← Quay lại trang sách

- XXXIII - TUNG HÔ VÀ NGỢI CA THIÊN CHÚA

TÔI GẦN NHƯ BIẾT NGAY KHI ĐÓ. Rằng hai đứa bé ấy cần được chăm sóc. Một cảm giác đã vùi chôn lâu lắm trỗi lên. Đôi khi nhớ lại quá khứ là một sai lầm nảy sinh từ niềm kiêu hãnh, nhưng tôi đồ rằng khi ta sống trong một khoảnh khắc hàng nhiều năm ròng, dịch chuyển cùng nó và cảm thấy nó lớn dần lên, thì nó sẽ vươn rễ cho tới khi chạm tới mọi thứ trong tầm mắt ta.

Tôi lớn lên ở miền Nam Missouri. Là con gái duy nhất trong gia đình có năm anh em trai. Đó là những năm trong thời kỳ Đại Suy Thoái. Mọi thứ đều tan tác cả, nhưng chúng tôi vẫn cố hết sức bám trụ cùng nhau. Ngôi nhà chúng tôi ở hình chữ A, như hầu hết các ngôi nhà của người da đen trong thị trấn. Những tấm gỗ không quét sơn võng xuống quanh mái hiên. Ngôi nhà một bên là phòng khách dài, có bày bộ ghế mây, một chiếc đi-văng màu tía, và một cái bàn dài được đẽo rất thô từ ván một chiếc xe bò đã hỏng. Bên kia, hai phòng ngủ quay về hướng đông đón bình minh được che mát bởi hai cây sồi to. Tôi treo những cái khuy áo và đinh lên những cành cây làm thành một chiếc chuông gió. Trong nhà, những tấm lát sàn không được đều. Đêm đến, mưa rơi lộp bộp xuống mái tôn.

Bố tôi thường nói ông thích ngồi yên lắng nghe trọn hòa âm của cả ngôi nhà.

Những ngày tươi đẹp nhất đọng lại trong tôi chính là những ngày bình thường nhất - chơi lò cò trên tấm bê tông vỡ, theo các anh em trai chạy qua những cánh đồng ngô, kéo lê cặp sách trên đám đất bụi. Hồi đó tôi và các anh trai đọc rất nhiều sách - cứ vài tháng một lần thư viện lưu động lại ghé qua chỗ chúng tôi, dừng chân mười lăm phút. Khi mặt trời sủi những bọt nắng vàng trên dãy hàng rào sứt gãy, chúng tôi ùa ra ngoài, chạy ra sau cửa hàng tạp phẩm Chaucer, bày đủ trò chỗ dòng suối đối với tôi bây giờ chỉ bé xíu nhưng hồi đó thì là cả một dòng cuồn cuộn đáng gờm. Chúng tôi sẽ lái những chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước xuôi nhánh sông vĩ đại ấy và dàn xếp để thằng bé da đen Jim đánh bại Tom Sawyer cho đáng đời nó đi. Với nhân vật Huck Finn thì chúng tôi không biết nên xử trí ra sao, nên thường gạt nó ra khỏi những trò phiêu lưu của mình. Những con tàu bằng giấy lượn lờ ra đến chỗ ngoặt rồi biến mất.

Nghề chính của bố tôi là thợ sơn nhà, nhưng ông ưa vẽ biển hiệu gắn cửa cho các cửa hàng trong thị trấn. Tên của những ông chủ quan trọng vẽ trên kính đục. Chữ mạ vàng cùng những vòng xoắn trang trí bằng bạc tinh vi. Thỉnh thoảng ông kiếm được việc ở chỗ các công ty thương mại, nhà máy, hay văn phòng thám tử tỉnh lẻ. Cũng có khi một bảo tàng hoặc nhà thờ nào đó muốn sơn sửa biển chào. Ông chủ yếu làm ở khu của người da trắng, nhưng khi ông làm ở mé bên này sông chỗ chúng tôi, chúng tôi sẽ đi theo để giữ thang cho ông hoặc đưa cho ông bút lông và giẻ. Ông vẽ những tấm biển gỗ đu đưa trong gió chào mời mua nhà, món trai nước ngọt hay những chiếc bánh kẹp giá năm xu. Ông thấp người, luôn ăn bận chỉn chu, có đi nhận việc ở đâu cũng không chê vào đâu được: Áo sơ-mi cổ cồn xếp li, thêm kẹp cà vạt bằng bạc. Quần ông có gấu lơ-vê và ông thường vui vẻ nói rằng nếu chịu khó nhìn kỹ thì ông thấy được cả hình cái biển hiệu đang vẽ phản chiếu trên mũi giày bóng lộn. Ông không bao giờ nhắc đến chuyện tiền bạc hay chuyện túng thiếu nọ kia với chúng tôi, và khi cuộc Đại Suy Thoái thực sự ập đến, ông vẫn chỉ làm những công việc cũ và cố vẽ cho đẹp hơn với hy vọng việc kinh doanh rồi sẽ trụ vững và họ sẽ nhả cho ông một hai đô-la khi mọi việc tốt đẹp.

Việc thiếu tiền cũng không khiến mẹ tôi buồn phiền là mấy - bà là người đã kinh qua cả những cơn bĩ cực lẫn những hồi thái lai của cuộc đời: bà đủ từng trải để mà tận tai nghe hết những chuyện về nô lệ, và đủ khôn ngoan để nhận ra giá trị của việc thoát khỏi ách áp bức ấy, hay chí ít cũng không thua kém bất kỳ ai đã thoát khỏi gông xiềng ở miền Nam Missouri thời đó.

Bà từng được trao lại, như một vật kỷ niệm, tờ văn khế bán bà ngoại tôi, và đó là vật mà bà mang theo để nhắc nhở mình về xuất thân, nhưng cuối cùng khi có cơ hội bà cũng bán nó đi cho một người phụ trách bảo tàng đến từ New York. Bà dùng tiền ấy mua một chiếc máy khâu cũ. Bà cũng làm những việc khác nữa, nhưng chủ yếu là quét dọn cho tòa báo ở trung tâm thị trấn. Bà mang những tờ báo từ khắp nơi trên đất nước về nhà và đêm đêm lại đọc cho chúng tôi nghe những chuyện mà bà cho là hay, những chuyện mở ra những chân trời mới bên ngoài ô cửa, những chuyện kể đơn giản về chú mèo trèo cây, hay những cậu bé trinh thám giúp đội cứu hỏa, hay những người da màu đấu tranh cho điều thiện và điều đúng, mà mẹ tôi hay gọi là việc làm phải lẽ.

Nhưng bà không hòa theo Marcus Garvey[75], bà chẳng ôm thù oán cũng chẳng mong về lại quê gốc, nhưng bà không phản đối quan điểm phụ nữ da màu cũng có thể giành được một vị thế tốt hơn trong thế giới này.

Mẹ có khuôn mặt đẹp nhất tôi từng thấy, có lẽ là đẹp nhất trong những người tôi gặp từ trước đến giờ: da đen như bóng đêm, khuôn mặt trái xoan đầy đặn, đôi mắt đẹp như được bố tôi vẽ nên, khuôn miệng thoáng nét buồn, hàm răng sáng bóng, nên khi bà cười cả khuôn mặt bừng lên trong niềm khuây khỏa. Bà đọc bằng giọng trầm bổng của người châu Phi mà tôi đoán đã theo bà từ lâu lắm rồi từ quê hương Ghana, chút dấu vết đã pha chất Mỹ, nhưng nó vẫn níu buộc chúng tôi với quê hương mà chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy.

Tôi ngủ cùng với các anh em trai đến tận năm tám tuổi, nhưng sau đó mẹ vẫn thường đặt tôi vào giường cạnh các anh em và đọc cho chúng tôi nghe tới khi tất cả cùng ngủ. Khi đó bà luồn đôi cánh tay to lớn xuống dưới người tôi mà bế tôi về chỗ tấm nệm riêng đặt ở hành lang hẹp ngay bên ngoài phòng ngủ của bà. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn nghe thấy tiếng các anh em trai thì thào cười giỡn trước khi chìm vào giấc ngủ: có lẽ đó là tất cả những gì tôi muốn nhớ lại, có lẽ những câu chuyện của chúng tôi nên dừng lại ở một thời điểm chính xác nào đó, có lẽ mọi thứ nên bắt đầu và kết thúc ngay ở đó, vào khoảnh khắc những tiếng cười vang lên; nhưng xem ra mọi thứ không thực sự có khởi đầu hay kết thúc, tôi cho là vậy, chúng cứ tiếp diễn vậy thôi.

Vào một buổi tối tháng Tám hồi tôi mười một tuổi, bố bước vào cửa, một vệt sơn bắn tóe trên giày. Mẹ, lúc đó đang nướng bánh, chỉ biết đứng ngây ra nhìn ông. Trước giờ ông chưa từng, chưa một lần nào, làm hỏng quần áo khi ra ngoài làm việc. Bà đánh rơi cái muỗng xuống sàn nhà. Một giọt bơ chảy vãi ra sàn. “Ôi Chúa ơi có chuyện gì với ông nó vậy?” bà thì thào. Ông chỉ đứng đó ủ rũ và tái nhợt, nắm chặt lấy mép khăn trải bàn kẻ ca rô đỏ trắng. Dường như ông đang cố nuốt khan để giọng khỏi run. Ông ấp úng vài lời rồi khuỵu xuống. Mẹ tôi kêu lên: Ôi, lạy Chúa, đột quỵ rồi. Bà vòng tay đỡ lấy ông.

Khuôn mặt hẹp của bố trong đôi bàn tay to của mẹ.

Mắt ông lướt qua mắt bà. Bà ngẩng mặt và hét lên với tôi:

“Gloria, đi tìm bác sĩ.”

Tôi nhào ra khỏi cửa trên đôi chân trần.

Hồi đó đường xá còn bằng đất nện, tôi vẫn nhớ từng nhịp bước chân, đôi lúc có cảm giác như tôi vẫn đang chạy trên con đường đó. Bác sĩ đang ngủ cho tỉnh rượu. Vợ ông ta nói không nên quấy rầy ông, bà ta đã tát tôi hai cái vào hai bên má khi tôi lách qua người bà mà lên cầu thang. Nhưng tôi vốn khỏe giọng. Tôi kêu gào ầm ĩ. Ông bác sĩ khiến tôi ngạc nhiên khi ông bước ra đầu cầu thang, săm soi nhìn xuống rồi quay đi lấy chiếc túi nhỏ màu đen. Đó là lần đầu tiên tôi được ngồi xe hơi về nhà, bố tôi vẫn đang ngồi ở chỗ bàn bếp, ôm chặt cánh tay. Hóa ra đó chỉ là cơn đau tim nhẹ, không phải đột quỵ, sau dạo ấy bố không thay đổi mấy nhưng mẹ thì khác hẳn. Sau lần đó bà lúc nào cũng canh chừng ông: bà e ông sẽ ngã gục xuống bất cứ lúc nào. Bà bị mất việc ở tòa báo vì cứ khăng khăng đòi ông phải tới đó ngồi trong khi bà quét dọn: đám biên tập viên không thể chịu nổi cảnh một người đàn ông da đen mó mẩm vào chỗ báo của họ, dù họ chẳng thấy có vấn đề gì nếu một phụ nữ da đen làm việc đó.

Một trong những cảnh tượng đẹp nhất mà tôi từng thấy trong đời - cho tới tận bây giờ - là cảnh một buổi chiều bố chuẩn bị đi câu cùng mấy người bạn ông quen ở cửa hàng gần nhà. Ông cứ đi đi lại lại khắp nhà để sắp đồ. Mẹ không muốn bố mang theo bất cứ thứ gì, kể cả cần câu và dây dợ vì lo ông bị quá sức. Ông nhét thêm dây câu vào giỏ và quát lên là ông thích mang gì thì mang. Ông thậm chí còn cố nhồi thêm bia và bánh kẹp cá ngừ vào giỏ cho bạn bè. Khi bên ngoài có tiếng huýt sáo gọi, ông quay ra hôn bà ở cửa, vỗ nhẹ lên mông bà và thì thầm điều gì đó vào tai bà. Mẹ ngửa cổ ra sau cười to, và sau này thì tôi biết đó hẳn là một câu bông đùa tục tĩu. Bà đứng nhìn theo cho tới khi bóng ông khuất sau góc đường, rồi bà trở vào trong và quỳ xuống - mà ngày thường bà vốn không phải người sùng đạo, bà thường nói sau này quả tim chẳng qua cũng nằm dưới một xẻng đất - vậy mà giờ bà bắt đầu cầu mưa, rất nghiêm túc thành khẩn, để cha tôi mau mau về cạnh bà.

Đó là thứ tình cảm gắn bó hàng ngày mà tôi phải học cách vượt qua: nếu lớn lên cùng thứ tình thân ấy, thật khó nghĩ rằng có một ngày ta phải đối đầu với nó. Tôi thường nghĩ anh chị em thực sự yêu thương nhau sẽ khó lòng bước ra khỏi lớp vỏ bao bọc ấy bởi trong đó dễ chịu đến nỗi ta chẳng thiết tạo lớp vỏ riêng cho mình nữa.

Suốt đời mình tôi sẽ không quên tấm biển các anh chị em vẽ cho tôi một vài năm sau đó, sau cái chết của hai anh tôi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một ở Anzio, một sau đợt ném bom ở Nhật Bản, sau những bài diễn văn và màn bắt tay xã giao cho phải phép. Khi ấy tôi đang trên đường tới Syracusse, New York học đại học, mọi người bèn viết lên một tấm biển nhỏ bằng nước sơn yêu chuộng của bố tôi, loại sơn vàng kim quý giá ông luôn dành cho những mối khách sang, rồi họ treo nó ở trạm xe buýt, tấm biển có miếng đỡ lưng hình thoi chắc chắn như cánh diều để tránh bị gió lật, nó đề: VỀ NHÀ SỚM NHÉ, GLORIA.

Tôi không sớm trở về. Đúng ra tôi không về lần nào. Ít ra là hồi đó. Tôi ở miền Bắc, ra sức vùi đầu vào sách vở, rồi lao vào một cuộc hôn nhân chóng vánh, nhúng tâm hồn mình vào rượu mạnh, rồi sau dồn hết tâm trí vào ba đứa con trai bé bỏng, mặc cho năm tháng trôi đi, như các anh chị em tôi cũng thế, nhìn mắt cá chân qua năm tháng cứ phù dần ra. Rồi nhiều năm sau, khi thật sự quay về nhà ở về Missouri, tôi ngồi tuyến xe buýt chống phân biệt chủng tộc, tai nghe những chuyện về cảnh sát kéo lê vòi rồng, và tôi có thể nghe thấy giọng mẹ văng vẳng bên tai: Gloria, suốt thời gian qua mày chẳng làm nên tích sự gì cả, mày đã ở đâu hả, đã làm gì hả, sao lại không về nhà, mày có biết mẹ đang cầu trời mưa không?

Giờ sau gần ba mươi năm, tôi có một dáng vẻ mà ai nhìn cũng nghĩ tôi ngoan đạo lắm. Tôi bận áo váy thít chặt ở sau lưng để giữ cho ngực khỏi lắc lư. Tôi cài ghim hoa vàng lên vai trái chiếc đầm màu sẫm nhất. Tôi đeo xách tay trắng có quai tròn. Tôi đi tất dài quá gối và thỉnh thoảng còn thêm đôi găng tay trắng lên tận khuỷu tay.

Giọng tôi lại vốn sâu trầm, ai nghe cũng cứ ngỡ tôi như sắp cất tiếng hát những bài thánh ca của xưa của người Mỹ da đen, nhưng sự thật là tôi chưa từng nhìn thấy Chúa kể từ những ngày thơ trẻ khi rời khỏi Missouri, và thật ra tôi thích về căn phòng của mình ở Bronx trùm chăn tận cằm nghe tiếng vĩ cầm trầm bổng của Vivaldi qua đài hơn là nghe bất kỳ nhà thuyết pháp nào huênh hoang về chuyện làm sao cứu thế giới.

Dù sao thì khổ người tôi bây giờ cũng không hợp với dãy ghế băng trong nhà thờ nữa, mà trước giờ chưa khi nào tôi thấy thoải mái khi cố nhét mình vào đó.

Tôi đã đi qua hai cuộc hôn nhân và mất ba đứa con trai. Chúng ra đi theo những cách riêng, tất cả đều làm tim tôi tan nát, nhưng Chúa xem chừng sẽ không vá giúp mảnh tim nào lành lại. Tôi biết nhiều khi tôi tự lừa phỉnh mình, và tôi biết Chúa cũng thường xuyên lừa phỉnh tôi như vậy. Tôi từ bỏ Chúa mà chẳng thấy tội lỗi gì cho lắm. Gần như cả đời mình tôi cố làm điều thiện, nhưng đó không phải vì Chúa. Vậy mà, tôi vẫn đem lại ấn tượng là người mộ đạo. Người ta nhìn tôi, lắng nghe tôi và nghĩ tôi đang dẫn dắt họ tới Phúc âm. Mỗi người đều mang gánh tai ương riêng, và tôi cho là - ít nhất cũng là trong chốc lát - Claire thấy tôi hợp với cái nhóm khác người đó.

Tôi chẳng có chút hiềm khích gì với chị ấy. Với tôi chị ấy trông nhẹ nhàng tinh tế, cũng như những giọt nước mắt kia. Không phải là chị ấy cố phủ đầu tôi bằng nước mắt. Chúng cứ thế trào ra, như với bất kỳ ai. Chị ấy cũng ngượng, tôi dám chắc, vì những bức rèm, đồ sứ, bức chân dung ông chồng treo trên tường, cốc trà rung lách tách trên cái đĩa lót chị cầm. Mái tóc điểm vệt hoa râm, đôi cánh tay gầy guộc, cái cổ dài với những đường gân xanh, chị ấy trông như là có thể bay qua cửa sổ ra đại lộ Park bất cứ lúc nào. Những tấm bằng đại học treo dọc tường hành lang, ai thoạt nhìn cũng rõ chị ấy sinh ra ở mé phải con sông. Chị ấy giữ nhà cửa gọn gàng sạch sẽ, giọng thoáng pha thổ âm miền Nam du dương, nên chị ấy gây cho tôi cảm giác thân thiết nhất trong số các bà ấy.

Buổi sáng hôm qua nhanh, như đa phần các buổi sáng tốt lành khác.

Chúng tôi kẻ tung người hứng mấy câu về anh chàng đi trên dây và rồi thong thả từ tầng thượng trở xuống, ăn bánh rán, nhấm nháp trà, tiếp tục nói chuyện. Phòng khách tràn ngập nắng. Làm cho đồ đạc cũng trở nên óng ánh. Trần nhà cao và được tô điểm bằng các đường gờ đẹp mắt. Trên giá là chiếc đồng hồ bốn kim nhỏ chụp trong một cái chuông thủy tinh. Những bông hoa tôi mang đến đặt ngay giữa bàn. Chúng đã bắt đầu hé nở vì nóng.

Tất cả đều choáng váng bởi khung cảnh nhà to phố sang, tôi dám chắc. Khi Claire đi vào bếp, họ nhấc cốc lên liếc xuống đáy xem nhãn mác. Janet còn nâng cả cái gạt tàn bằng thủy tinh lên. Có hai đầu mẩu thuốc giụi trong đó. Cô ấy giơ nó lên soi xem có tìm được dấu hiệu gì không, làm như sẽ phát hiện được nó do Nữ hoàng Elizabeth gửi tặng vậy. Tôi không nhịn được cười. Ồ, biết đâu đấy, Janet hạ giọng mà vẫn nghe the thé. Cô ấy có điệu hất tóc sang một bên mà hầu như không xê dịch đầu. Cô ấy đặt lại chiếc gạt tàn lên bàn và khẽ hít hà như muốn nói, Tin nổi không cơ chứ. Cô lại hất tóc rồi liếc sang Jacqueline. Giữa họ có thứ ngôn ngữ của phụ nữ da trắng, tôi đã chứng kiến đủ nhiều nên nhận ra ngay, cái ánh mắt hơi liếc sang bên, cái nhìn chằm chằm trong giây lát, rồi quay đi. Họ có hàng mấy thế kỷ tập luyện động tác này - tôi lấy làm lạ là sao có những người không bị đông cứng lại trong cái liếc ấy.

Tôi đưa mắt về phía bếp, nhưng Claire vẫn ở sau cánh cửa lá sách - tôi có thể nhìn thấy cái dáng gầy guộc của chị ấy, đang tất bật lấy thêm đá. Tiếng bật khay đá. Tiếng vòi nước chảy.

— Tôi ra ngay đây, - giọng chị ấy vọng ra từ trong bếp.

Janet đứng dậy rón rén bước tới chỗ bức chân dung trên tường. Ông ta được vẽ y như thật, người chồng chị ấy, y như hình chụp, đang ngồi trong một chiếc ghế kiểu cổ, mặc áo vét và thắt cà vạt. Đây là loại tranh không dễ gì nhìn ra nét cọ. Ông ta đang nhìn chúng tôi một cách nghiêm nghị. Đầu hói, mũi nhọn, và một cái đinh râu nhỏ ở cổ. Janet lướt tới cạnh bức chân dung và nhăn mặt. Trông như ông ta bị cái gậy chọc vào mông ý, cô ấy thì thầm. Nghe buồn cười nhưng mà đúng thế thật, nhưng tôi vẫn thon thót khi nghĩ tới Claire có thể bước ra từ bếp bất cứ lúc nào. Tôi tự nhủ, Đừng nói gì, đừng nói gì, đừng nói gì. Janet bước hẳn sang sờ lên khung tranh. Marcia thì nở một nụ cười tinh quái. Jacqueline cắn môi. Cả ba người bọn họ đều đang sắp sửa cười phá lên.

Bàn tay Janet dịch lên dọc khung tranh rồi lởn vởn chỗ đùi ông ta. Marcia ngồi phịch xuống ghế mà bưng miệng như đang xem trò vui nhất trên đời. Jacqueline thì thào: “Đừng có trêu anh chàng tội nghiệp đấy chứ.”

Có tiếng suỵt, rồi cả tràng rúc rích. Tôi tự hỏi sẽ thế nào nếu tôi là người đứng dậy và chạm vào gối ông ta, lướt tay dọc chân ông ta - tưởng tượng mà xem - nhưng tất nhiên tôi chỉ ngồi bám rễ trên ghế.

Chúng tôi nghe thấy tiếng đẩy cửa và Claire bước ra, một bình nước đá to trên tay.

Janet lùi xa khỏi bức vẽ, Marcia trở lại ghế và giả bộ ho, còn Jacqueline thì châm một điếu thuốc khác. Claire đưa đĩa về phía tôi. Hai chiếc bánh vòng và ba chiếc bánh rán, một phủ đường chảy, một rắc đường, một để trơn.

— Chị Claire ạ, tôi mà ăn thêm một cái bánh rán nữa thôi, - tôi cất tiếng, - thì người khéo tràn cả ra phố mất.

Câu nói đó chẳng khác nào mở nút hơi cho quả bóng bay quanh phòng. Tôi không có ý pha trò nhưng xem ra thì đúng là thế, cả phòng thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi nhanh chóng chuyện trò trở lại, mặt mày nghiêm túc, thật sự, đó là những tâm sự chân thật và cảm động về con trai của chúng tôi, chúng là người thế nào, chúng chiến đấu vì cái gì. Chiếc đồng hồ trên giá cạnh tủ sách kêu những tiếng tích tắc đều đặn. Và rồi Claire dẫn chúng tôi qua hành lang, qua những bức tranh và bằng đại học, tới phòng con trai chị ấy.

Chị ấy đẩy cửa mở như thể đó là lần đầu tiên suốt nhiều năm qua. Cánh cửa kêu cọt kẹt và đu đưa quanh bản lề.

Căn phòng chừng như đã lâu không có ai động đến. Bút chì, gọt bút chì, giấy tờ, sơ đồ bóng chày. Hàng dãy sách trên giá. Một cái bàn gỗ sồi cao lêu đêu. Một áp phích hình Mickey Mantle trên đầu giường. Một vệt nước rỉ trên trần nhà. Ván sàn cọt kẹt. Tôi hơi ngạc nhiên vì căn phòng khá nhỏ, chỉ vừa đủ chỗ cho năm chúng tôi. “Để tôi mở cửa sổ,” Claire nói. Tôi thận trọng ngồi xuống phía cuối giường, chỗ vững chãi nhất - tôi không muốn nó kêu cót két. Rồi tôi chống tay xuống đệm giữ cho nó khỏi nhấp nhô rồi ngả người dựa tường, cảm nhận cái mát rượi của tường thạch cao. Janet ngồi trong cái ghế túi - cô ấy hầu như chẳng làm nó lún xuống mấy tí - Marcia và Jacqueline ngồi ở mép giường bên kia, còn Claire thì chọn cái ghế nhỏ màu trắng cạnh cửa sổ đang đón gió.

— Đây rồi, - chị ấy nói.

Giọng chị ấy nghe như chúng tôi đã về đích sau một cuộc hành trình dài.

— Ồ, thật tuyệt, - Jacqueline nói.

— Đúng thế, - Marcia phụ họa.

Chiếc quạt trần quay, bụi rơi xuống chúng tôi như bầy muỗi nhỏ. Trên kệ tủ có rất nhiều chi tiết radio, bảng điện với dây điện lòng thòng. Những bộ pin lớn. Ba cái màn hình, đằng sau mở tung, đèn điện tử phơi cả ra.

— Thằng bé thích ti vi nhỉ? - tôi nói.

— Ồ, chúng là bộ phận máy tính, - Claire đáp.

Chị ấy với tay nhấc bức hình con trai đặt trong một khung ảnh bằng bạc ở trên bàn lên, chuyền cho mọi người xem. Cái khung nặng và có mác SẢN XUẤT Ở ANH trên tấm nhung lót đằng sau. Trong ảnh Joshua còn là cậu bé da trắng gầy nhom cằm lấm tấm mụn. Đeo kính râm, để tóc ngắn. Ánh mắt nhìn vào ống kính xem chừng không tự nhiên. Nó cũng không mặc đồng phục. Chị ấy nói bức ảnh được chụp trước lễ tốt nghiệp cấp ba, khi nó là đại biểu học sinh lên đọc diễn văn. Jacqueline lại liếc xéo nhưng Claire không để ý - từng lời kể về con trai dường như làm nụ cười lan tỏa khắp gương mặt chị ấy. Chị ấy nhấc quả cầu tuyết trên bàn lên và xóc. Quả cầu từ Miami, hẳn là quà của ai đó thích đùa, tôi nghĩ, muốn tuyết rơi ở Florida sao?

Nhưng khi chị ấy lộn ngược nó lên, cảm giác như có một lực hút khác trên thế giới: chị ấy đợi cho các bông tuyết nhỏ xíu lắng hết xuống rồi lật ngược nó lại. Vừa làm chị ấy vừa kể cho chúng tôi nghe mọi chuyện về Joshua, nó học ở đâu, chơi piano nó thích những nốt nào, nó cống hiến gì cho đất nước, rằng nó đã đọc toàn bộ sách trên giá, rồi nó tự tạo ra chiếc máy làm tính cộng ra sao, nó đến trường, nó chơi thể thao - chàng trai ấy xem chừng du hành mặt trăng cũng thừa khả năng.

Tôi từng hỏi chị ấy liệu có khi nào chị nghĩ Joshua và mấy đứa con tôi thành bạn của nhau không, chị ấy trả lời là có, nhưng tôi biết chẳng có khả năng nào ngoài cái sự thật đau đớn kia.