Mệt mỏi, Soderberg đứng lên, rồi tự mỉm cười với mình khi ông nối theo hàng người thẳng tắp đi dọc tầng lầu.
Chú thích:
[56] Câu trên liên tưởng đến truyện kể về một cậu bé người Hà Lan đi ngang con đê trên đường đến trường, cậu thấy một vết nứt nhỏ trên thân đê bèn lấy ngón tay bịt lại chờ người tới giúp, và nhờ đó kịp thời ngăn hiểm họa vỡ đê.
[57] Viện tâm thần ở New York.
[58] Nguyên văn: Ambulance chasing. Luật sư chuyên lợi dụng sự kiện nào đó để xúi giục người ta khởi kiện hòng kiếm khách hàng. Từ này xuất phát từ các luật sư bám theo xe cấp cứu chở người bị nạn vào bệnh viện để tìm mối khách.
[59] Một trong những truyền thuyết về vị vua Solomon, vị vua nổi tiếng thông thái và có tài cai trị. Một lần ông phải phân xử cho hai bà mẹ cùng nhận một đứa trẻ là con mình. Ông phán nếu không ai nhượng bộ thì sẽ xẻ đứa trẻ ra làm đôi cho mỗi người một nữa. Người mẹ ruột tất nhiên sẽ chấp nhận thua kiện hòng cứu con mình.
[60] Ám chỉ vụ đốt khu Bronx, một quận phía Bắc New York, Mỹ vào thập niên 70, khi kinh tế Mỹ xuống dốc và nhiều mâu thuẫn ở khu này lên cao, vụ này cũng trùng hợp thời kỳ Mỹ tham chiến tại Việt Nam. Khu Bronx có nhiều thành phần dân cư, sắc tộc nên nổi tiếng phức tạp, nhưng cũng là cái nôi của nhiều nét văn hóa Mỹ độc đáo.